Hệ thống 1 được thiết kế tương đối vội vã, sơ sài, vì thế việc nó đưa ra những kết luận không chính xác là điều có thể hiểu được. Sở dĩ các kết luận mà chúng ta rút ra không được chính xác hoặc thậm chí là sai lầm là do nó dựa trên những cơ sở không đáng tin cậy hoặc quá vội vàng, do quy tắc WYSIATI chỉ đưa ra những bằng chứng kiểm chứng, thẩm định được. Cũng như thế, câu chuyện mà Hệ thống 1 và Hệ thống 2 đã xây dựng rất chặt chẽ, logic vì nó dựa trên niềm tin và các quan điểm nhất quán. Số lượng dấu hiệu không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng của câu chuyện, sự lôi cuốn và hấp dẫn có được là nhờ vào dấu hiệu đặc biệt nào đó, thậm chí có thể là dấu hiệu không tốt. Vì thế, quan điểm, cách nhìn nhận vấn đề của chúng ta, phụ thuộc vào chính bản thân chúng ta, hoặc có chăng là nó bị chi phối bởi những người chúng ta thực sự yêu thương và đồng tình với điều đó. Đôi khi quan điểm và cách nhìn nhận vấn đề của chúng ta bị coi là lố bịch, khác thường trong mắt người khác nhưng điều đó không quan trọng nếu chúng ta thực sự kiên định, quả quyết và tin vào cảm nhận của chính mình.
ẢO TƯỞNG VỀ SỰ VỮNG CHẮC
Nhiều thập niên trước đây, khi tôi còn đang thực hiện nghĩa vụ quân sự đối với quốc gia trong quân đội Israel, tôi đã quan sát các nhóm binh sĩ nhễ nhại mồ hôi khi họ đang giải quyết một bài toán dưới cái nắng như thiêu như đốt. Thời điểm đó, tôi vừa mới hoàn thành chương trình cử nhân Tâm lý học của quân đội, nên sau một năm với vai trò là một sĩ quan bộ binh, tôi đã được phân về Sở Tâm lý học của quân đội. Một trong những nhiệm vụ của tôi là hỗ trợ trong việc lựa chọn ra các ứng viên cho khóa võ bị. Chúng tôi đã học hỏi và tận dụng các phương pháp quân đội Hoàng gia Anh đã sử dụng trong Thế chiến thứ II.
Một bài sát hạch được gọi là “thử thách nhóm không có người lãnh đạo,” đã được tiến hành trên một sân tập tổng hợp. Tám ứng viên tháo toàn bộ quân hàm, chỉ được đánh số để nhận diện và tất nhiên là họ hoàn toàn xa lạ với nhau. Họ được giao việc nâng một khúc gỗ dài từ mặt đất và đẩy nó vào một bức tường cao khoảng 1.8 mét. Toàn bộ nhóm cần phải sang được phía bên kia của bức tường mà không để cho khúc gỗ tiếp xúc với cả mặt đất lẫn bức tường, thậm chí không một ai trong số họ được chạm vào bức tường. Nếu vi phạm các nội quy đưa ra, họ phải ngừng cuộc chơi ngay lập tức và phải bắt đầu lại từ đầu.
Có nhiều lời giải cho bài toán hóc búa này. Cách thông thường nhất mà cả đội áp dụng đó là một số thành viên giữ khúc gỗ ở tư thế nằm nghiêng giống như một chiếc cần câu cá khổng lồ để cho những thành viên còn lại có thể trườn trên khúc gỗ đó băng sang bên kia tường. Một phương pháp có thể giải quyết được tình huống này đó là một vài thành viên có thể trèo lên vai của người còn lại và nhảy qua tường. Sau đó những người đã nhảy được qua tường sẽ giữ khúc gỗ ở tư thế nằm nghiêng để người cuối cùng có thể nhảy lên khúc gỗ và trườn qua bức tường. Thường thì đây sẽ là bước khó khăn nhất đối với toàn đội và họ hay vi phạm nội quy và phải tiến hành lại từ đầu khi thực hiện bước cuối cùng này. Tôi và một đồng sự đã giám sát chặt chẽ tám thành viên tham gia. Chúng tôi ghi chú rất rõ ràng công việc từng thành viên đảm nhiệm và thực hiện ra sao, thành viên nào đã nỗ lực thể hiện khả năng lãnh đạo nhưng bị từ chối, từng thành viên đã nỗ lực, đóng góp công sức vào sứ mệnh của cả nhóm như thế nào. Đồng thời chúng tôi cũng quan sát để nhận định nét tính cách riêng biệt của từng thành viên như ngoan cố, dễ phục tùng, ngạo mạn, kiên nhẫn, nóng tính, kiên trì, hoặc thậm chí là đào ngũ. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đôi khi có thành viên phản ứng rất mạnh mẽ và thậm chí là nhiếc móc đồng đội của mình bởi lẽ chỉ vì lỗi của anh ta mà cả nhóm đã phải nhận lấy thất bại. Và khi cả nhóm đã mệt lử nhưng vẫn phải bắt đầu lại nhiệm vụ thì có một thành viên sẽ đứng ra để lãnh đạo, lấy lại tinh thần cho cả nhóm. Thông qua việc quan sát kỹ lưỡng này, chúng tôi nhận ra rằng: Mỗi thành viên có những nét tính cách rất khác nhau, mỗi người là một màu sắc riêng biệt góp phần vẽ nên bức tranh đa sắc màu của toàn đội. Sau khi quan sát các thành viên nỗ lực, cố gắng thực hiện một nhiệm vụ được giao phó, chúng tôi phải đưa ra những nhận định, tổng kết về khả năng lãnh đạo và ý chí quyết tâm của từng người bằng cách cho một điểm số nhất định. Những người đáp ứng được yêu cầu coi như đủ điều kiện để tham gia vào khóa võ bị. Chúng tôi dành thời gian để thảo luận từng trường hợp và cân nhắc lại những ấn tượng của mình. Nhiệm vụ không mấy phức tạp, bởi chúng tôi nhận thấy mình đã hoàn toàn thấy được những khả năng lãnh đạo của từng quân nhân. Một vài người nhìn có vẻ như là những nhà lãnh đạo quyết đoán, số khác dường như là những kẻ yếu đuối hoặc ngạo mạn tới ngu xuẩn, số khác nữa thì bình thường nhưng không đến nỗi vô vọng. Chỉ rất ít người trông có vẻ yếu đuối tới nỗi chúng tôi đã loại bỏ họ ra khỏi vị trí ứng viên cho hàm sĩ quan. Khi các tổ hợp quan sát của chúng tôi về từng ứng viên cùng hướng về một câu chuyện mạch lạc, chúng tôi đã hoàn toàn tin tưởng ở những đánh giá của mình và cảm thấy rằng những gì chúng tôi được quan sát đã vạch rõ về tương lai một cách trực tiếp. Người quân nhân đã giành lấy quyền kiểm soát khi nhóm gặp rắc rối và dẫn dắt cả đội vượt qua bức tường là một vị chỉ huy ở thời điểm đó. Phỏng đoán cụ thể nhất về việc anh ta sẽ thể hiện như thế nào trong khóa huấn luyện, hoặc trên mặt trận, đó là anh ta sẽ tạo ảnh hưởng như anh ta đã thể hiện tại bức tường. Bất cứ sự dự đoán nào khác đều có vẻ như đi ngược lại với căn cứ có ở trước mắt chúng tôi.
Bởi ấn tượng của chúng tôi về việc mỗi quân nhân đã thể hiện tốt nhường nào nhìn chung là mạch lạc và rõ ràng, các dự đoán chính thức của chúng tôi cũng định rõ như vậy. Một dấu hiệu duy nhất thường nảy ra trong đầu và chúng tôi hiếm khi nào trải qua những nghi ngờ hay định hình những ấn tượng đối lập. Chúng tôi đã rất mong muốn được bày tỏ: “Người này sẽ không bao giờ làm được điều đó”, “Anh chàng đó cũng xoàng thôi, nhưng anh ta sẽ làm tốt đấy,” hoặc “Cậu ấy sẽ là một ngôi sao.” Chúng tôi cảm thấy không cần phải nghi ngờ những dự đoán của mình, tiết chế chúng hoặc nói lập lờ. Tuy nhiên, nếu có bị nghi ngờ thì chúng tôi cũng đã được chuẩn bị sẵn để mà thừa nhận, “nhưng mọi thứ đều có thể xảy ra.” Chúng tôi sẵn sàng đưa ra lời thừa nhận đó, mặc cho những ấn tượng rõ ràng về từng ứng viên riêng lẻ, chúng tôi chắc chắn biết rằng những dự đoán của chúng tôi phần lớn là vô ích.
Dấu hiệu mà chúng tôi không thể dự báo chính xác sự thành công là sự vượt trội. Cứ một vài tháng, chúng tôi có một cuộc họp phản hồi ý kiến, tại đó chúng tôi được biết các học viên dự bị sĩ quan đã thể hiện như thế nào tại trường võ bị và có thể so sánh đánh giá của chúng tôi với ý kiến của các sĩ quan chỉ huy, những người đang theo dõi họ trong một khoảng thời gian. Câu chuyện luôn luôn tương tự nhau: Năng lực dự đoán của chúng tôi về biểu hiện ở trường chẳng ăn nhập gì cả. Những dự báo của chúng tôi tốt hơn những phỏng đoán mù quáng, nhưng cũng không khá hơn là bao.
Chúng tôi đã thất vọng đôi chút sau khi nhận được thông tin nản lòng ấy. Nhưng đây là quân ngũ. Hữu dụng hay không, đó là một vòng tuần hoàn cần tuân thủ và ra lệnh để được tuân lệnh. Một đợt các ứng viên khác đã tới vào ngày kế tiếp. Chúng tôi đưa họ tới sân tập liên hợp, để họ đối mặt với bức tường, họ nâng khúc gỗ lên và chỉ trong vài phút chúng tôi đã thấy bản chất thực sự của họ bộc lộ rõ ràng như những lần trước. Sự thực buồn thảm về chất lượng các dự đoán của chúng tôi không hề có lấy một chút hiệu lực trong việc chúng tôi đã đánh giá các ứng viên và rất ít tác dụng trong sự quả quyết mà chúng tôi đã nhận thấy trong các phán quyết của mình và các nhận định về các cá nhân.
Điều đã xảy ra là điều đáng nhớ. Toàn bộ căn cứ cho thấy thất bại trước của chúng tôi hẳn đã làm lung lay sự quả quyết của chúng tôi trong các phán quyết về những ứng viên, nhưng điều đó đã không xảy ra. Điều này cũng có thể khiến chúng tôi tiết chế những dự đoán của mình, nhưng nó cũng không xảy ra. Chúng tôi đã biết được như một thực tế chung rằng các dự đoán của chúng tôi chỉ khá hơn những phỏng đoán ngẫu nhiên một chút nhưng chúng tôi đã vẫn tiếp tục có cảm tưởng và hành động như thể từng dự đoán cụ thể của chúng tôi là đúng đắn. Tôi được gợi nhớ tới ảo ảnh Müller-Lyer, ở đó chúng ta biết các đường thẳng có cùng độ dài nhưng vẫn thấy chúng như thể có những độ dài khác nhau. Tôi bị ấn tượng nhiều với sự tương đồng mà tôi đã đặt ra một thuật ngữ cho trải nghiệm của chúng tôi: Ảo tưởng về sự vững chắc.
Tôi đã khám phá ra ảo tưởng nhận thức đầu tiên của mình.
Nhiều thập niên sau, tôi có thể thấy được nhiều chủ đề trọng tâm trong tư tưởng của mình và trong cuốn sách này từ chính câu chuyện cũ ấy. Những sự kỳ vọng của chúng tôi đối với thành tích tương lai của các quân nhân là một minh chứng rõ ràng về sự thay thế và về miêu tả nghiên cứu thực nghiệm cụ thể. Tiến hành quan sát trong một giờ về hành vi của một quân nhân trong một tình thế giả tưởng, chúng tôi nhận thấy chúng tôi biết được anh ấy sẽ đối mặt với những thử thách như thế nào trong trường võ bị và khả năng lãnh đạo trên chiến trường. Những dự đoán của chúng tôi hoàn toàn không có đường lui – chúng tôi không hề có chút dè dặt nào về việc dự đoán thất bại hay thành công từ các dấu hiệu không thuyết phục. Đây là một minh chứng cụ thể về WYSIATI. Chúng tôi có những ấn tượng thuyết phục về hành vi mà chúng tôi đã quan sát được và không cách nào khác để bày tỏ thái độ hờ hững của chúng tôi đối với những tác nhân mà xét cho cùng sẽ xác định các ứng viên thể hiện tốt như thế nào với vai trò một sĩ quan.
Nhìn lại, phần gây chú ý nhất của câu chuyện chính là sự hiểu biết của chúng tôi về quy tắc chung nhất: Chúng tôi không thể dự đoán – không hề có tính vững chắc trong sự quả quyết của chúng tôi ở từng trường hợp đơn lẻ. Giờ đây tôi có thể thấy được rằng phản ứng của chúng tôi tương tự như các sinh viên của Nisbett và Borgida khi họ được cho biết rằng hầu hết mọi người đều không giúp đỡ một người lạ đang lên cơn nhồi máu cơ tim. Họ đã tin chắc vào những con số thống kê mà họ được cho thấy, nhưng những hệ số gốc đã không chi phối sự phán quyết của họ về việc liệu rằng một cá nhân mà họ quan sát trên băng video sẽ có thể hoặc sẽ không giúp đỡ một người lạ mặt. Cũng giống như Nisbett và Borgida đã chỉ ra, người ta thường miễn cưỡng suy ra cái riêng từ cái chung.
Sự tin tưởng một cách chủ quan vào một phán quyết không phải là một sự đánh giá hợp lý về khả năng có thể xảy ra mà chính bản thân sự xét định là chính xác. Sự tin tưởng là một cảm giác, thứ phản ánh tính mạch lạc của thông tin và sự nhận thức rõ ràng về quá trình tạo ra nó. Thật sáng suốt khi thừa nhận về tình trạng bất định một cách nghiêm túc, nhưng những tuyên bố về niềm tin tuyệt đối phần lớn cho bạn biết rằng một cá nhân khi đã xây dựng nên một câu chuyện mạch lạc trong tâm trí mình, thì không nhất thiết câu chuyện đó phải chính xác.
ẢO TƯỞNG VỀ KỸ NĂNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
Vào năm 1984, tôi, Amos và người bạn của chúng tôi Richard Thaler đi thăm một công ty ở Phố Wall. Vị chủ nhà của chúng tôi, một nhà quản lý đầu tư cao cấp, đã mời chúng tôi tới để thảo luận về vai trò của các sai lệch xét định trong hoạt động đầu tư. Tôi biết khá ít về tài chính tới nỗi tôi thậm chí không biết phải hỏi ông ấy điều gì, nhưng tôi nhớ đã có một cuộc tranh luận. “Khi ông bán một cổ phần,” tôi hỏi, “ai sẽ là người mua chúng?” Ông ấy đã trả lời với một cái phẩy tay mơ hồ về hướng cửa sổ, ngụ ý rằng ông kỳ vọng người mua là một ai đó giống như mình. Điều đó thật kỳ cục. Điều gì khiến một người mua và người kia bán? Điều gì đã khiến những người bán nghĩ rằng họ biết chắc những người mua đã không làm như vậy?
Từ đó tới nay, những câu hỏi của tôi về thị trường chứng khoán đã được đúc kết trong một vấn đề phức tạp chính yếu: Một lĩnh vực chủ chốt được xây dựng với quy mô lớn xem ra lại dựa trên một ảo tưởng về kỹ năng. Hàng tỉ cổ phiếu được giao dịch mỗi ngày, với rất nhiều người mua vào và những người khác bán chúng cho họ. Điều đó không có gì lạ đối với hơn 100 triệu cổ phiếu của một cổ phần đơn lẻ được chuyển nhượng trong một ngày. Phần lớn những người mua và người bán biết rằng họ có cùng một nguồn tin, họ mua bán các cổ phần trước hết là bởi họ có những quan điểm khác nhau. Những người mua nghĩ rằng mức giá đang quá thấp và có vẻ như sẽ tăng, trong khi những người bán nghĩ rằng mức giá hiện đang cao và có vẻ sẽ rớt giá. Vấn đề nan giải ở đây đó là tại sao những người mua và những người bán giống nhau lại nghĩ rằng mức giá hiện tại đang không ở mức nó phải đạt. Điều gì khiến họ tin rằng họ biết nhiều về việc mức giá lẽ ra phải cao hơn mức thị trường tới đâu? Đối với hầu hết bọn họ, niềm tin là một sự ảo tưởng.
Trên những nét chính, giả định thường thấy của các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán được đảm trách như thế nào bởi những người tham gia vào lĩnh vực này. Tất cả mọi người hoạt động trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh đều đã đọc cuốn sách tuyệt vời của Burton Malkiel có tên Bước đi ngẫu nhiên trên phố Wall. Tư tưởng trọng tâm của Malkiel đó là trị giá của một cổ phần là sự kết hợp chặt chẽ của tất cả những hiểu biết hiện có về giá trị của công ty với những dự báo tốt nhất về tương lai của cổ phần. Nếu ai đó tin rằng trị giá của cổ phiếu sẽ cao hơn vào ngày mai, họ sẽ mua cổ phiếu ấy nhiều hơn vào ngày hôm nay. Chính điều này, trong sự tác động trở lại, sẽ dẫn tới việc giá của cổ phiếu đó tăng lên. Nếu tất cả trị giá trên thị trường được định giá đúng, không ai có thể nghĩ rằng mình thu lời hay thua lỗ thông qua hoạt động mua bán cả. Giá cả lý tưởng không chừa lại cơ hội cho sự láu cá, nhưng chúng cũng bảo vệ những kẻ khờ khạo bởi chính sự dại dột của mình. Tuy nhiên, chúng ta giờ đây biết rằng lý thuyết trên không còn đúng hoàn toàn nữa. Rất nhiều nhà đầu tư cá nhân thua lỗ liên miên bởi việc mua bán, một thành tích ngay cả quyết định năm ăn năm thua cũng không thể đạt được. Chứng minh đầu tiên cho kết luận đáng ngạc nhiên này đã được suy ra bởi Terry Odean, một giảng viên tài chính tại Đại học California – Berkeley – người đã từng là sinh viên của tôi.
Odean đã khởi đầu bằng việc nghiên cứu những ghi chép về giao dịch của 10.000 tài khoản môi giới cho các nhà đầu tư cá nhân trong một khoảng thời gian kéo dài bảy năm. Cậu ta đã có thể phân tích mọi giao dịch mà các nhà đầu tư đã thực hiện thông qua công ty đó, gần 163.000 thương vụ. Chính nguồn cơ sở dữ liệu phong phú này đã cho phép Odean nhận diện tất cả các trường hợp trong đó một nhà đầu tư đã bán một vài cổ quyền trong một cổ phần của mình và ngay sau đó lại mua một cổ phần khác. Qua những hoạt động này nhà đầu tư đã nhận ra rằng ông ta (phần lớn các nhà đầu tư là đàn ông) có một ý niệm rõ ràng về tương lai của hai cổ phần: Ông ta kỳ vọng cổ phần mà mình lựa chọn để mua vào sẽ tốt hơn cổ phần mà ông ta đã chọn để bán đi.
Để xác định liệu rằng những ý định này có chắc chắc không, Odean đã so sánh phần cổ tức của cổ phần mà nhà đầu tư đã bán đi và cổ phần mà ông ta đã mua thay cho cái đã bán, qua quá trình một năm sau cuộc giao dịch, các kết quả rõ ràng là rất tồi tệ. Nói chung, những cổ phiếu mà các nhà giao dịch cá nhân bán đi thường tốt hơn những thứ họ mua vào, bởi một tỷ lệ chênh lệch khá lớn: 3.2 điểm phần trăm mỗi năm, trên và ngoài các chi phí đáng kể của việc thực hiện hai giao dịch.
Điều quan trọng cần phải nhớ rằng đây là một báo cáo về các mức trung bình: Một vài cá nhân đã đầu tư hiệu quả hơn, số khác đã làm tệ hơn. Tuy nhiên, rõ ràng đối với số lượng lớn các nhà đầu tư cá nhân, việc có một người chỉ dẫn và chẳng làm gì cả có thể sẽ là một hành động khôn ngoan hơn là việc thực thi các ý tưởng nảy ra trong đầu của họ. Nghiên cứu về sau được tiến hành bởi Odean và đồng sự của mình là Brad Barber đã củng cố thêm cho kết luận này. Trên một bài báo có tiêu đề Việc buôn bán có hại cho sức khỏe của bạn, họ đã chỉ ra rằng, nhìn chung, hầu hết các hoạt động mua bán thường thu về những kết quả nghèo nàn nhất. Trên một bài báo khác có nhan đề Mèo lại hoàn mèo,17 họ đã cho thấy rằng đàn ông thường hành động dựa trên phần nhiều những ý tưởng không đem lại kết quả tốt đẹp hơn là phụ nữ, và rằng như một hệ quả phụ nữ đạt được nhiều thành tựu đầu tư hơn đàn ông.
Dĩ nhiên, vẫn luôn có những người ở bờ bên kia của mỗi giao dịch; nói chung, đó là những tổ chức tài chính và các nhà đầu tư chuyên nghiệp, những người luôn sẵn sàng tận dụng lợi thế từ những sai phạm mà các nhà giao dịch cá nhân phạm phải trong việc lựa chọn một cổ phần để bán ra và một cổ phần khác để mua vào. Nghiên cứu bổ sung được tiến hành bởi Barber và Odean đã làm sáng tỏ những sai phạm này. Các nhà đầu tư cá nhân thích được gắn chặt trong nhóm lợi ích của mình bằng việc nhượng lại “những thành công”, các cổ phần đã được đánh giá cao kể từ khi chúng được mua, và chúng đã bám riết lấy những kẻ thất bại của chúng. Thật không may cho họ, những người thành công gần đây có xu hướng làm tốt hơn những người thất bại trong ngắn hạn, do đó các cá nhân đã bán ra những cổ phần không phù hợp. Họ cũng mua cả những cổ phần không xác thực. Các nhà đầu tư cá nhân có thể dự đoán được là sẽ kéo tới các công ty đã thu hút được sự chú ý của họ bởi họ nắm tin tức trong tay. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp có xu hướng chọn lọc kỹ càng hơn trong việc hưởng ứng thông tin. Những phát hiện này cung cấp một vài minh chứng cho cái nhãn “đồng tiền khôn khéo” mà các chuyên gia tài chính áp dụng cho chính bản thân họ.
Mặc dù các chuyên gia có thể bòn rút được một số lượng của cải đáng kể từ các tay nghiệp dư, một vài tay đầu cơ chứng khoán, nhưng vẫn không có được kỹ năng cần thiết để vượt xa thị trường ổn định, năm này qua năm khác. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp, bao gồm cả các nhà quản lý quỹ, đã thất bại ngay ở bài kiểm tra kỹ năng cơ bản: Thành công liên tục. Phỏng đoán về sự tồn tại của bất cứ kỹ năng nào chính là sự đồng nhất của các sai biệt cá nhân trong thành tựu đạt được. Tính logic ở đây rất đơn giản: Nếu những sai biệt cá nhân trong bất cứ một năm nào là hoàn toàn do may mắn, thứ hạng của các nhà đầu tư và các quỹ sẽ biến đổi thất thường và mối tương quan giữa năm này với năm khác sẽ trở về số không. Tuy nhiên, trong trường hợp có kỹ năng, các thứ hạng sẽ ổn định hơn. Tính ổn định của các sai biệt cá nhân là thước đo qua đó chúng ta xác thực sự tồn tại của kỹ năng trong số các tay gôn, nhân viên kinh doanh xe hơi, nha sĩ hay viên chức thu phí cầu đường trên xa lộ.
Phần lớn các quỹ được vận hành bởi những chuyên gia dày dạn kinh nghiệm và làm việc chăm chỉ, những người mua và bán các cổ phần nhằm đạt được những kết quả khả thi nhất cho các khách hàng của họ. Tuy nhiên, căn cứ từ hơn năm mươi năm nghiên cứu đi đến kết luận rằng: Đối với một lượng lớn các nhà quản lý quỹ, việc chọn lựa cổ phần giống như lăn con xúc xắc hơn là chơi poker. Thông thường có ít nhất hai trong số ba quỹ viện trợ củng cố cho toàn thể thị trường trong bất cứ năm nào.
Quan trọng hơn, mối tương quan năm này sang năm khác giữa những tác động của các quỹ viện trợ là không đáng kể, ít khi vượt quá con số không. Các quỹ thành công trong bất cứ năm nào phần lớn là nhờ may mắn; họ đã có một lượt gieo xúc xắc không tồi. Có một sự thống nhất giữa những nhà nghiên cứu đó là gần như tất cả những tay đầu cơ chứng khoán dự đoán liệu rằng họ có biết được điều đó hay không – và một số ít bọn họ – đang chơi một canh bài may rủi. Kinh nghiệm chủ quan của các thương nhân đó tạo ra những phỏng đoán hợp lý được tôi luyện trong một tình trạng vô cùng bất định. Tuy nhiên, trên những thị trường có hiệu suất cao, các phỏng đoán được tôi luyện này không còn chính xác nhiều so với dự đoán mò.
Một vài năm trước, tôi đã có một cơ hội đặc biệt để nghiên cứu ảo tưởng về kỹ năng tài chính thiển cận. Tôi được mời tới nói chuyện với một nhóm các nhà tư vấn đầu tư tại một công ty chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và một số dịch vụ khác cho những khách hàng rất giàu có. Tôi đã yêu cầu một số dữ liệu để chuẩn bị cho bài thuyết trình của mình và đã được đáp ứng với một kho báu nho nhỏ: Một bản tổng kết các kết quả đầu tư của hơn 25 cố vấn tài sản ẩn danh, cho từng năm một trong suốt tám năm liên tục. Thành tích của từng vị cố vấn hàng năm chính là yếu tố quyết định chính tới số lợi tức cộng thêm vào cuối năm của anh ta (hầu hết bọn họ là đàn ông). Việc xếp hạng các vị cố vấn là một việc đơn giản dựa trên thành tích của họ trong từng năm và để xác định xem liệu có những sự khác biệt liên tiếp về kỹ năng trong số bọn họ và liệu rằng cùng những vị cố vấn ấy họ có đạt được khoản lãi nhiều hơn cho khách hàng của mình liên tục hết năm này tới năm khác hay không.
Để trả lời cho câu hỏi này, tôi đã tính các hệ số tương quan giữa những thang bậc trong từng cặp hai năm một: Năm thứ nhất với năm thứ hai, năm thứ nhất với năm thứ ba, và cứ như vậy cho tới năm thứ bảy và năm thứ tám. Điều này mang lại 28 cặp hệ số tương quan, cho mỗi cặp năm. Tôi biết được nguyên lý và đã được chuẩn bị để phát hiện ra dấu hiệu yếu kém trong tính ổn định của kỹ năng. Tuy nhiên, tôi đã ngạc nhiên khi thấy rằng hệ số trung bình của 28 cặp tương quan đều là 0.01. Nói một cách khác thì là số 0. Các mối tương quan nhất quán này có thể biểu thị những sự khác biệt về kỹ năng đã không được tìm thấy. Các kết quả giống như những gì bạn mong chờ từ một cuộc thi gieo súc sắc, không phải một trò thi thố kỹ năng.
Không ai trong công ty có biểu hiện như thể đã nhận thức được bản chất của trò chơi mà những tay đầu cơ chứng khoán đang tham dự. Bản thân các nhà cố vấn cũng cảm thấy mình là những chuyên gia thành thục thực thi một công việc mạo hiểm và những thượng cấp của họ cũng đã tán đồng điều đó. Vào buổi tối trước khi buổi hội thảo diễn ra, Richard Thaler và tôi đã dùng bữa tối với một vài Giám đốc điều hành hàng đầu của hãng, những người quyết định số lượng lợi tức chia thêm. Chúng tôi đã đề nghị họ ước đoán sự tương quan giữa năm này với năm khác trong thứ hạng của các nhà tư vấn cá nhân. Họ đã nghĩ rằng họ biết được điều gì đang xảy ra và đã mỉm cười như thể họ nói “không cao lắm” hoặc “hiệu suất dĩ nhiên sẽ dao động.” Tuy nhiên, mọi việc đã nhanh chóng trở nên rõ ràng rằng không một người nào dự đoán hệ số tương quan bình quân là không.
Thông điệp của chúng tôi đưa ra cho các nhà điều hành đó là, ít nhất khi nó đã chuyển sang lập thành các danh mục đầu tư, công ty đang được hưởng sự may mắn như thể đó là kỹ năng. Điều này có thể là một tin sốc đối với họ, nhưng điều đó đã không xảy ra. Không có chút biểu hiện nào cho thấy họ không tin chúng tôi. Làm thế nào họ có thể như vậy? Sau cùng, chúng tôi đã phân tích các kết quả của chính bọn họ, họ đủ tinh tế để nhìn thấy được những ngụ ý, điều mà chúng tôi đã tránh không giải thích cụ thể một cách lịch sự. Tất cả chúng tôi cùng rơi vào trạng thái yên lặng với bữa tối của mình và tôi thấy không chút nghi ngờ gì nữa rằng tất cả những phát hiện của chúng tôi lẫn sự tinh tế của họ đã nhanh chóng bị phủi sạch dưới tấm thảm và hoạt động tại công ty lại tiếp diễn như trước đó. Sự ảo tưởng về kỹ năng không chỉ là một sự nhầm lẫn cá nhân, mà nó đã ăn sâu vào văn hóa của ngành. Các sự thực thách thức những giả định căn bản – và do vậy nó đe dọa nghề nghiệp của con người và lòng tự trọng – chỉ đơn giản là không được tiếp thu. Trí não đã không chấp nhận chúng. Điều này đặc biệt đúng đối với các nghiên cứu thống kê về hành vi, nó cung cấp thông tin cơ bản mà người ta thường lờ đi khi chúng xung đột với những ấn tượng của cá nhân họ từ sự trải nghiệm.
Sáng hôm sau, chúng tôi thông báo về những phát hiện với các vị cố vấn và phản ứng của họ đều lãnh đạm như nhau. Trải nghiệm của bản thân họ đối với việc thực hiện quyết định một cách cẩn trọng đối với những vấn đề phức tạp hấp dẫn họ hơn nhiều so với một thực tế thống kê khó hiểu. Khi chúng tôi hoàn thành công việc, một trong số các vị Giám đốc điều hành mà tôi đã dùng bữa cùng trong buổi tối ngày hôm trước đã lái xe đưa tôi tới sân bay. Anh ta nói với tôi, với một chút dè dặt: “Tôi đã tận tụy với công ty và không ai có thể cướp nó khỏi tôi.” Tôi đã cười và chẳng nói gì cả. Nhưng tôi nghĩ: “Ồ, tôi đã cướp nó khỏi anh sáng nay rồi. Nếu thành công của anh phần nhiều là bởi may rủi, vậy có bao nhiêu sự tín nhiệm anh đã được nhận cho điều đó?”
ĐIỀU GÌ CỔ VŨ CHO NHỮNG ẢO TƯỞNG VỀ KỸ NĂNG VÀ SỰ CHẮC CHẮN?
Những ảo tưởng liên quan tới nhận thức có thể khó chữa hơn những ảo tưởng thị giác. Điều mà bạn được biết về ảo giác Müller-Lyer đã không thay đổi cách thức bạn nhìn những đường thẳng, nhưng nó đã thay đổi hành vi của bạn. Giờ đây bạn biết được rằng bạn không thể tin vào cảm giác của mình về độ dài của các đường thẳng có các rìa được gắn thêm vào và bạn cũng biết rằng trên hiển thị Müller-Lyer tiêu chuẩn bạn không thể tin vào điều mà bạn trông thấy. Khi được hỏi về độ dài của những đường thẳng, bạn sẽ nói về niềm tin đã được củng cố của mình, không phải ảo tưởng mà bạn vẫn thấy. Ngược lại, khi tôi và các đồng nghiệp của mình trong quân ngũ được thông báo rằng các bài kiểm tra đánh giá khả năng lãnh đạo của chúng tôi không có giá trị gì, chúng tôi đã chấp nhận thực tế về mặt trí não đó, nhưng nó đã không có chút tác động nào đến cảm xúc hoặc những hoạt động kế tiếp của chúng tôi. Phản hồi mà chúng tôi đã gặp phải tại công ty tài chính thậm chí còn tiêu cực hơn. Tôi tin chắc rằng thông điệp mà Thaler và tôi đã truyền tải tới cả các giám đốc điều hành lẫn các nhà quản lý danh mục vốn đầu tư ngay lập tức bị tống khứ vào một góc tối của bộ nhớ nơi chúng có thể sẽ chẳng gây ra thiệt hại gì cả.
Tại sao các nhà đầu tư, cả nghiệp dư lẫn chuyên nghiệp, lại tin tưởng một cách mù quáng rằng họ có thể làm tốt hơn hoạt động của thị trường, trái ngược với một học thuyết kinh tế mà hầu hết bọn họ đều thừa nhận, và đối nghịch với những gì họ có thể rút ra từ một sự đánh giá công tâm bởi kinh nghiệm bản thân của họ? Rất nhiều chủ đề của các chương trước được nêu lên một lần nữa trong cách lý giải về sự phổ biến và bền vững của một ảo tưởng về kỹ năng trong thế giới tài chính.
Căn nguyên đầy sức thuyết phục nhất mang tính tâm lý về ảo tưởng chắc hẳn là những người đang sử dụng các kỹ năng ở trình độ cao. Họ tham khảo dữ liệu kinh tế và các dự báo, họ tham khảo các bản sao kê lợi tức và các bảng cân đối tài chính, họ ước định năng lực quản lý hàng đầu, và họ đánh giá đối thủ cạnh tranh. Tất cả đều là những công việc nghiêm túc đòi hỏi một quá trình đào tạo sâu rộng và những người thực hiện điều đó có sự trải nghiệm sát sườn (và có cơ sở) về việc sử dụng những kỹ năng này. Thật không may, kỹ năng trong việc đánh giá các viễn cảnh kinh doanh của một công ty lại không đủ cho hoạt động chuyển nhượng cổ phần thành công, nơi câu hỏi cốt tử là liệu rằng thông tin về công ty đã ăn khớp với trị giá cổ phần của nó hay chưa. Các nhà giao dịch có vẻ như thiếu mất kỹ năng đặt câu hỏi quyết định này, nhưng họ có vẻ mù tịt về sự mù mờ của mình. Cũng như tôi đã khám phá ra từ việc quan sát các học viên dự bị sĩ quan trên sân tập tổng hợp, sự tin tưởng chủ quan của các nhà giao dịch là một thứ cảm giác, không phải một xét định. Sự nhận thức của chúng tôi về sự tự do trong nhận thức và sự liên hệ kết hợp nằm ở sự tin tưởng chủ quan vững chắc thuộc Hệ thống 1.
Sau cùng, các ảo tưởng về sự vững chắc và kỹ năng được cổ súy bởi một văn hóa nghề nghiệp có tác động mạnh. Chúng tôi biết được rằng người ta có thể nuôi dưỡng một niềm tin không thể lay chuyển ở bất cứ vấn đề nào, dù có ngớ ngẩn thế nào đi nữa, khi chúng được duy trì liên tục bởi một cộng đồng những tín đồ có cùng một khuynh hướng. Dựa vào văn hóa nghề nghiệp của cộng đồng tài chính, chẳng có gì ngạc nhiên khi số lượng lớn các cá nhân trong thế giới quan đó tin rằng bản thân họ nằm trong một số người được chọn – những người có thể làm những điều họ tin rằng người khác không thể.
ẢO TƯỞNG CỦA CÁC HỌC GIẢ
Ý niệm cho rằng tương lai không thể đoán định đã bị ăn mòn từng ngày bởi sự dễ dãi cùng với việc quá khứ được lý giải cặn kẽ. Như Nassim Taleb đã chỉ ra trong cuốn sách Thiên nga đen, xu hướng của chúng ta nhằm thiết lập và tin tưởng vào những câu chuyện mạch lạc về quá khứ khiến cho chúng ta khó có thể chấp nhận những giới hạn trong khả năng dự báo của mình. Mọi thứ đều dễ hiểu trong sự nhận thức muộn, một thực tế rằng các học giả tài chính tận dụng mọi buổi tối với việc họ đưa ra những bản kê đầy thuyết phục về các biến cố trong ngày. Và chúng ta không thể ngăn nổi ý nghĩ mãnh liệt rằng những điều dễ hiểu/hợp lẽ trong nhận thức muộn của ngày hôm nay đã có thể dự đoán được vào ngày hôm qua. Sự ảo tưởng rằng chúng ta hiểu rõ quá khứ cổ súy cho sự tự tin quá mức vào khả năng dự đoán tương lai của chúng ta.
Hình ảnh thường được sử dụng về “tiến trình lịch sử” hàm ý trình tự và đường hướng. Những bước tiến, không giống như những bước dạo hay những bước chân, chúng không phải là ngẫu nhiên. Chúng ta nghĩ rằng mình sẽ có khả năng lý giải quá khứ bằng việc tập trung vào hoặc các xu hướng văn hóa, xã hội lớn và sự phát triển công nghệ hoặc các ý định và năng lực của một vài nhân vật xuất chúng. Ý niệm cho rằng các biến cố lịch sử lớn được định đoạt bởi sự may rủi đã gây sốc hết mức, dù cho điều đó là sự thực rõ ràng. Thật khó để nghĩ về lịch sử của thế kỷ XX, bao gồm những xu hướng xã hội lớn, mà không đề cập tới vai trò của Hitler, Stalin và Mao Trạch Đông. Nhưng đã có một khoảnh khắc, chỉ trước khi noãn được thụ tinh, khi đó có một cơ hội 50-50 rằng phôi thai mà sau này sẽ trở thành Hitler đã có thể là một tính nữ. Cùng với ba biến cố này, có một xác suất 1/8 khả năng về một thế kỷ XX không có bất cứ một ai trong số ba nhân vật 3kể trên và không thể tranh cãi rằng lịch sử cũng sẽ hỗn loạn như vậy trong sự vắng bóng của họ. Sự hoài thai của cả ba nang noãn đã gây ra những hậu quả to lớn, và nó tạo ra một trò cười đối với ý niệm về những sự phát triển dài hạn có thể dự đoán được.
Tuy nhiên, ảo tưởng về sự dự đoán vững chắc vẫn không hề bị suy chuyển, một thực tế đang được khai thác bởi những người có công việc là dự đoán trước được các sự việc – không chỉ những chuyên gia tài chính mà còn cả các học giả trong lĩnh vực kinh doanh và chính trị. Các kênh truyền hình, đài phát thanh và báo chí có các nhóm chuyên gia của họ – những người làm công việc bình luận về biến cố vừa xảy ra và đoán trước tương lai. Khán giả và độc giả có cảm tưởng rằng họ đang được thu thập thông tin mà theo một cách nào đó là một đặc quyền, hoặc ít ra là cực kỳ sâu sắc. Và không chút hoài nghi gì nữa, các học giả và những người ủng hộ họ thành thực tin rằng họ đang cung cấp những thông tin như vậy. Philip Tetlock, một nhà tâm lý học tại trường Đại học Pennsyllvania, đã lý giải thứ được gọi là các dự đoán chuyên gia trong một nghiên cứu bước ngoặt trong vòng 20 năm, nghiên cứu này đã được công bố trong cuốn sách xuất bản năm 2005 của ông có tên Expert Political Judgment: How Good Is It? How Can We Know? (tạm dịch: Các nhìn nhận cách mạng mang tính chính trị của chuyên gia: Chúng có tác dụng ra sao? Làm thế nào chúng ta có thể hiểu được?) Tetlock đã đặt ra các giới hạn cho bất kể sự tranh cãi tương lai nào về chủ đề này.
Tetlock đã phỏng vấn 284 người kiếm sống bằng việc “bình luận hoặc đưa ra lời khuyên về các xu hướng kinh tế – chính trị.” Ông đã đề nghị họ ước định các xác suất mà các biến cố chắc chắn sẽ xảy ra trong khoảng thời gian không quá xa, ở cả những khu vực trên thế giới mà tại đó chúng đã được biết đến lẫn những miền ít được biết tới nhất. Liệu Gorbachev sẽ bị trục xuất trong một hành động táo bạo? Liệu nước Mỹ có tham chiến tại vùng Vịnh Ba Tư? Quốc gia nào sẽ trở thành thị trường nổi trội tiếp theo? Với tất cả các vấn đề, Tetlock đã thu thập hơn 80.000 phỏng đoán. Ông cũng đã hỏi các chuyên gia về việc họ đã đi tới những kết luận của mình bằng cách nào, họ đã phản ứng lại như thế nào khi được chứng minh là họ sai và họ đã đánh giá các căn cứ vốn đã không nghiêng về các luận điểm của họ như thế nào. Các đối tượng điều tra được đề nghị xếp hạng những khả năng có thể xảy ra của ba sự lựa chọn các kết quả trong mọi trường hợp: Sự dai dẳng của tình trạng hiện tại, nhiều hơn một vài thứ như tự do chính trị hoặc tăng trưởng kinh tế, hoặc ít hơn.
Kết quả thu được thật tồi tệ. Các chuyên gia đã thực hiện tồi hơn những gì họ đã có thể làm nếu họ đơn giản chỉ cần định ra các xác suất bằng nhau đối với từng cái một trong số ba kết quả tiềm năng. Nói cách khác, những người nghiên cứu dành thời gian của mình cho một đề tài cụ thể và kiếm sống nhờ vào đó chỉ có thể đưa ra những dự đoán nghèo nàn hơn cả việc những con khỉ ném lao, những con vật đã có thể phân bổ sự lựa chọn của chúng một cách đồng đều đối với các phương án. Ngay cả ở lĩnh vực họ am hiểu nhất, các chuyên gia cũng không biểu hiện tốt hơn những kẻ không chuyên là bao.
Những chuyên gia dự đoán khá hơn chút ít so với những người ít hiểu biết hơn. Nhưng những người tường tận nhất lại thường thiếu chắc chắn. Nguyên do là những ai đạt được nhiều kiến thức hơn sẽ phát triển một ảo tưởng nâng cao về kỹ năng của mình và trở nên tự tin thái quá tới mức vô lý. “Chúng ta đạt tới ngưỡng dự đoán cận biên giảm dần để rồi trở về nhanh chóng với sự hiểu biết đáng xấu hổ”, Tetlock viết. “Trong thời đại học thuật được chuyên môn hóa vượt bậc, không có lý do nào cho giả thiết rằng các cộng tác viên cho các tờ nhật tờ báo – có dáng vẻ của các nhà khoa học chính trị, các chuyên viên nghiên cứu khu vực, các nhà kinh tế học và nhiều hơn nữa – có bất cứ điểm nào vượt trội hơn các phóng viên hoặc những độc giả thường xuyên của Thời báo New York trong việc ‘đọc’ các tình huống mới nảy sinh.” Càng nổi tiếng thì người dự báo càng khoa trương những dự báo của mình, Tetlock đã khám phá ra điều đó. “Các chuyên gia được hỏi ý kiến nhiều,” ông viết, “càng tự tin thái quá hơn các đồng sự của họ – những người đã hòa vào cuộc sống xa rời ánh đèn sân khấu.”
Tetlock cũng phát hiện ra rằng các chuyên gia đã cưỡng lại được việc thừa nhận sai lầm của mình và khi họ bị ép buộc thừa nhận sai lầm, họ đã có sẵn một bộ sưu tập khổng lồ những lời hối tiếc: Chúng đã sai chỉ vào thời điểm đó, một biến cố không nhìn thấy trước đã được can thiệp, hoặc chúng đã sai nhưng với những lý do xác đáng. Nói cho cùng các chuyên gia cũng chỉ là con người. Các chuyên gia đi chệch hướng không phải bởi điều mà họ tin tưởng, nhưng bởi cách họ nghĩ ra sao, Tetlock nói. Ông sử dụng thuật ngữ từ bài tiểu luận của Isaiah Berlin về Tolstoy, “Nhím và Cáo.” Loài nhím “biết một điều quan trọng nhất” và có một học thuyết về thế giới quan; họ ghi chép cặn kẽ các biến cố cụ thể trong một kết cấu rõ ràng, xù lông với sự thiếu kiên nhẫn nhằm thẳng vào những ai không nhìn nhận sự vật theo cách của họ, và tự tin với những dự báo của mình. Họ cũng đặc biệt miễn cưỡng khi phải thừa nhận sai lầm. Đối với loài nhím, một dự báo sai luôn luôn gần như “chỉ là vấn đề thời gian” hoặc “đúng sát nút.” Họ ngoan cố và rành mạch, điều này đích xác là thứ mà các nhà sản xuất chương trình truyền hình yêu thích đã nhìn thấy được trong các chương trình. Hai con nhím ở hai mặt đối lập về một vấn đề, chúng tấn công những ý nghĩ ngớ ngẩn của đối thủ, tạo nên một màn trình diễn thú vị.
Loài cáo, ngược lại, là những kẻ suy nghĩ phức tạp. Họ không tin rằng chỉ có một điều quan trọng điều khiển tiến trình lịch sử (ví dụ, họ không chấp nhận quan điểm rằng Ronald Reagan đã một tay kết thúc cuộc chiến tranh lạnh bằng cách quả cảm và tự tôn chống lại Liên bang Xô Viết). Thay vào đó loài cáo nhận ra rằng thực tế nảy sinh từ những sự tương tác của nhiều tác nhân và nguồn lực khác nhau, bao gồm cả sự may rủi không lường, thường sản sinh ra các kết quả lớn và không dự đoán trước được. Đó chính là những con cáo đã ghi được điểm số tốt nhất trong nghiên cứu của Tetlock, mặc dù sự thể hiện của họ vẫn còn rất nghèo nàn. Họ ít giống những con nhím được mời tham gia vào các cuộc tranh luận trên truyền hình hơn.
ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ LỖI CỦA CÁC CHUYÊN GIA – THẾ GIỚI QUÁ RẮC RỐI
Điểm chính yếu của chương này không phải là về những người cố dự đoán tương lai mắc phải quá nhiều sai lầm; điều đó đã quá rõ ràng. Bài học đầu tiên đó là các sai lầm về sự dự báo là không thể tránh khỏi bởi thế giới quan không thể nói trước được điều gì. Thứ hai đó là niềm tin chủ quan cao độ không được tin cẩn như một dụng cụ đo đạc chính xác (niềm tin ở cấp độ thấp có thể cung cấp nhiều thông tin hơn).
Các xu hướng ngắn hạn có thể dự báo, hành vi và các thành tích có thể được dự đoán với độ chính xác vừa phải từ những hành vi và thành tích trước đó. Nhưng chúng ta không nên trông đợi sự biểu hiện trong khóa huấn luyện sĩ quan và trên mặt trận là có thể dự đoán được từ hành vi trên sân tập đa năng – hành vi trong cả bài kiểm tra vẫn thực tại được xác định bởi nhiều yếu tố đặc trưng với từng trường hợp cụ thể. Điều động một thành viên có tính quyết đoán cao ra khỏi nhóm tám ứng viên và các cá tính khác sẽ bộc lộ sự thay đổi. Hãy để cho viên đạn của tay súng bắn tỉa dịch chuyển vài centimét và sự thể hiện của một sĩ quan sẽ được biến đổi hoàn toàn. Tôi không thể phủ nhận cơ sở vững chắc của tất cả các bài kiểm tra – nếu một bài kiểm tra dự báo một kết quả quan trọng với độ chắc chắn ở mức 0.2 hoặc 0.3, thì bài kiểm tra ấy nên được áp dụng. Nhưng bạn không nên mong đợi quá nhiều. Bạn nên trông đợi ít hơn hoặc không gì cả từ những tay đầu cơ chứng khoán ở Phố Wall những kẻ kỳ vọng tính chính xác nhiều hơn ở thị trường trong việc dự đoán các giá trị tương lai. Và bạn không nên trông đợi quá nhiều ở những học giả lập ra các dự đoán dài hạn – mặc dù họ có thể có những hiểu biết có giá trị trong tương lai gần. Ranh giới phân chia tương lai có thể dự đoán với tương lai xa không thể đoán trước đã được vạch rõ.
BÀN VỀ KỸ NĂNG MƠ HỒ
“Ông ấy biết được rằng hồ sơ đã chỉ ra rằng sự phát triển của chứng bệnh này gần như không thể dự báo trước được. Làm thế nào ông ta có thể tự tin trong trường hợp này tới vậy? Nghe như thể một ảo tưởng về sự chắc chắn vậy.”
“Bà ta có một câu chuyện mạch lạc lý giải tất cả những điều bà ta biết và sự gắn kết khiến bà ta cảm thấy thoải mái.”
“Điều gì khiến ông ấy tin rằng mình thông minh hơn mọi người cơ chứ? Đấy có phải là một ảo tưởng không?”
“Cô ấy là một con nhím. Cô ấy có một giả định lý giải mọi điều và nó mang tới cho cô ấy ảo tưởng rằng mình am hiểu thế giới lắm.”
“Câu hỏi không phải liệu rằng những chuyên gia này có được đào tạo bài bản hay không, mà là việc liệu thế giới của họ có thể dự đoán được hay không.”