Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Hồi Ký Lý Quang Diệu – Tập 1

Chương 13: Thất Bại Ở London

Tác giả: Lý Quang Diệu
Chọn tập

Tunku Abdul Rahman, lãnh tụ đảng UMNO trong Liên bang Malaya, là mẫu đối lập với David Marshall. Ông ta là một kẻ hoàn toàn cứng rắn và đáng tin cậy. Ông ta không làm ra vẻ thông minh, nhưng lại là một quan tòa khôn ngoan của dân chúng. Quan trọng nhất, ông ta ý thức được tầm quan trọng của quyền lực. Cha ông ta là tiểu vương xứ Kedah, và dưới bóng ngai vàng của cha, ông ta đã học cách nắm và sử dụng quyền lực để khiến người khác làm những gì ông ta muốn ở họ. Là một ông hoàng, ông ta nhận được sự ủng hộ hoàn toàn của những nhà cai trị 9 bang Malay thuộc Liên bang, những kẻ đã chống đối đề nghị của chính phủ Anh về một Liên hiệp Malaya năm 1946. Hơn ai hết, ông ta là một kẻ thân Anh và chống cộng thực sự. Lúc trẻ ông ta là một sinh viên tại Anh trong 9 năm, 3 năm học luật ở Cambridge, nơi ông ta quả thực nhận được một văn bằng, và 6 năm nữa cố gắng – nhưng không vất vả lắm – để vượt qua kỳ thi vào Luật sư đoàn. Ông ta hưởng thụ cuộc đời và thường kể cho tôi nghe về những thời gian tuyệt diệu mà ông ta từng có ở nước Anh. Ở ông, người Anh tìm ra một lãnh tụ có sẵn sự giúp đỡ vững chắc từ người Malay và sự ủng hộ nhiệt tình từ người Hoa và Ấn.

Trong tháng 6/1955, Liên bang tổ chức một cuộc tổng tuyển cử trong đó khối liên minh của UMNO, Hội những người Malay gốc Hoa (MCA), và Hội những người Malay gốc Ấn (MIC) giành chiến thắng tuyệt đối. Sau đó, Tunku và một số đồng sự trở thành những thành viên của Hội đồng Hành pháp của Cao ủy Anh; như ở Singapore, giờ họ đã có một nền tự trị giới hạn nhưng không như các ủy viên của chúng tôi, họ hoàn toàn vui vẻ làm việc với những người được thực dân bổ nhiệm. Một khác biệt quan trọng là họ đang chống lại cuộc chiến tranh du kích của những người cộng sản mà chỉ có thể bị dập tắt nhờ vào sự giúp đỡ của quân đội Anh, Úc và New Zealand, và người Anh yêu cầu tình trạng khẩn cấp phải chấm dứt trước khi nền độc lập được trao trả.

Tháng 1/1956, Tunku đi London để dự một hội nghị hiến định, và trên đường từ Singapore đến nước Anh trên con tàu khách Asia của Ý, ông ta đã nói với báo chí là ông ta không đồng ý với Marshall rằng Singapore phải được hưởng quy chế bình đẳng trong bất kỳ liên minh nào giữa họ. Nếu Singapore được hưởng quy chế bình đẳng, “nó sẽ gây hoảng loạn cho những người Malay ở lục địa. Người Anh tách đôi hai lãnh thổ chủ yếu để bảo vệ quyền lợi của người Malay trong Liên bang”. Tuy nhiên, ông ta đồng ý với PAP rằng các cuộc thảo luận sẽ được mở ra giữa các lãnh tụ của Singapore và Liên bang để bàn về một liên minh tương lai. Trong đoạn văn dẫn của mình trên tờ Singapore Standard, Raja giải thích “liên minh tương lai” có nghĩa là “sự hợp nhất tương lai”. Raja có lẽ đã không có sai lầm nào lớn hơn.

Tunku có ý gì khác trong đầu, không phải là sự hợp nhất của hai lãnh thổ mà là “một liên minh”, một sự dàn xếp giữa hai thực thể riêng rẽ. Ông ta không muốn Singapore thành một bang trong Malaya vì nó sẽ làm đảo lộn cán cân chủng tộc ở Malaya. Ông ta cũng không muốn Singapore thành một xứ độc lập ngang hàng với Malaya. Ông ta muốn người Anh vẫn nắm quyền điều khiển một Singapore tự trị, và hình thành một liên minh với một chính phủ Singapore không có chủ quyền. Thật không may, đã không còn thời gian cho những cuộc dàn xếp như thế. Người Anh biết điều đó, nhưng Tunku thì không.

Alan Lennox–Boyd đã đến thăm Kuala Lumpur vào tháng 8/1955 để đánh giá tình hình và bản thân Tunku. Ông ta nhận ra ở Tunku một con người mà ông ta có thể tin cậy, và chấp nhận ngày trao trả độc lập cho ông ta, ngày 31/8/1957. Hơn nữa, với kết quả trực tiếp từ việc kết thúc của hội nghị hiến định vào tháng 2/1956, Tunku tiếp quản tất cả các chức vụ và trách nhiệm của Hội đồng hành pháp từ các viên chức người Anh và Malaya trở thành một quốc gia tự trị trên thực tế.

Sự tiến bộ về mặt chính trị của Liên bang đã thay đổi viễn cảnh cho Singapore. Cho đến lúc đó, đã có một cơ hội là Malay sẽ không được trao trả độc lập khi Singapore chưa trở thành một phần của nó. Giờ thì Singapore hoàn toàn cô độc. Kế hoạch của người Anh là có một nước Malaya độc lập với người Malay đứng đầu – tuy nhiên, người Malay cũng cần Anh giúp trong một thời gian để cai trị đất

nước và chống lại cộng sản – trong khi đó họ vẫn giữ Singapore như một thuộc địa vô thời hạn vì giá trị chiến lược của nó đối với nước Anh, Úc và New Zealand. Singapore may lắm thì trở thành một lãnh thổ tự trị với tất cả lễ bộ của nền độc lập nhưng lại không có chủ quyền thực sự, và những quyết định cuối cùng về chính sách đối ngoại, an ninh và quốc phòng sẽ vẫn nằm trong tay người Anh.

Phản ứng của Marshall đối với vấn đề này có thể đoán trước được: ông ta bị đẩy vào thế phải yêu sách tối đa trong các cuộc đàm phán hiến định sẽ khai mạc ở London vào ngày 23/4. Nếu có cơ hội, ông ta sẽ đòi chủ quyền trọn vẹn. Ông ta sẽ đòi hỏi nền độc lập hoàn toàn từ tay người Anh, và như thế có một tư thế bình đẳng với chính quyền Tunku. Tuy nhiên Singapore sẽ ký một hiệp định hứa bảo đảm những căn cứ cho người Anh và nhường cho nước Anh tiếng nói quyết định trong việc đối ngoại. Nói tóm lại, ông ta sẽ đạt được điều đó bằng cả hai cách. Với sự ủng hộ chút ít từ bạn bè của ông ta, trong đó có Ong Eng Guan, thủ quỹ của PAP, ông ta phát động một “Merdeka Week” (Tuần lễ độc lập) nhằm thu thập chữ ký của quần chúng và bày tỏ sự ủng hộ của quần chúng đối với nền độc lập và bản thân ông ta như một chiến sĩ của nó. Vì mọi người đều biết chính phủ liên hiệp của ông ta non kém, nên ông ta cũng quyết định đưa sang London một đoàn đại biểu từ đủ mọi đảng phái nhằm chứng minh sự đoàn kết của họ trong vấn đề này.

Ông ta đã ở đó vào tháng 12/1955 và được khích lệ từ những cuộc gặp gỡ với các Bộ trưởng và dân biểu quốc hội Anh đến độ ông ta đã tuyên bố với báo chí Anh là không còn các “tay thủ cựu” nữa, một điều mà ông ta cho là đáng lặp lại trong Hội đồng lập pháp sau khi trở về Singapore. Ông ta cũng thuyết phục mọi đảng phái đồng ý việc ông ta mời một phái đoàn các dân biểu Anh thuộc Đảng Bảo thủ và Đảng Lao động đến thăm Singapore trong tuần lễ Merdeka, khi nó lên đến đỉnh điểm trong một cuộc mít–tinh vào ngày chủ nhật 18/3/1956 ở phi trường Kallang. Trong khi đó khoảng 170.000 chữ ký đã được thu thập, và một tình huống để chụp ảnh đã được dàn xếp để ghi hình những văn kiện đóng gói lớn được đoàn đại biểu liên đảng trình trước Hạ nghị viện như một bằng chứng về lòng khát khao độc lập của Singapore.

Sáu nghị sĩ quốc hội Anh đến, nhóm thuộc Đảng Lao động dẫn đầu bởi Herbert Morrison, từng là Bộ trưởng nội vụ trong chính phủ của Đảng Lao động nhiệm kỳ đầu tiên năm 1945–1950 và là nhân vật

thứ hai sau thủ tướng Clement Attlee. Chúng tôi gặp họ thân mật ở các buổi tiếp, và tôi giải trí một buổi tối với họ tại một câu lạc bộ trong Capitol Building. Màn biểu diễn chính là một pha vũ bán thoát y, không thích hợp cho một đoàn đại biểu đến với mục đích nghiêm túc nhằm đánh giá sự trưởng thành của chúng tôi, khát khao độc lập cháy bỏng của chúng tôi và khả năng quản lý nó của chúng tôi. Nhưng trước sự ngạc nhiên của tôi, Morrison rất thích thú. Ông ta đang trong tâm trạng nghỉ lễ, và trong trạng thái phấn khích ông ta đưa ra những nhận xét dí dỏm về những gì đang chứng kiến, ông ta không tin rằng có một niềm khát khao độc lập cháy bỏng dữ dội trong cộng đồng dân chúng Singapore, nhưng lại nhận xét sắc sảo rằng có một nhóm bí mật được tổ chức chặt chẽ và mạnh mẽ đang lôi kéo các nghiệp đoàn, học sinh và nhiều người khác. Có lẽ ông ta muốn tôi phản bác lại điều đó, nhưng tôi không cải chính nhận xét của ông ta.

Khi ngày mít–tinh Merdeka đến, tôi cùng Choo lái xe đến Kallang, đậu xe cách cao ốc phi trường một quãng, và đi bộ đến khán đài được dựng bên cạnh đường băng. Đó là một buổi chiều oi bức – tôi mặc một chiếc sơ mi ngắn tay – nhưng có khoảng 25.000 người chờ cho đến 5 giờ, khi Marshall đến trong chiếc xe hơi mui trần của ông ta. Ông ta lái xe thẳng tới khán đài mà trên đố Chin Chye, Ong Eng Guan và tôi đứng sẵn, và leo ngay lên với chúng tôi và ra dấu chào Merdeka bằng một nắm tay giơ cao. Đám đông ùa tới ông ta, vài người leo lên khán đài, mà nó vốn được làm tạm bợ bằng những mảnh gỗ mỏng manh, nhanh chóng sụm xuống. Thế là hệ thống phóng thanh bị hư hỏng, vì thế trong vài phút không ai có thể nói gì với họ. Cuối cùng khi một mic–rô được nối lại, tôi yêu cầu một bộ phận đám đông cư xử cho phải phép, rằng có một số “kẻ xấu” len lỏi trong số họ, trong khi đó một Marshall đang khoa chân múa tay nói trong mic–rô khác bị hỏng.

Không lâu sau đó, khi các dân biểu quốc hội Anh đến, Morrison nói với Marshall: “Rất tiếc khi nghe khán đài của ông bị sập”. Họ không hề ra tới đó, mà được dẫn vào tòa nhà phi trường hai tầng và được giới thiệu với đám đông từ trên ban công. Họ đã không muốn đến, nhưng Marshall thuyết phục họ là dân chúng thì thân thiện và họ không cần phải lo về mặt an ninh. Sau đó ông ta vỗ nhẹ vào lưng tay dẫn đầu đoàn đại biểu, đảng viên Đảng Bảo thủ Jeffrey Lloyd và

nói: “Tôi nghĩ là các ông nên nhanh chóng rời khỏi đây.” Lloyd và đảng của ông ta bỏ đi tức khắc.

Tôi không thể nào làm đám đông trật tự trở lại được, và Lim Chin Siong, nói bằng tiếng Quan thoại và tiếng Hokkien, cũng không ăn thua gì. Đây không phải là cuộc mít–tinh do Lim tổ chức. Đây là cuộc mít–tinh của dân thường, và những tay đầu lĩnh đám đông của ông ta không nắm quyền chỉ huy. Ong Eng Guan đề nghị rằng nếu chúng tôi bắt nhịp cho họ hát, họ sẽ không đi đến chỗ bạo loạn. Ông ta lấy mic–rô từ tay Lim hát to bài We Love Malaya (Chúng ta yêu Malaya),

tiếp theo đó là bài hát cộng sản Unity is Strength (Đoàn kết là sức mạnh), chuyển sang giai điệu của John Brown’s Body. Sau đó, trời bắt đầu mưa phùn. Tôi ra dấu cho Choo đưa xe lại. Cô đưa nó lại khán đài trong chừng mức an toàn mà cô có thể, và chúng tôi lái xe rời đi.

Không một ai có cách gì để điều khiển đám đông đó. Họ đã trở thành một đám hỗn tạp. Ngay sau đó dân chúng ném gạch đá vào các cửa kính của tòa nhà phi trường, rồi hàng trăm người xông tới đập phá các cổng kim loại, và hẳn là đã chiếm được tòa nhà nếu cảnh sát tăng viện không kéo đến kịp. Khi cảnh sát giải tán, họ tản ra thành những nhóm nhỏ, tràn đi phá phách trên các đường phố gần đó và ném đá vào xe cứu thương của lữ đoàn St John đang cấp cứu những người bị thương. Khoảng 7 giờ, trật tự được vãn hồi, 50 người bị thương, trong số đó có 20 cảnh sát.

Không có ai thiệt mạng hoặc thiệt hại tài sản gì đáng kể. Nhưng việc xảy ra đã để lại trong lòng sáu thành viên đến thăm đó một sự nghi ngờ về tính bất ổn trong tình hình chính trị ở Singapore, và khiến họ tin rằng chính phủ, thậm chí với một vị tổng trưởng Anh và một cảnh sát trưởng Anh, cũng không hoàn toàn điều khiển được. Điều đó gần như là sự thật. Singapore của Marshall không phải là Malaya của Tunku. Chính phủ Mặt trận Lao động không có được sự ủng hộ vững chắc. Nó là, như Robert Black viết cho Lennox–Boyd, một “tai nấm, chỉ có đầu, thân mảnh, không gốc rễ”. Lá thư của Black mô tả lực lượng cộng sản trên hòn đảo lan tỏa hơn trong nội địa và các biện pháp để chế ngự nó – bắt giữ mà không xét xử, hơi cay, vòi rồng, việc xóa tên trong sổ công đoàn, cấm các cuộc hội họp vì mục đích phá hoại – chỉ chữa được các triệu chứng mà không trị liệu căn bệnh. Black viết rằng dù các lực lượng phòng vệ có thể

ngăn cản được sự đình trệ các dịch vụ công cộng hoặc những sự hỗn loạn lớn, nhưng các phương thức của họ đồng thời sản sinh ra nhiều người trẻ tuổi chống chính phủ và bài Anh hơn tham gia vào đội ngũ ngày càng vững mạnh của các tổ chức CUF. Dưới một chế độ dân chủ, mỗi người một lá phiếu, nó chỉ là vấn đề thời gian trước khi các học sinh trung học trường Hoa và những công nhân trẻ tuổi nói tiếng Hoa hình thành một chính phủ khuynh tả hợp pháp do dân bầu.

Tôi đã nung nấu những ý nghĩ tương tự khi tôi cân nhắc cái thế tiến thoái lưỡng nan mà chúng tôi, những người phi cộng sản, đối mặt. Nhưng Marshall có những hiểu biết giới hạn về tình hình thực tế của đất nước, và kinh nghiệm bản thân cũng không cách chi làm ông ta bớt bồng bột hoặc kiềm chế được. Ông ta vẫn lạc quan rằng ông ta sẽ có được một cái gì đó cũng tốt đẹp như Tunku đã đạt được từ Lennox–Boyd, và ngày 4/4, ông ta đã chuyển vào Hội đồng một bản kiến nghị để trình bày những gì ông ta chờ mong ở chính phủ Anh trong cuộc đàm phán hiến định. Phần thực tế của văn bản này là:

“Hội đồng lập pháp yêu cầu phái đoàn liên đảng … ngay lập tức tìm kiếm cho Singapore quy chế của một lãnh thổ độc lập nằm trong Khối thịnh vượng chung và đưa ra một hiệp ước giữa chính phủ Vương quốc Anh và chính phủ Singapore, qua đó chính phủ Vương quốc Anh sẽ nhân danh Singapore thực thi quyền điều khiển việc phòng vệ bên ngoài và có chỉ đạo trong quan hệ đối ngoại hơn là trong giao thương và thương mại.”

Tôi đã nhiều lần tranh cãi riêng với Marshall trước khi ông ta đưa ra kiến nghị rằng chừng nào mà nước Anh còn có quyền ra lệnh cho Singapore phải làm những gì trong vấn đề quốc phòng, thì Singapore không thể là một nước độc lập được, cho dù có bất kỳ thỏa ước gì. Nhưng ông ta không chịu từ bỏ mục tiêu của mình – cảm giác độc lập dù chỉ là hình thức. Trong việc tán thành đề nghị của ông ta, tôi nói rằng nghị quyết được phác thảo như thế là một “cách nói hoa mỹ rằng chúng tôi ý thức rằng người Anh sẽ không trao cho chúng tôi nền độc lập hoàn toàn vì điều đó sẽ có nghĩa là làm đảo lộn các thỏa ước quốc tế và những nền tảng quốc tế trong chiến lược phòng vệ thế giới”.

Tôi đã làm hết sức mình trước khi diễn ra hội nghị London để chắc rằng hiến pháp kế tiếp sẽ không mở ra những cánh cổng cho phái quá khích, mà sẽ cho chúng tôi đủ cơ hội để thành lập một chính thể phi cộng sản, không phải một thứ bù nhìn của người Anh, mà như người bảo vệ cho quyền lợi của nhân dân. Marshall không bao giờ hiểu ra sự cần thiết cho thế cân bằng tốt đẹp này: phải có đủ sức mạnh để hành động vì lợi ích của nhân dân, nhưng cũng phải có người Anh ở vị trí trừ bị trong trường hợp cộng sản chiếm được thế thượng phong. Và Lim Chin Siong không hiểu ra rằng gần như độc lập mà không có chủ quyền thì có nghĩa là chủ quyền vẫn trong tay người Anh. Những gì ông ta muốn hoàn toàn đơn giản là có một hiến pháp mà nó sẽ cho phép lực lượng của ông ta lớn mạnh thêm.

Marshall dẫn đầu đoàn đại biểu liên đảng gồm 13 thành viên, trong đó gồm 5 ủy viên chính phủ và 2 quan chức thứ yếu trong chính phủ Mặt trận Lao động, 4 đảng viên Đảng Xã hội Tự do (do Đảng Cấp tiến và đảng viên Đảng Dân chủ hợp nhất lại hồi tháng 2) và 2 thành viên PAP. Chúng tôi bay thành từng nhóm riêng trên những chiếc phi cơ cánh quạt BOAC Argonaut mất hai đêm ba ngày để đi từ Singapore đến London, với hai lần nghỉ qua đêm ở Colombo và Karachi. Tôi lên đường hồi đầu tháng 4 để có thời gian gặp Keng Swee và đánh giá tình hình từ phía người Anh. Lim Chin Siong đi cùng tôi, hơi bị hoang mang. Đây là lần đầu tiên ông ta rời khỏi đất nước. Nhưng nỗi sợ hãi của ông ta là do phải rời khỏi những cố vấn đầy kinh nghiệm của mình hơn là vì việc phải có mặt ở đất khách.

Trước khi tôi và Lim lên đường trên chiếc Argonaut, tôi đưa ra một tuyên bố chính thức của PAP để giải thích tại sao chúng tôi thay đổi đường lối của mình. “Chúng tôi muốn hợp nhất ngay cả trước khi chúng tôi đạt được một nhà nước tự trị… Đáng tiếc là Thủ tướng Liên bang không thể đồng ý với kiến nghị của chúng tôi… Hiện chúng tôi đang tìm kiếm một bước tiến tối đa về chính trị mà chúng tôi có thể đạt được ở riêng Singapore, nhưng sẽ phấn đấu để đạt được sự hợp nhất với Liên bang.”

Những chuyến bay duy nhất tôi thường đi trước đó là bay đến Kuala Lumpur và trở về trên chiếc Dakota hai động cơ. Trong những ngày đó, việc di chuyển bằng đường hàng không chỉ dành cho một thiểu số người lãnh đạo, đắt tiền và không phải là không có rủi ro, và mỗi chuyến đi đáng để cho bạn bè, người thân hoặc những người

ủng hộ đảng phái làm lễ tiễn đưa. Đám đông khoảng vài trăm người đến để tiễn tôi và Lim và chúng tôi nói chuyện với họ từ trên chót cao của cầu thang di động trước khi bước vào máy bay. Tôi nói rõ ràng rằng mục đích của đoàn đại biểu là “không bảo đảm một nền độc lập toàn vẹn mà chỉ tự trị 75% và sau 5 năm thì tự trị hoàn toàn”. Lim đứng cạnh tôi và tôi phải bảo đảm rằng báo chí hiểu đúng đắn điều đó và sẽ không xuyên tạc lập trường của PAP.

Rồi tôi sẽ có được những ấn tượng mới. Khi chúng tôi dừng nghỉ đêm ở Colombo, tôi thật sự ngạc nhiên khi nhận thấy sự phát triển vượt bậc ở đó. Nó không bị Nhật chiếm đóng và trông thịnh vượng hơn Singapore nhiều. Karachi, chỗ nghỉ đêm kế tiếp, thì nóng và đầy bụi, và đây là lần đầu tiên tôi thấy lạc đà làm việc như một loại gia súc dùng để kéo những chiếc xe kéo nặng nề và thoải mái thải ra những đống phân khổng lồ khi đang đi trên đường. Nhưng trong một tối dạo phố, tôi đã có cơ hội mua cho Choo mấy tấm khăn choàng lụa mỏng trông giống như những sợi tơ dệt lẫn với chỉ vàng. Thỉnh thoảng cô ấy vẫn dùng chúng. Sau Karachi, chúng tôi còn dừng để tiếp nhiên liệu ở Cairo và Rome, và cuối cùng hạ cánh ở London ngày 17/4.

Tôi có 6 ngày để bắt kịp tình hình chính trị ở đây trước khi hội nghị bắt đầu. Thời tiết tuyệt đẹp. Đây là một trong những mùa xuân có nắng ở London và hoa tulip đã nở dọc theo phố Mall. Nước Anh đang bắt đầu thoát khỏi tình trạng khó khăn sau chiến tranh. London trông sạch sẽ, ngăn nắp hơn trong vòng 6 năm từ khi tôi rời đi hồi năm 1950, và có nhiều xe hơi hơn trên đường phố. Nó cũng có một sự cân bằng chủng tộc mới nữa. Tôi thấy khá đông những người da đen châu Mỹ Latinh làm nhân viên bán vé trên xe buýt, và một số người quét rác da đen. Và tôi nhận thấy rằng những người châu Á hiện được nhắc đến trên báo chí bằng chữ Asean thay cho chữ Asiatic trước đây. Người ta cho tôi biết là vào khoảng năm 1953, báo chí Anh bắt đầu dùng từ “Asian” vì từ “Asiatic” có vẻ hơi hạ cố hoặc khinh thường, và sự thay đổi này là một sự nhượng bộ đối với người Ấn, Pakistan và Sri Lanka, hiện đã độc lập. Tôi không hiểu điều này cải thiện thế đứng của họ như thế nào. Khi bọn trẻ London gọi tôi là người Hoa hay Chink, tôi không hề bực bội. Nếu chúng hàm ý chữ đó như một từ miệt thị, thì công việc của tôi là làm cho chúng, một ngày nào đó, phải nghĩ khác đi.

Tôi dành nhiều thời gian với Keng Swee và những nhóm phụ tá của ông ta, những sinh viên năng nổ đã giúp ông ta chiến đấu và đánh bại John Eber và nhóm của ông ta ở Diễn đàn Malaya. Trong số họ có Joe Pillay, người sẽ trở thành Chủ tịch Hãng hàng không Singapore, và Chua Sian Chin, người sẽ trở thành Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tôi thấy được khích lệ khi Keng Swee đã có thể tìm được những người trẻ tuổi có năng lực và họ có thể giúp chúng tôi rất nhiều khi họ trở về Singapore.

Ông ta cũng có nhiều tiếp xúc với Hội Fabian và Đảng Lao động. Vài người, như Hilda Selwyn–Clacke, vợ của một vị nguyên thống đốc Hồng Kông, bắt đầu trở thành một người bạn và là người bênh vực cho các sinh viên thuộc địa. Các hội viên Fabian đang nuôi dưỡng những người theo chủ nghĩa dân tộc, họ sẽ trở thành những người dân chủ đúng nghĩa, những người theo chủ nghĩa xã hội thật sự, và những người ủng hộ nước Anh trong Khối thịnh vượng chung mới thành lập. Keng Swee đã thu xếp cho tôi dùng cơm với những nhân vật quan trọng của Đảng Lao động, lúc đó đã thôi nắm quyền, gồm có Aneurin Bevan, cựu Bộ trưởng, người đã tổ chức mạng lưới bảo hiểm y tế quốc gia, một người xứ Wales và là nhà hùng biện vĩ đại. Và tôi có dịp đến thăm những người bạn cũ của tôi và Choo ở Cambridge, vài người trong số họ hiện đang hành nghề trong luật sư đoàn. Họ cho tôi một cảm quan về tâm trạng của xã hội Anh ở London sau thời kỳ khổ cực, mà nó sẽ dẫn đến những năm 60 đầy khởi sắc.

Hơn một tháng từ giữa tháng 4, tôi sống cùng Lim Chin Siong trong một căn hộ được phục vụ đầy đủ ở St James Court, nơi đoàn đại biểu liên đảng lưu trú. Căn hộ của chúng tôi có hai phòng ngủ kèm theo phòng tắm riêng và một phòng khách. Bữa ăn được phục vụ trong nhà hàng bên dưới, nhưng bữa điểm tâm có thể được mang lên phòng. Khách sạn đó có vẻ thanh lịch theo kiểu cổ, với kiến trúc bằng gạch trang nhã và những thang máy xưa.

Tôi sống trong môi trường quen thuộc và được Keng Swee và những người khác chỉ dẫn tận tình, tôi có thể đánh giá nhanh chóng các chính khách Anh đã thay đổi tư tưởng và lập trường của họ như thế nào. Nhưng Lim thì khác. Ông ta thể hiện mình là một kẻ dễ chịu, đáng yêu, không hề tự phụ nhưng có nhiều kiềm chế, như hầu hết những người Hán học khác. Ông ta rất lo lắng để không gây ra điều thất thố và rất biết ơn tôi vì đã mách nước cho ông ta về những

tập tục xã hội của người Anh, như những tập tục trên bàn ăn của họ

– cách cầm nĩa, muống và dao, và cách đặt muống và dao cùng nhau như thế nào để chứng tỏ bạn đã dùng xong một món ăn. Chúng tôi dùng chung một chiếc xe hơi. Mỗi đảng trong đoàn đại biểu được cấp một chiếc, nhưng vì ông ta không có những mối quan hệ xã hội ở London và những công việc của ông ta toàn là những việc chính thức, mà những việc đó tôi cũng đi, nên tôi sử dụng chiếc xe hết phần lớn thời gian. Tuy nhiên còn một lý do khác nữa: ông ta không hề muốn tài xế biết khi nào ông ta gặp riêng những tay thân cộng.

Tôi tự hỏi không biết ông ta đi lại bằng cách nào. Chắc hẳn trước khi rời khỏi quê nhà, ông ta đã có được một vài số điện thoại và địa chỉ. Nhưng MCP không có những cán bộ đáng tin cậy ở London nắm vững tình hình ở Singapore và Malaya. Theo tôi biết, mối liên hệ quan trọng nhất của ông ta là John Eber, và tôi thấy yên lòng, vì điều đó có nghĩa là ông ta sẽ không nhận được lời khuyên đúng đắn. Ông ta không có ai tin cậy để nhờ vả, và đang hoạt động ở một thế hoàn toàn bất lợi, kèm theo lòng khinh bỉ của ông ta với các ủy viên thuộc Mặt trận Lao động cùng những đại biểu khác. Với quần áo bảnh bao và giọng nói ồn ào, họ có vẻ hào nhoáng, ra ngoài để vui chơi thỏa thích. Lim Chin Siong hoàn toàn ngược lại. Ông ta có một bộ com–lê mới và tự mua một chiếc mũ mềm theo lời khuyên nhưng ông ta không bao giờ đội nó trừ lúc ra phi trường. Ông ta rất bình dị, khiêm tốn và cư xử chừng mực, với một lòng tận tụy cho chính nghĩa của mình, ông ta đã thu phục được lòng tôn trọng và sự khâm phục vốn rất hiếm hoi của tôi. Tôi ước gì mình có những cán bộ giống như ông ta. Ông ta giống như một thầy đội Gurkha trong quân đội Anh – hoàn toàn đáng tin cậy, trung thành tuyệt đối, luôn sẵn sàng thi hành mệnh lệnh bằng hết năng lực của mình.

Có lẽ ông ta không biết đánh giá về tôi như thế nào. Tôi là một tay tư sản nốc bia ừng ực, thích chơi gôn, nhưng hẳn ông ta cũng hiểu rằng tôi không phải là không có một mục đích nghiêm túc. Về phía chúng tôi, phần lớn công việc soạn thảo các văn kiện đều do Marshall và viên luật sư của ông ta, Walter Reaburn, đảm trách, vì Marshall, về căn bản, đối phó với hội nghị này như một vấn đề pháp lý. Tôi xem nó hoàn toàn là một vấn đề chính trị, và Lim hẳn phải nhận thấy rằng tôi tập trung vào những vấn đề then chốt, kiểu như

vấn đề về chủ quyền, trách nhiệm về an ninh và đối ngoại thông qua Hội đồng An ninh Quốc phòng, và chức chủ tịch hội đồng này.

Ngày nọ, giữa hai buổi họp, ông ta đi đến cửa hàng Collet, một hiệu sách thuộc cánh tả đối diện viện bảo tàng Anh, mua quyển The Story of Zoya and Shura15 của L.Kosmodemyanskaya. Ông ta đưa tôi và nói: “Lee, cuốn sách này rất hay. Tôi đã đọc nó ở Trung Quốc hồi còn đi học. Và nó làm tôi thay đổi hẳn.” Tôi xúc động. Cuối cùng ông ta đã không gạch tên tôi như một tay tư sản ăn chơi trụy lạc. Tôi cám ơn và lướt qua các trang giấy. Một quyển sách bìa cứng do Moscow tài trợ và giá chỉ 5 si–ling. Nó kể lại một câu chuyện anh hùng về thời Đức xâm lược Liên Xô và chuyện một chàng trai và một cô gái đã hành động gì cho quê hương, cho bạn bè của họ và cho Đảng Cộng sản. Qua việc ca tụng những giá trị đạo đức, nó rõ ràng đã làm cho Lim xúc động dữ dội khi ông ta đọc nó vào độ tuổi thiếu niên nhạy cảm.

Ông ta là người có thiện chí và có vẻ chân thành sâu sắc. Tất cả sự tán dương và xu phụ của đám đông không hề làm ông ta chao đảo. Nhưng chúng tôi không bao giờ phát triển một tình bạn thân thiết. Thay vào đó, chúng tôi nhận rõ bản chất của nhau là gì. Ông ta biết tôi không phải là một người cộng sản, tôi biết rõ ông ta là một người cộng sản. Và chúng tôi cùng chấp nhận nhau như thế. Ông ta cần tôi; tôi cũng cần ông ta. Ông ta tin tôi là một người lương thiện trong vấn đề tiền bạc, và nói chung là không lừa dối ông ta. Nhưng ông ta không tin tôi về các vấn đề chính trị. Đó là bản chất mối quan hệ của chúng tôi. Chúng tôi không lừa dối nhau về lập trường của mình. Vốn tiếng Anh của ông ta không đủ giỏi để ông ta thông hiểu hết khối văn kiện của hội nghị, nhưng như tôi viết cho Chin Chye vào lúc đó: “Ông ta đang viết những bản báo cáo dài lê thê gửi về, chỉ có Chúa mới biết gửi cho ai.” Có lẽ ông ta bày tỏ ấn tượng của mình về con người và đánh giá quan điểm của họ đối với những vấn đề quan trọng.

Riêng tôi gặp gỡ và dùng bữa với dân biểu Anh, cả Đảng bảo thủ lẫn Đảng Lao động. Các đảng viên Đảng Bảo thủ có xu hướng trở thành những mẫu người hung hăng, quan tâm đến tình hình thế giới nói chung và hoàn toàn khác xa các thành viên Đảng Lao động, những người có thiện chí và suy nghĩ nghiêm túc nhưng lại đầy tính địa phương. Tôi có một bữa ăn đáng nhớ với Fitzroy Maclean và

Julian Amery. Maclean nổi tiếng nhờ những chiến tích thời Đức chiếm đóng Nam Tư, và đã viết những kinh nghiệm của mình trong cuốn Disputed Barricades, tôi thấy rất hấp dẫn. Amery cũng có một cá tính mạnh bạo, và sự quen biết của chúng tôi phát triển thành một tình bạn. Những người bạn như thế đã thể hiện giá trị rất lớn trong những năm 60 khi chúng tôi phải củng cố chính quyền ở Singapore, và thậm chí nhiều hơn thế nữa khi chúng tôi là bộ phận của Malaysia và bị đe dọa công khai bởi bọn Malay “Ultras”. (Tôi gọi họ là Ultras, theo cách người Pháp đặt tên cho những kẻ quá khích ở Algeria.) Việc tôi lưu lại London thì hay và có ích. Nhưng cuộc hội nghị thì không được như thế.

Ở London, Marshall đã đọc được lời tuyên bố của tôi hồi rời khỏi Singapore và cho là tôi đang phá hoại ông ta. Ông ta tấn công tôi kịch liệt trong một lần diễn thuyết trước 200 sinh viên Malay, cảnh báo họ rằng tôi đang lôi cuốn những “người cộng sản vào PAP và dọn dường cho những người cộng sản nắm quyền vào năm 1959”. Nhưng tôi không phải là người duy nhất mà ông ta nhận thấy đang bất đồng với ông ta. Lúc cuộc họp khoáng đại khai mạc, viên Bộ trưởng thuộc địa, Lennox–Boyd, vạch ra phương hướng cho toàn thể hội nghị trong bài diễn văn đanh thép, trầm tĩnh trong đó ông ta làm rõ quan điểm của người Anh. Đề cập đến cuộc viếng thăm London của Marshall hồi tháng 12 rồi, ông ta nói vị Tổng ủy viên này đã đi trệch khỏi sự thỏa thuận đã được đồng ý hồi ấy rằng Singapore sẽ chỉ có nền tự trị về nội vụ. “Thay vào đó, hiện ông ta mưu cầu sự độc lập chủ quyền toàn vẹn. Chính quyền Vương quốc Anh đã không hề được tham khảo mà cũng không đồng ý mở ra những cuộc thảo luận từ khởi điểm mới mẻ này.”

Marshall không hiểu hàm ý này. Ông ta đã để mình bị cuốn hút quá sâu vào dòng xúc cảm riêng tư. Trước khi rời Singapore, ông ta đã tuyên bố công khai rằng sẽ từ chức nếu như ông ta thất bại trong việc giành lấy độc lập. Vài ngày sau khi đến London, tôi nhận được một giác thư của ông ta đề ngày 21/4, nó được phổ biến đến các thành viên của đoàn đại biểu và đến chính phủ Anh. Marshall đòi hỏi merdeka, tức độc lập, ngay lập tức. Merdeka, ông ta chỉ rõ, sẽ tập hợp được nhân dân chống lại cộng sản.

Nhưng Lennox–Boyd không bị ấn tượng và tuyên bố vào ngày 25/4 rằng trong khi chính quyền Vương quốc Anh sẵn sàng thực

hiện những nhượng bộ quan trọng đối với các nguyện vọng của Singapore, nó có ý định vẫn giữ quyền “quyết định cuối cùng” trong vấn đề an ninh nội chính dưới hình thức một hội đồng bảo an do một cao ủy người Anh giữ chức chủ tịch.

Thay vì đọc những dự báo thời tiết và khóa chặt hầm tàu, Marshall cứ quyết định giong buồm tiến tới. Ông ta phổ biến một giác thư mới vào ngày 1/5 cùng một bản dự thảo Điều luật Độc lập của Singapore. Bởi vì những bản kiến nghị trước đây của ông ta không được chấp nhận, ông ta nhất quyết yêu cầu nền độc lập toàn vẹn, lần này với điều kiện là cho một Hội đồng An ninh Quốc phòng mà nó “sẽ chỉ đơn thuần là cố vấn” và chỉ chấp nhận một “giai đoạn chuyển tiếp”, không có gì hơn. Suốt giai đoạn chuyển tiếp này người Anh có thể can thiệp và đình chỉ hiến pháp, nhưng mặt khác Singapore sẽ có “nền độc lập toàn vẹn” trong “những thời đoạn bình thường”. Bản kiến nghị mới của Marshall sẽ cho phép người Anh can thiệp chỉ trong “những thời điểm bất thường”, nói cách khác chỉ sau một thời kỳ lộn xộn hoặc sau khi phe cộng sản nắm quyền một cách bất hợp pháp và đe dọa nền móng nước Anh.

Sự phản ứng của Marshall với Lennox–Boyd cũng giống như sự phản ứng của ông ta khi viên thống đốc, Robert Black, khước từ ông ta về vụ bốn tay phụ tá thứ yếu. Ông ta tăng tiền cược, ông ta không nhận ra là mình đang đấu với tay chủ trò, mà tay này sẽ không nhượng bộ. Trong buổi họp kế tiếp, ngày 4/5, Lennox–Boyd chỉ trích thẳng thừng quan điểm của Marshall về “những thời điểm bình thường”, rằng “thời điểm hiện tại khó có thể được xem như thời điểm bình thường”, và cuộc tranh cãi cứ dằng dai, với một Marshall càng lúc càng căng thẳng khi Lennox–Boyd vẫn giữ một vẻ điềm tĩnh lạnh lùng.

Có một việc xảy ra khắc sâu trong ký ức của tôi. Giữa lúc Marshall đang hăng hái diễn thuyết, một thư ký riêng nhẹ bước đến chỗ Lennox–Boyd và đặt một bức điện trước mặt ông ta. Lennox–Boyd đọc và bắt đầu viết lên đó. Marshall bực bội. Ông ta dừng lại giữa chừng, và cao giọng nói chứng tỏ ông ta đang giận dữ: “Bộ trưởng Ngoại giao16, chúng tôi biết là ông có nhiều thuộc địa trọng yếu khắp thế giới, nhưng chúng tôi đã vượt 8.000 dặm đến đây để trình bày trường hợp của chúng tôi và chúng tôi yêu cầu ông dành cho nó sự quan tâm đúng mức.”

Không rời mắt khỏi bức điện, Lennox–Boyd vẫn tiếp tục viết và nói: “Ngài Tổng ủy viên, hãy để tôi cam đoan với ông rằng trong tất cả các thuộc địa đáng giá của chúng tôi trên thế giới, Singapore là một trong những thuộc địa đáng giá nhất. Nó là một viên ngọc quý trên vương miện của Vương quốc Anh. Tôi đang lắng tai nghe. Ông đang nói thế này đây, ông Tổng ủy viên” – và ông ta lặp lại ba câu cuối cùng của Marshall đúng từng chữ một. Quả là một cuộc biểu diễn của một người có trình độ kỹ thuật cao, rất Anh, hoàn toàn chấn động. Marshall giận lặng người đi, một trạng thái bất thường đối với ông ta.

Nhưng tất cả đều trở nên rất chán và rõ ràng không đưa chúng tôi đến đâu cả, dù diễn ra nhiều cuộc họp kéo dài và những cuộc thảo luận lặng lẽ. Marshall đang đuổi theo một ảo tưởng, “một cái gì đó cao hơn chế độ tự trị về nội vụ mà phải đạt tới một nền độc lập hoàn toàn” như ông ta đã nói với tôi khi tôi hỏi ông ta muốn điều gì. Các buổi thảo luận kéo dài lê thê qua các phiên họp khoáng đại lần thứ tám, thứ chín, thứ mười, cho đến phiên họp thứ mười một, vào ngày 12/5, chúng tôi chuyển sang vấn đề về chức chủ tịch Hội đồng An ninh quốc phòng. Trước tiên Marshall gợi ý là người đó phải là người được Liên Hiệp Quốc chỉ định, một đề nghị bảo đảm là Anh sẽ bác bỏ. Ba ngày sau đó, hành động theo lời khuyên của ủy viên hành pháp của ông ta ở Singapore, ông ta gợi ý rằng đó phải là một người Malaya do chính phủ Liên bang chỉ định. Lennox–Boyd ngạc nhiên. Với ba người Anh, ba người Singapore và một người Malaya trong hội đồng, lá phiếu quyết định sẽ tùy thuộc vào người Malaya và người Anh sẽ trở thành thiểu số. Buổi chiều, ông ta gạt bỏ ý kiến đó, nói rằng: “Trách nhiệm bảo an là vấn đề của người Anh và đến chừng nào tình hình vẫn còn như thế thì Anh vẫn phải là kẻ có tiếng nói cuối cùng trong cương vị chủ tịch Hội đồng An ninh quốc phòng”.

Cuộc thảo luận đi đến chỗ bế tắc. Lennox–Boyd quyết định không cần tiếp tục hội nghị nữa, và tuyên bố rõ rằng đến đây là kết thúc hội nghị. Marshall lặng người kinh ngạc. Mặt ông ta sạm đi vì xúc động. Ngoại trừ Marshall và Lim Chin Siong, tất cả các thành viên trong đoàn đại biểu bao gồm cả tôi đã chuẩn bị để chấp nhận những gì người Anh đề nghị – một hiến pháp tự trị với chính phủ Singapore phụ trách an ninh nội địa, nhưng người Anh vẫn có quyền khống chế chính phủ này thông qua một Hội đồng An ninh Quốc phòng trong đó người Anh sẽ chiếm đa số. Tôi khuyên Marshall đừng từ

chối điều này, mà hãy “trở lại Hội đồng lập pháp và thảo luận lại vấn đề để sau đó tiến một bước xa hơn”. Nhưng ông ta bác bỏ ngay lập tức – ông ta không phải là con người biết tính toán trầm tĩnh, bình thản khi lâm vào tình thế khó khăn mà ông ta tự trói mình vào.

Tối hôm đó, chúng tôi cùng được phỏng vấn trên đài truyền hình độc lập. Cả hai chúng tôi đều lên án Lennox–Boyd kịch liệt, nhưng Marshall dùng ngôn ngữ hình tượng hơn, quả quyết rằng vị Bộ trưởng Ngoại giao đã bày ra “một chiếc bánh Giáng sinh với nước xốt chứa độc dược.” Giờ ông ta phải giữ lời hứa từ chức của mình.

Khoảng 5 giờ 45 chiều hôm đó, viên thư ký của đoàn đại biểu điện thoại đến nói rằng Marshall đang triệu tập một cuộc họp khẩn cấp nhằm thảo luận việc tái tục cuộc đàm phán. Tôi đánh thức Lim Chin Siong để báo tin. Ông ta không tin.

“Lee, thôi đi, đừng giở trò lỡm tôi,” ông ta nói bằng giọng Anh pha Hokkien của mình.

“Lim, tôi nói thật mà. Có một cuộc họp lúc 6 giờ.”

Bằng những hành động lắt léo đầy bất ngờ và mâu thuẫn của mình, Marshall đã gây bực bội không chỉ cho tôi và những thành viên Đảng Xã hội Tự do, mà cả những thành viên chủ chốt thuộc Mặt trận Lao động của ông ta. Ý muốn tái tục đàm phán để tự cứu mình của ông ta là quá sức chịu đựng của họ. “Ông không thể ăn những gì ông đã mửa ra,” như lời một đại biểu thuộc Đảng Xã hội Tự do xen vào bằng tiếng Hokkien đầy hình tượng. Suốt nửa giờ họp, Marshall biết rằng nếu ông ta cố tìm cách tái tục việc đàm phán, ông ta sẽ phải làm điều đó một mình. Ông ta đã đi quá xa vai trò của mình và đã bị cô lập.

Tối đó, ông ta tới xem vở Madam Butterfly cùng với Lennox–Boyd và bà Patricia Boyd, sau đó đến một nhà hàng Tây Ban Nha dùng cơm trong tiếng ghi–ta và tiếng thiết hài của các vũ công. Trong khi đó, tôi quyết định ngăn ông ta đừng đóng một màn phục hồi các thứ. Trong một cuộc họp báo tối đó ở Malaya Hall, tôi tuyên bố rõ rằng PAP sẽ chẳng can dự gì đến việc tái tục hội nghị. Tôi nói đó là “một sự cố gắng vô vọng cuối cùng để bám lấy chức vụ, một dấu hiệu của sự bất tài về mặt chính trị đến khó mà tin được”, và để kết thúc, tôi thêm: “Chưa bao giờ trong lịch sử phát triển thuộc địa lại

có quá nhiều trò bịp bợm được trình diễn bởi sự lãnh đạo thất thường đến thế trong một thời gian ngắn như thế.”

Tôi biết rằng qua việc tổ chức họp báo trong đúng buổi tối đó, dù có muộn đi nữa, tôi cũng sẽ xuất hiện trên báo chí London vào ngày hôm sau, cũng như trên báo chí Singapore, dù bị chênh lệch múi giờ. Những gì tôi nói sẽ xuất hiện trên báo và minh định quan điểm của tất cả mọi thành viên trong đoàn đại biểu. Và đó là những gì đã xảy ra.

Tôi rời London cùng Lim Chin Siong vào ngày 21/5. Cuộc hội nghị đã thực sự là một thất bại. Nhưng nó không phải là không có giá trị, vì nó đã giúp Singapore thoát khỏi tính phấn khích thất thường của Marshall. Marshall phải từ chức, và tôi đoán rằng Lim Yew Hock có thể sẽ là Tổng ủy viên kế tiếp của chính phủ Mặt trận Lao động. Chúng tôi sẽ bước vào một giai đoạn mới. Tôi không biết chắc Lim Chin Siong nghĩ gì. Có thể ông ta đang suy nghĩ đến hậu quả của tính hấp tấp của Marshall mà ông ta đã từng cổ vũ. Chắc chắn chúng tôi sẽ có một chính phủ ít thuận lợi cho CUF, bởi vì Lim Yew Hock sẽ là một giải pháp khác. Trong những giai đoạn cuối của cuộc hội nghị, tôi thấy Marshall hoàn toàn chịu ảnh hưởng của Lim Chin Siong. Khi ông ta làm cho tất cả những người phi cộng sản chán ghét bởi sự thay đổi quan điểm và những cơn hỉ nộ bất thường của mình, thì Lim là người ông ta trông chờ để có sự ủng hộ, và ông ta đã ngu ngốc nghe theo lời khuyên của Lim khi bác bỏ lời đề nghị cuối cùng của Lennox–Boyd.

Chọn tập
Bình luận
720
× sticky