Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Hồi Ký Lý Quang Diệu – Tập 1

Chương 19: Cầm Quyền

Tác giả: Lý Quang Diệu
Chọn tập

Đó là một thắng lợi, nhưng tôi chẳng mấy hân hoan. Tôi bắt đầu nhận ra sức nặng của những vấn đề chúng tôi phải đương đầu – thất nghiệp, lòng mong mỏi có được những kết quả nhanh chóng lại quá lớn, sự khuấy đảo của những người cộng sản, thêm nhiều âm mưu lật đổ từ phía các nghiệp đoàn, trường học và các tổ chức, đình công tăng, đầu tư giảm, thất nghiệp nhiều hơn và rối loạn cũng càng lắm. Lim Chin Siong và Fong Swee Suan trong ít lâu nữa sẽ hoạt động trở lại trong khối người Hoa để phá hoại ngầm chúng tôi. Khi Lennox–Boyd gửi điện chúc mừng, tôi đã trả lời rằng:

“Ít người hiểu rõ những nguy nan của chuyến hành trình mà Singapore giờ đây đang bước vào. Trong năm năm nữa chúng tôi thành công được đến đâu là tùy thuộc vào việc chúng tôi đã hoạch định chu đáo và làm việc cật lực đến độ nào, vào việc chính phủ Anh hiểu biết đến đâu về những chuyện đang diễn ra và lý do tại sao, và tùy vào đủ thứ các vị thần linh có mặt trên cái hòn đảo nhỏ nhoi 220 dặm vuông này. Yếu tố đầu chúng tôi dám khẳng định, còn yếu tố thứ hai thuộc về các ông, và yếu tố thứ ba tùy thuộc vào những lời cầu khẩn của nhân dân Singapore khấn nguyện các vị đó ban phước lành cho chúng tôi.”

Còn một yếu tố thứ tư nữa – đó là thái độ của các láng giềng phương Bắc của chúng tôi. Người đầu tiên ca tụng tôi một cách công khai là thủ tướng Malaya. “Nhân dân Singapore đã có sự chọn lựa thật rõ ràng. Tôi xin chúc mừng PAP đã giành được đa số như vậy,” ông ta phát biểu với báo chí. Nhưng đó không phải là lời của Tunku mà của Dato Abdul Razak bin Hussain (sau này cũng được phong tước Tun), đương quyền tạm thời trong lúc Tunku vắng mặt. Ông ta chẳng mấy khéo léo trong giao thiệp:

“Chiến thắng của họ cũng tất nhiên thôi. Các đảng khác thì chia rẽ và không thể hình thành nổi một phe đối lập đủ mạnh để địch lại PAP. Tôi rất vui là ông bạn của tôi, Tun Lim Yew Hock đã giành được thắng lợi. Ít ra ông ta cũng sẽ là một đối trọng mạnh đối với chính quyền. Mặt khác, nếu phe đối lập muốn được hữu hiệu thì họ phải đoàn kết lại, cả với bên ngoài hội đồng, bằng không tình trạng cũng vẫn sẽ chẳng có gì thay đổi.”

Tôi nhận được nhiều thư chúc mừng cá nhân của những người có cảm tình với tôi, kể cả của thủ lĩnh chống thực dân rất nổi tiếng của Hiệp hội Fabian, cô Hilda Selwyn–Clarke. Cô đã nói với sỹ quan Sở đặc vụ Singapore Richard Corridon rằng tôi là một nhà xã hội chủ nghĩa tốt, chứ không phải là một người cộng sản. James Callaghan, nghị viên đảng Lao động và về sau làm thủ tướng nước Anh, từng thăm Singapore vào đầu những năm 1950, biết rất rành về miền này, đã có lời nhắc nhở trong thư chúc mừng của ông: “Từ những giao tiếp của bản thân tôi với đất nước này, tôi biết chính phủ Liên bang sẽ bị chạm tự ái đến độ nào và ông sẽ phải làm rạch ròi công việc của ông để trấn an họ. Phản ứng của báo chí ở đây thật mỗi người mỗi ý. Đang có những nỗi lo sợ nơi những người không hiểu tình hình.”

Chúng tôi đã suy nghĩ khá kỹ trước kỳ tuyển cử và kết luận rằng Lim Chin Siong cùng nhóm của ông ta phải được trả tự do trước khi chúng tôi nắm quyền, bằng không chúng tôi sẽ bị mất tín nhiệm hoàn toàn. Thế nhưng, sau khi tranh cử và thắng cử bằng chính sức mình, chúng tôi quyết tâm khởi đầu chính quyền mới bằng cách tổ chức một cuộc mít–tinh mừng thắng lợi trước khi họ được thả và cuộc tranh đấu lại tái tục.

Chúng tôi quyết định tổ chức cuộc mít–tinh đó vào ngày thứ tư, 3/6. Tôi đã yêu cầu viên thống đốc trả tự do cho tám chính trị phạm một ngày sau cuộc mít–tinh và trước khi chúng tôi tuyên thệ nhậm chức. Goode muốn chúng tôi nhậm chức ngay tức thời nhưng quan tâm của tôi là phải có thời gian để sắp xếp mọi chuyện, khiến người Anh đồng ý việc phóng thích, hình thành nội các, và tổ chức mít– tinh trước đã. Goode phản đối với lý do ông ta phải liên hệ với London về chuyện thả người, điều đó có nghĩa rằng với kế hoạch của tôi thì sẽ có một khoảng trống không có chính quyền khi Lim Yew Hock phải từ chức lúc bị thất cử. Ông ta không vui vì chuyện trễ nãi này, nhưng tôi vẫn giữ ý mình. Tôi yêu cầu ông ta cho tôi có thời gian để đặt những người quốc gia vào một vị thế vững mạnh hơn trước khi cuộc tranh đấu kế tiếp bắt đầu. Tôi không nghĩ trước mắt sẽ có chuyện khủng hoảng nào. Hôm sau, ông nói với tôi London đồng ý trả tự do cho các chính trị phạm, nhưng khi ông lặp lại rằng ông muốn tôi phải nhậm chức càng sớm càng tốt, tôi đã nói rằng cần phải tham khảo ý kiến của các đồng sự đã.

Tôi họp với ủy ban chấp hành trung ương tại trụ sở đảng vào buổi chiều suốt một tiếng đồng hồ, rồi trở lại Dinh Chính phủ lúc 4 giờ chiều. George Thomson, giám đốc Sở Thông tin, sau đó đã đưa ra một bản tuyên bố cho các phóng viên đang chờ trước cổng. Bản tuyên bố nói rằng sau hai cuộc họp kéo dài hai tiếng đồng hồ và “sau khi tham khảo với chính phủ Anh, cũng như để tạo buổi đầu êm đẹp và mau chóng cho hiến pháp mới, thống đốc, với sự tư vấn của các thành viên mặc nhiên của hội đồng, đã quyết định thả các tù nhân có liên can.” Cùng lúc đó, Goode nói với tôi ông không thể cứ ngồi đó mà chờ; ông sẽ cho đăng trên công báo và cho hiến pháp có hiệu lực kể từ ngày 3/6. Một lần nữa tôi phản đối và nói rằng chúng tôi chỉ có thể tuyên thệ nhậm chức được vào ngày 5/6, sau khi Lim Chin Siong, Fong cùng sáu người thân cộng khác nữa không những đã được thả ra mà còn chính thức đưa ra lời tuyên bố công khai ủng hộ các mục tiêu không cộng sản của PAP. Tôi muốn rằng lời tán thành đó phải được đăng trên các báo; do đó, chúng tôi nhậm chức chỉ vào trưa ngày 5/6 để hai tin đó không tranh nhau trên trang nhất các báo. Goode không đồng ý, nhưng tôi nhất quyết như vậy rồi. Cuộc mít–tinh của chúng tôi diễn ra trước Tòa Thị chính Thành phố vào đêm ngày 3/6 mà không có mặt của những người thân cộng. Chúng tôi có 43 nghị viên đứng trên bục diễn đàn, tất cả đều mặc đồ trắng để tượng trưng cho một chính phủ trong sạch – sẽ không còn bất kỳ chuyện tham nhũng nào như đã từng xảy ra tại Singapore trước đây và đã tồn tại ở nhiều quốc gia mới thành lập. Tôi giới thiệu nội các mới gồm chín người tính cả tôi. Tôi đã đọc một bài diễn văn nghiêm trọng và gần như bi quan. Đã có rất đông người đến dự, khoảng 50.000 người ở Padang – trong trật tự, hy vọng và trong tâm trạng vui vẻ. Tôi chọn dịp này để làm cho họ đừng quá mong ước, và để chuẩn bị phòng vệ trước những tấn công mà tôi biết sẽ có của những người cộng sản. Họ muốn đòi tự do nhiều hơn nhằm gây lật đổ tại Singapore và dùng sức mạnh trên hòn đảo này để hỗ trợ cho cuộc cách mạng tại Malaya.

Tôi phác họa lập trường của chính quyền:

Chúng ta đang bắt đầu một chương mới. Quyền lực của dân chúng thông qua chính phủ dân cử của họ bị khuôn hạn trong những vấn đề đối nội. Đó chưa phải thực sự những gì chúng ta muốn nhưng đó là một bước để tiến tới sáp nhập và merdeka. Những điều lành không từ trên trời rớt xuống. Chúng chỉ có thể có được bằng cách làm việc cật lực và bền lâu. Chính phủ không thể tạo được kết quả trừ phi dân chúng ủng hộ và duy trì nỗ lực của chính phủ. Có thể có những lúc mà vì lợi ích của toàn thể cộng đồng, chúng tôi có thể có những biện pháp mất lòng đối với một bộ phận nào đó của cộng đồng. Khi ấy, xin nhớ rằng nguyên tắc chỉ đạo cho các hành động của chúng tôi là: lợi ích tối thượng của cả cộng đồng phải là trên hết.”

Đối với cộng đồng người Anh, tôi đã có lời lưu ý như thế này:

“Các bạn biết không, chúng tôi muốn sử dụng khu Padang này làm nơi mít–tinh tranh cử vào buổi tối, nhưng có một nhóm nhỏ người Âu được chính phủ thực dân trước đây cho quyền sử dụng khu này đã từ chối, không cho phép làm như vậy, mặc dù họ chỉ sử dụng sân này vào ban ngày cho một số người để chơi thể thao! Ấy, thời thế đã đổi thay, và sẽ tiếp tục đổi thay.”

Trong một diễn văn quan trọng nhắm vào những người có Anh học, Keng Swee nói rằng họ phần lớn chịu sự nhào nặn của báo chí tiếng Anh và của nhà thờ, nhất là của Giáo hội Công giáo. Là một tầng lớp xã hội, họ đã bỏ phiếu chống lại PAP, nhưng họ là thiểu số, và ông lưu ý họ rằng trong tương lai, họ sẽ bị mất đi các đặc quyền đã được hưởng dưới thời người Anh, và sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với mọi người khác trên đất nước Singapore. Để tồn tại, họ phải nỗ lực để hiểu được rằng những thay đổi đang diễn ra là thể theo nguyện vọng của các lực lượng xã hội to lớn nằm chìm dưới bề mặt, chứ chẳng phải thể theo những mưu toan của các chính khách.

Các tờ Straits Times và Singapore Standard chưa bao giờ đăng tải những phân tích của chúng tôi về nguyên nhân của những xáo trộn chính trị, và hậu quả là chúng tôi chẳng bao giờ có thể làm cho những người Anh học hiểu được rằng những bất mãn sâu xa về xã hội, kinh tế, chính trị đang khiến những người Hán học ủng hộ cộng sản và đang giúp họ lật đổ trật tự hiện có. Giờ đây chúng tôi đã nắm chính quyền, họ phải lắng nghe, và báo chí tiếng Anh phải đăng những gì chúng tôi nói. Do vậy, chúng tôi khởi sự làm cho họ phải hiểu những gì chúng tôi nói, một tiến trình bắt đầu bằng diễn văn tối hôm đó của Keng Swee.

☆ ☆

Ngày hôm trước của cuộc mít–tinh, Dennis đã đi Changi để báo cho những người bị giam rằng họ sẽ được trả tự do vào ngày thứ ba, và vào lúc 8 giờ sáng ngày 4/6, Lim Chin Siong, Fong, Nair, Woodhull, Puthucheary cùng ba người khác nữa bước ra khỏi Nhà tù Changi, trước sự chào đón của 2.000 thành viên PAP cùng những người ủng hộ nghiệp đoàn đang đứng bên ngoài, vẫy các biểu ngữ. Họ được đưa tới trụ sở của đảng, nơi họ sẽ gặp gỡ với ủy ban chấp hành mới. Vào lúc 11 giờ, họ gặp gỡ giới báo chí, Nair làm phát ngôn viên, và đưa ra bản tuyên bố mà họ đã ký. Ngày hôm sau, báo chí đã đăng tải tuyên bố của họ:

“Để đạt được sự nhất quán hoàn toàn với lý tưởng một nước Malaya thống nhất, và để đấu tranh bằng những phương thức hòa bình, dân chủ và hợp hiến cho những mục tiêu lâu dài vì một Malaya xã hội chủ nghĩa, phi cộng sản, dân chủ, độc lập và thống nhất… Thật là sai lầm khi xem việc tách Singapore khỏi Liên bang Malaya chỉ là một thủ đoạn của riêng người Anh. Người Anh dĩ nhiên không thể tránh né phần trách nhiệm trong chuyện chia tách tai hại này… Tuy nhiên, sự thật vẫn là việc loại Singapore ra ngoài cũng chính là một sự phản ảnh nỗi lo sợ của khối đa số người Malay trong Liên bang rằng người Hoa đa số tại Singapore không thể hết lòng vì Malaya, và không thể đồng hóa với tinh thần dân tộc Malaya được… Công việc của chúng ta, những người ở Singapore, là phải chứng tỏ rằng những sợ hãi và nghi ngờ như vậy của những anh em trong nội địa là vô căn cứ.”

Khi được hỏi tại sao họ ủng hộ việc sử dụng Pháp lệnh PPSO, Nair trả lời: “Lập trường của chúng tôi cũng giống như của PAP,” tức là sẽ tuân theo các luật thành văn chừng nào Liên bang Malaya vẫn còn có những luật dự trù cho việc giam cầm không cần xét xử. Đúng như tôi đã trông đợi ở Nair, các bài báo đều rõ ràng và không lập lờ nước đôi. Nhưng tôi biết Lim Chin Siong không mấy thành thực. Đối với ông ta, đây chẳng qua chỉ là một bước chiến thuật. Tôi hy vọng Fong, người mà Nair đã bỏ ra nhiều giờ để thuyết phục, sẽ không ngả trở lại phía Lim nữa. Nhưng tôi không dám chắc lắm. Tôi cố gắng vô hiệu hóa họ bằng cách giao cho họ những chức vụ cao nhưng không có thực quyền – Puthucheary làm giám đốc của một Ủy ban Khuếch trương Công nghiệp mới, và bốn người khác làm bí thư chính trị cho bốn Bộ trưởng.

Những phát triển này được người Anh theo dõi rất sát, bởi họ nóng lòng muốn xem các bộ trưởng mới của PAP sẽ cầm quyền ra sao. Bill Goode đã gửi cho Lennox–Boyd một báo cáo đề ngày 12/6/1959 như sau về cuộc tuyển cử, một báo cáo 40 năm sau đọc lại vẫn còn thấy thú vị:

“…PAP đã tập trung vào việc tự giới thiệu mình như một đảng xã hội chủ nghĩa dân chủ, có những tư tưởng mang tính xây dựng, có sự trung thực, năng lực và khả năng cầm quyền. Cương lĩnh của họ nhấn mạnh vào nhu cầu phải đấu tranh vì độc lập thông qua hợp nhất với Liên bang Malaya, và nhu cầu phải có sự hòa hợp giữa các cộng đồng chủng tộc tại Singapore. Họ ủng hộ việc coi tiếng Malay là ngôn ngữ chung để phá bỏ hàng rào chủng tộc và đã đưa ra tới chín (sic) ứng cử viên người Malay. Một đặc điểm nổi bật trong chương trình của họ là nhấn mạnh đến việc nhất thiết phải tổ chức lại guồng máy chính quyền và các cơ quan công quyền khác, nhất là phải bỏ Hội đồng Thành phố, để tiệt trừ nạn “quan liêu, cửa quyền và làm việc giẫm chân nhau”. Trong các bài phát biểu của đảng, các ứng cử viên đã triển khai các chủ đề này (sic) tùy theo đối tượng nghe. Khi làm như vậy, họ thường có đề cập thiếu tính chất xây dựng tới các khuyết điểm được cho là có ở những đảng khác, tới sự thù địch được cho là có ở các tờ báo tiếng Anh, ở khối dân Anh học, và ở các doanh nhân “da trắng”. Sự miệt thị các cường quốc phương tây cũng như chuyện chỉ trích chính phủ Anh hầu như không có tại bất kỳ khu vực nào…”

“Sự chia rẽ trong số cử tri ôn hòa tất nhiên sẽ làm cho phe đối lập mất đi nhiều ghế. Tại 13 đơn vị bầu cử, một ứng cử viên PAP đã tái cử với một số phiếu không lớn… Sau kỳ bầu cử PAP công khai thừa nhận họ không thành công trong việc giành được phiếu bầu của người Malay hay khối dân nói tiếng Anh. Người Malay nói chung sợ PAP là những phần tử cực đoan người Hoa, họ cũng không bị thuyết phục bởi việc PAP mạnh dạn đưa tiếng Malay thành quốc ngữ cũng như việc PAP đã đưa ra chín (sic) ứng cử viên người Malay. Trong các cuộc mít–tinh vận động bầu cử, các nhà lãnh đạo hàng đầu của PAP đã có mọi nỗ lực để chinh phục các công nhân áo trắng24 nói tiếng Anh của thành phố này. Tuy nhiên, số còn lại và các vùng ngoại ô thì bỏ phiếu cho ứng cử viên SPA, hoặc PAP thắng cử là do số phiếu của cử tri ôn hòa bị chia sẻ giữa SPA và Xã hội Tự do hay ứng cử viên độc lập…”

“Phần lớn các nghị viên PAP đều còn trẻ, nhiều người còn trong độ tuổi 20. Tuổi bình quân của Nghị viện là 35, và thành viên trẻ nhất là một đảng viên PAP, làm nhân viên cửa hiệu, mới 22 tuổi. Ba Bộ trưởng trước đây, J.M. Jumabhoy, Francis Thomas và M.P.D. Nair đều đại bại trước các ứng cử viên PAP mới ở độ tuổi 20 này. Thất bại của Jumabhoy là khó chịu nhất khi đối thủ thắng ông ta là một cô gái mới 25 tuổi, trợ lý bí thư phân bộ phụ nữ của PAP…”

“Do đó Hội đồng lập pháp mới sẽ dưới sự chi phối của đa số PAP. Sau đây là những nghề nghiệp của họ.” (Thế rồi Goode đã liệt kê một danh sách, gồm có 5 giáo viên, 4 ký giả, 8 cán bộ nghiệp đoàn, 2 thợ làm tóc và 1 nông dân, bên cạnh những ngành nghề khác.) “Một thay đổi khác nữa rất có ý nghĩa là ba Bộ trưởng đầu tiên thiết lập văn phòng của họ tại Tòa Thị chính.”

Thật ra chúng tôi muốn cắt bỏ quá khứ bằng cách chuyển chỗ của chính phủ từ Empress Place sang Tòa Thị chính. Đây chính là nơi Ong Eng Guan khởi nghiệp với vai trò thị trưởng giữa những rối ren và bất an – nhưng đã tạo cho những người dân thấp cổ bé miệng của Singapore niềm hy vọng rằng chính phủ PAP sẽ quan tâm tới các lợi ích của họ và sẽ thực lòng chăm lo những quyền lợi ấy.

Tôi và các đồng nghiệp của tôi đã tuyên thệ nhậm chức vào chiều ngày thứ Sáu, 5/6/1959, tại đại sảnh của Tòa Thị chính, nơi Mountbatten đã đầu hàng trước các chỉ huy quân sự Nhật Bản ở Đông Nam Á năm 1945 – và cũng là nơi, đúng 12 năm sau, thị trưởng Ong đã vứt bỏ biểu tượng quyền hành của thực dân Anh, cây kim trượng. Tôi quyết định chồng lên hình ảnh đó bằng dấu ấn của chính quyền mới. Vào thời đó, thủ tục đòi hỏi các Bộ trưởng phải có mặt tại Dinh Chính phủ, trước sự đón nhận tuyên thệ của thống đốc trong lễ phục màu trắng với mũ gắn lông trắng. Lần này, viên thống đốc sẽ đi từ Dinh Chính phủ tới Tòa Thị chính. Ong không phải mặc cái gì có tính cách nghi lễ hơn một bộ đồ nâu nhạt và thắt cà vạt. Chúng tôi mặc áo sơ mi trắng không cài khuy cổ và quần dài trắng. Tôi đón ông ta từ dưới các bậc tam cấp và đi với ông vào đại sảnh được bày biện đơn sơ, chỉ có một cái bàn và mấy cái ghế – chẳng có thời giờ đâu mà bày biện đủ thứ. Ngoài giới báo chí, có 200 ủng hộ viên đã làm việc chí tình trong kỳ tuyển cử, cũng ăn mặc màu trắng. Nhưng không có mặt các bà vợ, một điều mà Choo cứ ca cẩm với tôi cho tới nay. Cô ấy cũng đã hoạt động rất hết lòng và những mong sẽ được có mặt vào giờ phút đó. Tôi nói chuyện đó sẽ dẫn đến rắc rối với phu nhân của những người khác, và dẫu sao đó cũng chỉ là một nghi thức nhỏ thôi. Cô ấy vẫn không nguôi giận. Nhưng tôi cũng không thể nhượng bộ.

Sau khi đón nhận lời tuyên thệ của chúng tôi, Goode, với tư cách thứ nhất là Yang di–Peruan Negara (quốc trưởng) và kế nữa là thống đốc của Singapore, đã có lời chúc mừng chúng tôi. Tôi đã đáp tạ rằng: “Thật may mắn cho chúng tôi là trong vài ngày mới đây chúng tôi đã có dịp làm việc với một số người thấu hiểu cho các hy vọng và ước nguyện của nhân dân chúng tôi và những giới hạn trong tình hình của chúng tôi… Tôi hy vọng trong sáu tháng tới trong nhiệm kỳ của ông, ông sẽ trợ giúp chúng tôi thi hành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước Singapore thật hiệu quả, trôi chảy và êm đẹp.”

Sau lễ tuyên thệ, chúng tôi ai nấy đều nhiệt tình bắt tay vào cuộc, chú tâm với công việc của mình và cố gắng tạo uy tín cho chúng tôi càng nhiều càng tốt trước khi niềm phấn khích bị nguội đi. Bằng kinh nghiệm của mình, tôi biết rằng lòng nhiệt thành không thôi vẫn không đủ. Muốn cho các Bộ trưởng cống hiến tốt nhất, họ phải có những văn phòng được điều hòa không khí. Điều này nghe ra có vẻ kỳ cục, nhưng nếu không có văn phòng có điều hòa không khí, sẽ khó có thể đạt được hiệu quả trong công việc tại đất nước Singapore nhiệt đới này. Sau năm đầu của tôi ở Laycock & Ong, tôi được đưa vào làm việc tại văn phòng chính. Nóng, ẩm ướt và ồn ào không chịu nổi, nhất là vào buổi chiều. Tôi cứ phờ cả người đi, các thư ký chỉ làm còn bằng phân nửa năng suất bình thường, nhân viên đánh máy cứ đánh sai tới sai lui còn các luật sư lại sai thêm khi sửa lỗi chính tả các văn bản ấy cũng như khi đọc cho họ đánh máy. Ở tòa đại hình, sự việc còn tệ hại hơn nữa, bởi chúng tôi phải mặc áo thụng cổ cao, rồi gi-lê nữa – một kiểu quần áo vốn được thiết kế cho mùa đông London giá buốt. Bước ngoặt trong đời tôi về mặt tiện nghi và hiệu quả là vào năm 1954, lúc Choo và tôi cho gắn một máy lạnh một ngựa trong phòng ngủ. Từ đó về sau, chúng tôi chưa bao giờ bị mất ngủ vì cái nóng oi người. Do vậy, tôi khuyến khích việc gắn máy lạnh cho tất cả các văn phòng của cơ quan nhà nước.

Tôi chiếm văn phòng thị trưởng trên lầu hai, dùng chung với Chin Chye, phó Thủ tướng, một văn phòng chung, một phòng tiếp tân và một phòng họp; để tiện việc liên lạc, thư ký của tôi sẽ ở phòng giữa các phòng của hai chúng tôi. Nhưng Ong Eng Guan không làm việc chung ở Tòa Thị chính với chúng tôi; ông chọn một căn nhà do nhà nước quản lý nằm trong đơn vị bầu cử Hong Lim của ông và lấy đó làm văn phòng của Bộ Phát triển Quốc gia. Tôi không xét kỹ lý do tại sao nên đã đồng ý việc đó. Tôi đã không biết rằng tòa nhà đó hoàn toàn không thích hợp để làm một cơ quan chính phủ; nó cần phải được tu sửa toàn diện; phải đập bỏ tường, phải đi lại đường ống nước và đường dây điện, rồi bàn ghế, tủ đựng hồ sơ và tủ sắt đều phải được khiêng lên qua những cầu thang nhỏ hẹp. Nhưng đối với Ong thì những chuyện này là không đáng kể, là những tiểu tiết hành chính bị ông phớt lờ khi mưu cầu một trung tâm quyền lực riêng cho mình. Ông ta không muốn chia sẻ vinh quang trong Tòa Thị chính cùng với tôi và Chin Chye. Chỉ mấy tháng sau, tôi nhận ra là chứng hoang tưởng tự đại của ông ta vẫn còn nguyên đó. Ông ta muốn trội hơn những người khác trong nội các, muốn cho mình trước mắt công chúng cũng còn nguyên vẻ hào quang như thời làm thị trưởng. Chính vì vậy, ông ta công bố những kế hoạch chi tiêu rất lớn mà không thông qua trước với Bộ trưởng tài chính hay nội các gì cả, và gây nhiều sửng sốt cho các Bộ trưởng khác.

Keng Swee thì đảm nhiệm Bộ tài chính và đã đến Tòa nhà Fullerton. Ông đã quen thuộc với công việc dân chính, nên đã nhanh chóng bắt tay vào việc. Tài chính là bộ quan trọng nhất của chúng tôi, và tôi cho phép ông ta được tuyển chọn người theo ý ông. Về thư ký thường trực, ông chọn Hon Sui Sen, bạn thân của tôi hồi thời Nhật chiếm đóng, lúc đó đang làm thanh tra điền địa. Ông là một người rất đáng tin cậy.

Thật may là chúng tôi đã có thể quy tụ được những con người như Sui Sen. Chúng tôi có quá nhiều việc phải làm, lại có quá ít thời gian và các nguồn lực lại nhỏ bé. Có quá ít thời gian bởi tôi mong mỏi nhiều lắm là có được một năm cơm lành canh ngọt, trước khi phe cộng sản tổ chức lại và gây rắc rối cho chúng tôi. Còn các nguồn lực nhỏ bé vì ngân sách rất eo hẹp.

☆ ☆

Trong có mấy ngày, Keng Swee đã báo cáo rằng chính quyền cũ lậm chi vào quỹ dự trữ và đã dùng hết 200 triệu. Ông dự kiến năm ngân sách 1959 sẽ bị thâm thủng khoảng 14 triệu. Có thể có những khoản tiết kiệm nhỏ, nhưng cũng không thể hơn 5 triệu. Do đó các Bộ trưởng được lưu ý tuyệt đối đừng mơ tới chuyện tài trợ cho các dự án phát triển ngoài những dự án đã được duyệt, và thậm chí cả những dự án đó cũng sẽ bị cắt xén thẳng tay. Những bước cần thiết nhằm cân đối ngân sách tất sẽ không được lòng công chúng lẫn các Bộ trưởng, nhưng điều đó buộc phải vậy nếu như chúng tôi không muốn kết thúc năm đầu của chính phủ trong nợ nần.

Tôi đồng ý và nói với ông ta rằng tốt nhất nên tiến hành các biện pháp đó ngay từ đầu nhiệm kỳ. Vào ngày 12/6, báo chí đăng tải rằng Bộ Tài chính đã ra lệnh sẽ không có những khoản chi ngoài kế hoạch nếu như không có sự đồng ý của Bộ trưởng tài chính. Như vậy, trong số những khoản bị ảnh hưởng sẽ là những đóng góp từ thiện của chính phủ, tiền ứng cho công chức để họ mua xe và các khoản học bổng dành cho học sinh, học bổng nghiên cứu và đài thọ du học. Nhưng điều đó cũng chẳng đạt hiệu quả gì nhiều. Keng Swee đề nghị cắt giảm lương Bộ trưởng của chúng tôi từ 2.600 đôla xuống còn 2.000 đôla một tháng để làm gương, và cũng đồng thời cắt giảm luôn các loại phụ cấp của công chức. Một lần nữa tôi đồng ý với ông ta. Chúng tôi đã tổ chức cuộc họp của Ủy ban về những vấn đề chung thuộc Liên hội đồng dân chính, nhưng phía nhân viên cơ quan lại không đồng tình bởi họ chưa được các nghiệp đoàn trao quyền quyết định. Chúng tôi đã thảo luận vấn đề này trong nội các và quyết định xúc tiến việc này bằng bất cứ giá nào. Chính phủ đã tuyên bố sẽ cắt giảm trợ cấp kể từ ngày 1/7, nhưng vẫn tiếp nhận các ý kiến của các nghiệp đoàn công nhân viên và các hiệp hội.

Việc cắt giảm đó rất đáng kể nhưng không gây tai hại, và cũng chỉ ảnh hưởng đến 6.000 trong số 14.000 công chức. Tất cả những nhân viên có mức lương từ 220 đôla trở lên sẽ bị mất các khoản phụ cấp, nhưng chỉ có 10% trong số đó chịu những khoản cắt giảm trên 250 đôla một tháng, và chỉ có một ít người là bị cắt đến mức tối đa là 400 đôla. Khoảng 8.000 nhân viên có mức lương thấp hơn mức nói trên sẽ không bị cắt giảm gì cả. Chúng tôi đã phải hành động lẹ làng nếu như chúng tôi muốn xác lập tinh thần tiết kiệm và kỷ cương tài chính ngay từ đầu. Đã có những thất vọng lớn, nhất là từ các viên chức thâm niên. Những người Anh học tin rằng chúng tôi đề ra những giải pháp như vậy là để trừng phạt họ vì đã bỏ phiếu chống lại chúng tôi. Điều đó chẳng phải động cơ của chúng tôi. Chúng tôi muốn cho mọi người dân ở Singapore, nhất là khối đa số gồm những người Hán học, hiểu rằng vì lợi ích chung, những người Anh học sẵn sàng hy sinh, dẫn đầu là các Bộ trưởng. Tôi nghĩ họ hy sinh như vậy chẳng phải vô lý, bởi điều đó sẽ giúp chúng tôi làm cho mọi người hiểu rằng trong kỷ nguyên mới này, tất cả chúng ta sẽ cùng chia sẻ gian nan và cùng hưởng vui sướng như nhau.

Còn có một lý do khác nữa trong chuyện cắt giảm. Kể từ năm 1952, tôi nhân danh các nghiệp đoàn, còn Keng Swee và Kenny nhân danh giới công chức, đã thành công trong việc buộc chính phủ phải trả lương và phụ cấp cao hơn mà chẳng hề để ý gì đến tình hình kinh tế. Nếu các nghiệp đoàn cứ tiếp tục theo đà này, chúng tôi sẽ bị khó khăn. Không có cách nào hay hơn cách này để báo hiệu rằng những ngày ấy đã qua. Mức tiết kiệm hàng năm sẽ là 12 triệu đôla. Keng Swee đã cải chính con số ước đoán của giới báo chí là từ 20 đến 25 triệu đôla, và nhắc cho họ nhớ rằng sáu tháng còn lại của năm 1959 sẽ chỉ tiết kiệm được 6 triệu thôi, giúp giảm mức thâm hụt dự kiến từ 14 triệu xuống còn 8 triệu.

Mấy ngày sau, Ong tuyên bố đình chỉ tất cả các vụ bổ nhiệm mới, điều đó có nghĩa rằng sẽ không tuyển người cho những chức việc còn trống nếu không có sự chấp thuận của Bộ trưởng.

Các nghiệp đoàn công chức lập tức ra tay. Họ tổ chức Hội đồng hành động chung để đối đầu với chúng tôi, cũng y như chúng tôi đã đối đầu với chính phủ thực dân Anh, và đấu tranh để phục hồi tất cả các khoản trợ cấp. Nhưng chúng tôi chẳng phải là chính phủ của thực dân; ít ra lúc đó chúng tôi cũng đang có được sự ủng hộ của khối đa số là những người nói tiếng Hoa, và hội đồng đã chẳng thể nào ra tay được gì cả. Tuy nhiên tôi vẫn thấy bực tức trước hành động của họ. Điều đó cho thấy họ chẳng hiểu gì về những thử thách nghiêm trọng đang đặt ra cho chúng tôi, và chẳng biết rằng chúng tôi còn phải ngăn chặn không để cho phe quá khích khai thác những bất mãn của khối người Hoa, vốn là những người giờ đây có tiếng nói quyết định qua lá phiếu của họ. Một số viên chức cao cấp phải cho những người hầu gái nghỉ việc – thật quá tệ, nhưng đất nước đang đứng trước những khó khăn to lớn và những nỗi hiểm nghèo, và chúng tôi phải thuyết phục mọi người rằng chính phủ này sẽ cai trị vì lợi ích của tất cả mọi người. Chỉ có như vậy chúng tôi mới có thể xây dựng được ý thức công dân Malaya của người Hoa, và làm cho họ thêm phần gắn bó và trung thành với đất nước mà họ đã chọn; và đó là điều quan trọng hơn hết vì họ phải thay đổi thái độ của mình trước khi các nhà lãnh đạo ở Kuala Lumpur đồng ý hợp nhất và cho phép Singapore được độc lập với tư cách là một phần của Malaya.

Trong lần phát biểu đầu tiên tại Quốc hội vào ngày 22/7 với tư cách Thủ tướng, tôi đã lên tiếng cảnh báo: “Nếu chính phủ PAP thất bại, nó sẽ không lui về thành phe đối lập để chờ ngày nắm lại chính quyền. Họ sẽ bỏ chạy để giữ lấy thần. Bởi đằng sau chúng tôi không còn có lực lượng nào khác được chuẩn bị để xây dựng chế độ dân chủ. Xét cho cùng, nếu chúng tôi thất bại, thế lực tàn bạo sẽ quay trở lại.” Tôi đã nói rằng do vậy chúng tôi cần những công chức hợp tác với chúng tôi để thực hiện những điều đã hứa với dân chúng.

“Tại sao chúng tôi lại muốn làm tổn thương những người phải làm việc với chúng tôi? Dưới chế độ dân chủ, phải có lực lượng dân chính làm theo mệnh lệnh của đảng đã được dân chúng tín nhiệm… Nếu như chẳng có tai họa nào lớn hơn chuyện bị mất các khoản phụ cấp… các công chức nhà nước có lẽ nên quỳ xuống mà tạ ơn trời rằng linh hồn của họ đã được cứu rỗi.”

Do di sản quá khứ, những người Anh học đã đóng một vai trò quan trọng, nên tôi nói thêm: “Họ có thể giúp chúng ta thu hẹp khoảng cách giữa quá khứ thực dân và tương lai bình đẳng.” Nếu chúng ta không thể xóa đi sự cách biệt giữa những người nói tiếng Hoa và tầng lớp ưu tú nói tiếng Anh, kết quả thật tai hại vô cùng. Bởi nếu những người Hán học cầm quyền, những người Anh học sẽ thình lình trở nên những kẻ bị tước đoạt mới dưới một chính quyền tất sẽ được điều hành bằng tiếng Hoa.

Thỉnh thoảng tôi vẫn tiếp tục gay gắt với những người Anh học và hối thúc họ thay đổi cho phù hợp với tương lai. Chúng tôi – Keng Swee, Chin Chye, Kenny, Raja và tôi – đều là những người Anh học và là lãnh đạo của họ. Chúng tôi không muốn họ trở thành một lớp người bị tuyệt chủng; chúng ta phải cùng nhau cưu mang ít nhất một nửa số người nói tiếng Hoa đi theo với mình nếu như họ chưa vứt bỏ chúng tôi. Nhưng những người Anh học lại quá thờ ơ với chuyện chính trị đến độ họ chẳng hiểu rằng họ đang gặp nguy hiểm. Mặc dù các cắt giảm đã được bãi bỏ vào năm 1961, nhưng những công chức bị ảnh hưởng cũng vẫn còn bất mãn trong cả một thời gian dài, và nếu như chẳng có những biến động lớn sau đó ập lên đầu chúng tôi, có lẽ họ đã bỏ phiếu nhất trí chống lại PAP trong kỳ tuyển cử năm 1963. Phải nói rằng chính sự đe dọa của phái quá khích vào lúc đó quá rõ rệt đến độ họ không thể làm gì khác ngoài việc ủng hộ chúng tôi.

Vào cuối năm chúng tôi đã có thể cân đối được ngân sách, và mức thu không còn bị giảm sút như Keng Swee đã lo sợ. Nếu phải tuyên bố lại lần nữa, tôi cũng vẫn sẽ đồng ý với chuyện cắt giảm, nhưng chỉ còn chừng một phần ba so với trước đây. Chừng đó cũng đủ để thuyết phục khối người nói tiếng Hoa, và mặc dù các công chức Anh học tất cũng sẽ còn bất mãn, nhưng họ sẽ không còn bị sốc nữa. Tuy nhiên, giai đoạn này đã cho thấy sự thiếu hiểu biết của họ về chính trị và nhu cầu phải định hướng lại cho họ, làm cho họ ý thức hơn về những nguy hiểm và nỗi khó khăn trước mắt. Điều đó xác nhận quyết định mà Keng Swee, Kenny và tôi đã có trước khi cầm quyền, là phải lập một trung tâm chính trị để dạy cho các công chức cao cấp về mối đe dọa lật đổ cùng các vấn nạn về kinh tế và xã hội của xứ sở. Thế nhưng, để thành công, chúng tôi phải chiếm được lòng tin của họ và thuyết phục được họ rằng đây chẳng phải là chuyện tẩy não.

Chúng tôi chọn George Thomson điều hành trung tâm. Thomson đang ở độ tuổi 40. Ông là một người rất có lòng, hiểu biết nhiều và là một diễn giả thành thực với giọng nói nặng âm sắc của người Scotland. Ông giảng dạy về lịch sử và dạy rất hay bởi ông rất tận tâm với những gì ông giảng dạy. Ông hiểu chúng tôi muốn gì và chẳng lâu sau đã đảm nhiệm vai trò của mình thật hoàn hảo. Ông đã chọn Gerald de Cruz, một cựu thành viên của MCP bất đồng với đường lối của họ. Ông ta đã xoay ra làm thư ký có lương của Mặt trận Lao động, làm việc cho Marshall và rồi cho Lim Yew Hock.

Với tư cách là Bộ trưởng Tài chính kiêm phụ trách nhân sự, Keng Swee lấy một tòa nhà lớn một tầng của chính quyền thực dân cũ làm trung tâm nghiên cứu. Tôi đứng ra khai mạc trung tâm vào ngày 15/8. Tôi tuyên bố mục tiêu của trung tâm là “không chỉ để kích thích trí não của các bạn mà còn để thông tin cho các bạn về những vấn đề bức xúc đang đặt ra cho bất kỳ chính phủ dân cử nào trong hoàn cảnh cách mạng… Một khi các bạn tiếp cận được những vấn đề như vậy, các bạn sẽ có thể giúp đỡ chúng tôi hơn trong việc tìm ra những giải pháp, bằng cách làm cho chính phủ trở nên nhạy cảm hơn và đáp ứng tốt hơn những nhu cầu và tâm trạng của công chúng.” Một số Bộ trưởng và tôi đã đến trung tâm để tạo cho trung tâm một lối tiếp cận thực tiễn, bằng cách thảo luận về những tình huống thực tế mà chúng tôi hiện đang phải đối phó. Thoạt đầu, các công chức tỏ vẻ nghi ngờ, nhưng các giảng viên rõ ràng chẳng phải là những người suy nghĩ một chiều, và họ nhanh chóng mất đi nỗi nghi ngờ ban đầu rằng đây chỉ là một trò nhồi sọ tẩy não. Vì các giảng viên có cùng một nền tư duy như họ, cho nên họ chấp nhận rằng chính phủ quả là thành thực, rằng các vấn nạn là có thực và có vẻ như nan giải, và rằng chúng tôi muốn họ cộng tác với chúng tôi để tìm ra và thực thi các giải pháp. Trong bốn năm năm kế đó, Thomas đã thành công trong việc giúp họ hiểu được các lý thuyết chính trị, các giải pháp dân chủ đối với những mâu thuẫn xã hội và phương pháp chiến tranh du kích. Họ trở nên hiểu biết về những gì đang xảy ra trong một thế giới rộng lớn hơn, các nguyên nhân của cuộc cách mạng tại Đông Nam Á, và nhu cầu cần phải có sự thay đổi triệt để về quan điểm và đường lối nhằm đối phó được với những thách đố mới. Nhưng về lâu về dài thì mối quan hệ giữa chúng tôi với họ cũng vẫn chưa hẳn là thuận thảo.

Một vấn đề tôi cũng dự liệu trước là chuyện trở nên quen lờn với quyền hành Tôi đã chứng kiến những gì xảy ra với Ong Eng Guan tại Hội đồng thành phố, chuyện những kẻ thất thế đã sử dụng quyền lực lầm lạc ra sao một khi họ thắng thế. Tôi cảnh giác các Bộ trưởng của mình, các thư ký quốc hội cùng các nghị viên được phân công để giúp các Bộ trưởng xử lý các khiếu nại của dân chúng là chớ quá say mê quyền lực và không được lạm dụng nó. Nói thì dễ hơn làm, và trong nhiều trường hợp, chúng tôi cũng vẫn cứ xung khắc với các công chức nhà nước.

Chúng tôi quyết định tận dụng cơ hội và khai thác sự ủng hộ mạnh mẽ của dân chúng sau khi thắng cử. Chúng tôi tổ chức hàng loạt chiến dịch được tuyên truyền rầm rộ để làm sạch đường phố, dọn dẹp các bãi rác, và phát cỏ dại ở những chỗ đất trống nhếch nhác. Đó là một bản sao y khuôn cách làm của các nước cộng sản – vận động rầm rộ mọi người, kể cả các Bộ trưởng, lao động bằng đôi tay của mình để phục vụ nhân dân. Chúng tôi thấy chẳng có lý do gì chỉ có riêng MCP mới sử dụng được những phương pháp và động cơ ấy để động viên mọi người, thúc đẩy họ đạt đến những mức cao hơn về ý thức công dân, sự sạch đẹp chung và sự giữ gìn tài sản công. Vào Chủ nhật nào đó thì Ong Eng Guan tập trung công chức để làm vệ sinh bãi biển Changi. Vào Chủ nhật khác thì tôi cầm cây chổi đi quét đường cùng với các lãnh đạo của cộng đồng địa phương.

Còn những chuyện khác nữa chúng tôi cũng muốn làm. Keng Swee và tôi đã phác họa và thành lập Hiệp hội Nhân dân, một mặt trận hợp pháp bao gồm tất cả các tổ chức xã hội tự nguyện lớn, các câu lạc bộ và các hội thể thao, âm nhạc, múa, vẽ và nấu ăn. Chúng tôi đã xây dựng được hơn một trăm trung tâm sinh hoạt – những trung tâm lớn ở thành phố, những cái nhỏ hơn ở nông thôn – dùng làm nơi giáo dục và giải trí. Bóng bàn, bóng rổ, cầu lông, cờ tướng, học sửa radio, tủ lạnh, cùng một số lớp dạy về các nghề kỹ thuật là

một số hoạt động của các trung tâm ấy. Chúng tôi còn muốn tạo cho công chúng chuyện gì đó tích cực để làm, và tập cho họ đứng về phía pháp luật và trật tự. Mỗi trung tâm sẽ có một thư ký tổ chức để quản lý trung tâm và phục vụ cho nhu cầu của những người sống quanh vùng. Để giám sát các trung tâm, Bộ Phúc lợi Xã hội sẽ được đổi thành Bộ Phát triển Cộng đồng.

Chúng tôi đã tổ chức Lữ đoàn Công chính thu dụng những thanh niên nam nữ thất nghiệp, khoác cho họ bộ đồng phục bán quân sự, gom họ về sống trong các lán trại gỗ và dạy cho họ canh tác, làm cầu đường, xây dựng – nói chung là đưa họ vào kỷ luật và quan trọng nhất là làm cho họ khỏi nhởn nhơ vô tích sự trên phố.

Chúng tôi cũng phải tạo kỷ luật cho những người đã có công ăn việc làm, bởi chúng tôi rất cần phải thu hút và kiểm soát được các nghiệp đoàn để ngăn họ đừng bị cuốn vào những cuộc đình công chính trị. Do đó, chúng tôi đã thiết lập tòa án trọng tài kinh tế. Trong thập niên 1950, người Úc sở dĩ đã có những quan hệ chủ thợ tốt đẹp phần lớn là nhờ có những thủ tục trọng tài có tính cách bắt buộc giúp kiềm chế được các bất mãn. Theo yêu cầu của chúng tôi, họ đã cử viên thư ký thường trực của Bộ Lao động là Harry Bland sang giúp chúng tôi. Sau khi tòa được thành lập, Bộ trưởng có thể ra lệnh cho bất kỳ cuộc đình công lớn nào, nhất là trong những ngành dịch vụ quan trọng như giao thông công cộng và điện nước, cũng phải đưa ra trọng tài phân xử. Một khi đã đưa ra trọng tài, việc một nghiệp đoàn cứ tiếp tục bãi công chờ kết quả là bất hợp pháp, và nếu nghiệp đoàn đó cứ khăng khăng, họ sẽ bị rút giấy phép hoạt động. Thêm nữa, trước khi đình công, phải có một cuộc đầu phiếu kín, chứ không chỉ là giơ tay biểu quyết sau một bài diễn văn xách động mà tôi vẫn thường thấy.

Mặt khác, chúng tôi cũng chia sẻ quan điểm của những người cộng sản là một trong những lý do khiến Trung Quốc cùng những nước châu Á khác, ngoại trừ Nhật Bản, rơi vào lạc hậu là do phụ nữ chưa được giải phóng. Họ phải được đặt lên ngang hàng với nam giới, được hưởng sự giáo dục và có cơ hội đóng góp hết sức cho xã hội. Trong mùa vận động bầu cử, chúng tôi đã sử dụng một trong những buổi phát thanh chính trị dành cho chúng tôi nói bằng bốn thứ tiếng – Anh, Malay, Quan thoại và Tamil – để tuyên truyền cho chủ trương của chúng tôi về quyền lợi của phụ nữ. Thế nhưng chúng tôi lại chẳng tìm đâu ra một thành viên nữ của PAP ăn nói lưu loát để đảm trách chương trình bằng tiếng Anh. Sau khi Choo đã thử qua giọng của hai bà vợ của hai ứng cử viên thuộc Văn phòng Lee & Lee’s, cô bước vào văn phòng của tôi, nơi tôi đang thảo luận với Keng Swee và Raja, nói rằng hai người đó nói nhỏ nhẹ quá, không đủ mạnh mẽ. Lúc cô đi ra, hai người bạn của tôi đã đề nghị là nên giao cho cô. Tôi đã hỏi ý cô, và sau một phút ngập ngừng, cô đã đồng ý. Raja viết thảo, và cô sửa lại cho giống như là do cô viết. Bài phát biểu đã được ủy ban chấp hành trung ương thông qua và được dịch sang các thứ tiếng khác, và cô đã đọc nó bằng tiếng Anh trên đài phát thanh Radio Malaya. Có một đoạn thật là quan trọng:

“Xã hội của chúng ta vẫn đang được xây dựng trên giả định rằng phụ nữ là thấp kém hơn nam giới về mặt chính trị, xã hội và kinh tế. Huyền thoại này là chiêu bài che chắn cho sự bóc lột lao động phụ nữ. Nhiều phụ nữ cũng làm công việc y như nam giới nhưng lại không được trả đồng mức lương… Chúng tôi đang đưa ra năm ứng cử viên nữ trong bầu cử kỳ này… Hãy để chúng ta cho họ (những đảng khác) thấy rằng phụ nữ Singapore đã mệt mỏi trước trò hề và sự lố bịch của họ. Tôi kêu gọi nữ giới hãy bỏ phiếu cho PAP. Đây là đảng duy nhất có lý tưởng, lòng thành thực và khả năng để thực thi cương lĩnh bầu cử của mình.”

Đây là một cam kết rất trọng đại, nếu không tôi đã không đồng ý để cho vợ tôi phát biểu như vậy trên đài phát thanh. Tôi muốn thực hiện nó thật sớm, mặc dù điều đó có nghĩa là phải hối thúc nhân viên dự thảo bên các phòng ban của Bộ Tư pháp. Họ đã lục tìm các tiền lệ lập pháp tại những nước khác, soạn thành Hiến chương Phụ nữ, và được chúng tôi thông qua thành luật trong vòng một năm. Hiến chương coi chế độ một vợ một chồng là điều kiện hôn nhân duy nhất và coi chế độ đa thê, vốn là cung cách phổ biến từ trước tới nay, là một tội phạm – ngoại trừ đối với những người Hồi giáo, bởi tôn giáo của họ vốn cho phép đàn ông có bốn vợ. Hiến chương rất bao quát và đã làm thay đổi địa vị của phụ nữ trong xã hội. Nhưng nó chưa thay đổi nổi được định kiến văn hóa là cha mẹ thích con trai hơn con gái.

Cộng thêm vào đó còn có nhiều điều đạt được dễ dàng không cần phải hoạch định gì cả như hàng loạt vụ nghiêm cấm “chống văn hóa vàng” do Pang Boon, Bộ trưởng Nội vụ, tiến hành. “Văn hóa vàng” là một cách nói nôm na trong tiếng Quan thoại để chỉ cung cách sống suy đồi và bạc nhược đã khiến cho Trung Quốc phải quỳ mọp vào thế kỷ 19: cờ bạc, hút thuốc phiện, sách báo khiêu dâm, đa thê và vợ bé vợ mọn, bán con gái vào nhà chứa, tham nhũng và thói “một người làm quan cả họ được nhờ”. Việc bài xích “văn hóa vàng” vốn do các thầy giáo gốc Trung Quốc du nhập vào Singapore, họ đã tiêm vào đầu óc của học sinh cùng cha mẹ của chúng tinh thần phục hưng dân tộc, thể hiện rõ ràng qua mỗi chương sách giáo khoa, cho dù đó là giáo khoa văn chương, lịch sử hay địa lý. Điều đó còn được củng cố thêm qua các bài báo của báo chí tiếng Hoa cánh tả vốn đang say mê trước những báo cáo về một nước Trung Quốc cách mạng, trong sạch, trung thực và năng động.

Pang Boon đã ra tay lẹ làng với một tinh thần thanh sạch sốt sắng. Ông đã ra lệnh triệt sạch các băng nhóm hội kín người Hoa, và coi chuyện mãi dâm, những màn trình diễn thoát y, các câu lạc bộ chơi máy bật bóng, cả những bài hát đồi trụy đều là bất hợp pháp. Điều đó chẳng làm tăng số thất nghiệp và cũng chẳng làm cho Singapore trở nên kém hấp dẫn hơn đối với du khách. Thế nhưng thủy thủ vốn là một phần của số dân tạm trú của Singapore, chẳng lâu sau họ cũng mò tìm được những chốn mua vui nằm nấp trong các xó xỉnh mà chúng tôi đã lờ đi. Nạn mãi dâm vẫn tiếp diễn trong bí mật; nhưng chúng tôi đã gác tạm nó sang một bên bởi không thể cấm triệt nó mà không phạm phải những hành vi ngu xuẩn và kém hiệu quả.

Chương trình có ý nghĩa nhất của chúng tôi là trong vòng một năm đã giúp cho mọi trẻ em đều có nơi chốn học hành. Ông anh vợ của tôi, Yong Nyuk Lin, giờ là Bộ trưởng Giáo dục đã khiến chúng tôi lấy làm hãnh diện: trong vòng 12 tháng, ông đã khiến cho số học sinh được đi học tăng lên gấp đôi, bằng cách chuyển mỗi trường thành hai ca học. Ông xúc tiến một chương trình tăng cường đào tạo giáo viên, và đề bạt nhiều giáo viên kỳ cựu lên làm hiệu trưởng. Ông cũng mở ra những lớp dành cho người lớn để dạy tiếng Malay vốn giờ đây đã trở thành quốc ngữ, và phát động phong trào dạy cho người Hoa biết đọc biết viết, lấy tiếng Quan thoại làm thứ tiếng phổ biến trong số các nhóm phương ngữ Hoa. Dân chúng muốn cảm thấy họ đang cải thiện chính mình và tương lai của mình, và chúng tôi đã trao cho họ phương tiện. Chúng tôi vận dụng các phương pháp rất hữu hiệu vốn là của các đảng cộng sản. Cũng như trong chuyện vận động quần chúng, chúng tôi cùng thấy chẳng có lý do gì mà MCP mới được quyền sử dụng những kỹ thuật như vậy.

Chọn tập
Bình luận
720
× sticky