Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Hồi Ký Lý Quang Diệu – Tập 1

Chương 36: Albar Dấy Lên Lòng Hằn Thù Của Người Malay

Tác giả: Lý Quang Diệu
Chọn tập

Syed Ja’afar Albar là chuyên gia phá hôi của các nhà lãnh đạo UMNO có óc thù địch với Singapore. Ông ta là người Ả Rập gốc Indonesia, nhỏ con, hói, gương mặt tròn đầy nghị lực, râu rậm và một giọng nói sang sảng. Vào đầu thập niên 1950, ông ta trông có vẻ hữu nghị. Hồi tháng 2/1955, lúc tôi tiễn Thủ tướng Malaysia xuống tàu đến Anh dự Hội nghị Lập hiến, Albar thúc tôi đứng sát vào hơn để chụp ảnh đăng báo, và nói bằng tiếng Malay là “tranh thủ tối đa”. Ông ta là một bậc thầy chuyên kích động quần chúng, và sau này tôi biết thêm, ông ta bạo tay và không từ một thủ đoạn nào. Tiếng Anh của ông ta chưa đủ để nói trước công chúng, nhưng tiếng Malay của ông ta thì tuyệt vời, với khả năng diễn đạt rất dễ gây ấn tượng. Ông ta đâu có cần được đăng trên báo chí tiếng Anh, vốn sau này sẽ mô tả ông ta như một tay kỳ thị chủng tộc đối với người nói tiếng Anh không chỉ ở Malaysia mà còn cả ở tầm quốc tế nữa. Ông ta nhắm vào báo giới Malay, và những bài viết gay gắt nhất của ông ta là dành cho họ, nhất là tờ Utusan Melayu vốn được in bằng tiếng Jawi (mẫu tự Ả Rập) mà người Hoa, người Ấn, người Anh và những người châu Âu khác không đọc được. Tờ Utusan đã bị UMNO mua, và đó là vũ khí mà Albar chọn để làm những bài diễn văn của ông ta tác động mạnh hơn.

Albar và báo chí Malay liên tiếp lặp lại điều bịa đặt rằng tôi đã coi Tunku là nhà lãnh đạo kém cỏi. Giờ đây họ còn dựng lên một chiến dịch kích động sự bất bình của người Malay trong một số vấn đề, thật có mà giả cũng có, dựa trên sự kiện rằng họ là những người kém thành công nhất và nghèo khó nhất trong số các cộng đồng tại Singapore. Sự thật thì người Malay chưa bao giờ bị chính phủ PAP kỳ thị cả. Trái lại, họ còn được hưởng giáo dục miễn phí, điều mà các trẻ em thuộc các sắc tộc khác chưa được hưởng, và mặc dù không có chuyện hạn định về lượng giấy phép tắc xi hay bán hàng rong cho người Malay như ở nội địa Malaya, chúng tôi cũng phải bảo đảm là luôn luôn có những cửa hàng hay quán sạp của người Malay để phục vụ cho đồng bào của họ ở khu lân cận trụ sở Ủy ban Gia cư và Phát triển. Ấy thế mà vào ngày 13/5/1964, tờ Utusan lại tường thuật rằng đã có sự xôn xao và bất an trong số những người Malay về chuyện phân bổ các gian hàng tại chợ mới Geylang Serai, và vào tháng 6, họ còn tuyên bố rằng chính sách của PAP về các trường học đã khiến nền giáo dục của người Malay bị thoái hóa.

Cuộc công kích của Albar khởi sự vào ngày 21/9/1963, ngay sau cuộc tổng tuyển cử của Singapore, lúc UMNO tại Singapore kết tội các thành viên của PAP là đã khủng bố người Malay tại Geylang Serai ở vùng đông của hòn đảo này qua việc ném pháo vào nhà dân chúng sau khi PAP thắng trong ba đơn vị bầu cử của người Malay. Lúc ấy tôi không nhận ra đó là một phần của một chiến dịch. Nếu các ủng hộ viên của chúng tôi có ném pháo, tôi sẽ xin lỗi, và tôi đã làm như vậy trên đài truyền hình. Qua điều tra, những lời cáo buộc đó hóa ra là vô căn cứ. Nhưng bất kể sự thật đó, các lãnh đạo UMNO đã có thể kích động được công chúng, đủ khiến cho họ đốt hình nộm của tôi một tuần sau đó.

Sau đó còn nhiều trò bóp méo nữa. Chẳng hạn, sau khi Chin Chye tuyên bố vào ngày 1/3/1964 rằng PAP sẽ tham gia vào cuộc tuyển cử liên bang, tờ Utusan liền chạy hàng tít: “1.500 người Malay bị đe dọa mất chỗ ở.” Thực tế ra là miếng đất mà họ bị yêu cầu phải trả lại là tài sản tư nhân. Chủ đất có quyền chính đáng để ra thông báo đòi họ dọn đi, và ông ta sẽ phải thương lượng với những người mướn và bồi thường cho họ. Chuyện đó chẳng dính gì tới chính phủ Singapore cả. Tờ Utusan đã vờ như không biết chuyện này, và vào ngày 28/5, họ lại tung tin rằng 3.000 người Malay bị đe dọa mất chỗ ở của họ tại Crawford, Rochor và Kampong Glam. Tôi đã đến thăm ba đơn vị bầu cử này và nói với dân chúng rằng những giấy báo dời nhà ấy được gửi tới cho người Malay, người Ấn và người Hoa y như nhau, chính là để thi hành một kế hoạch do chuyên gia Liên Hiệp Quốc đệ trình nhằm xây dựng lại thành phố, khởi đầu là từ các vùng ngoài xa rồi làm dần vào tới trung tâm. Chúng tôi phải phá hủy các tòa nhà cũ và tái định cư cho những ai nằm trong kế hoạch tái thiết đô thị này. Chúng tôi sẽ cung cấp chỗ ở tạm cho họ gần đó, và mỗi gia đình sẽ được cấp 300 đôla để trang trải cho phí tổn dời nhà, và được ưu tiên trở về ở lại một khi các tòa nhà mới được xây xong.

Chúng tôi cũng bị công kích với những lý do mơ hồ hơn. Vào ngày 23/5, một bài xã luận của tờ Utusan đã tố cáo PAP và tôi kích động những người không phải dân Malay đòi hủy bỏ các đặc quyền dành cho người Malay. Vào ngày 11/6, tờ báo này tuyên bố rằng: “UMNO Singapore được chỉ đạo là phải có biện pháp để cứu các nạn nhân của PAP”. Hôm sau, họ cho chạy hàng tít khác: “Người Malay tại Singapore ngày nay đang đứng trước sự đe dọa, đàn áp và chèn ép của chính quyền. Không được đối xử với con ruột của đất nước như con ghẻ”. Một tuần sau, tờ Utusan còn kêu gọi tất cả người Malay hãy “đoàn kết sau lưng UMNO để tạo sự phản đối mạnh mẽ và hiệu quả đối với chính quyền PAP,” và kêu gọi Kuala Lumpur hãy hành động ngay để bảo vệ các đặc quyền của người Malay. Thế rồi UMNO tung ra “bạch thư” kể rõ “nỗi thống khổ của người Malay trong chế độ PAP dưới sự lãnh đạo của Lee Kuan Yew”. Lại một lần nữa, họ tố cáo chúng tôi là đã đối xử với người Malay như con ghẻ, và nói rằng những người Malay phản bội lại dân tộc mình vì đã bỏ phiếu cho chúng tôi, giờ đây mới nhận ra lỗi lầm của họ, bởi hiện nay chính quyền đã chủ tâm biến Geylang Serai thành một khu phố Tàu thứ hai.

Chuyện tất cả những điều đó là dối trá trắng trợn hay không thì cũng không quan trọng miễn là chúng kích động được công chúng Malay. Ví dụ rõ nhất của nguyên tắc này là vụ ngày 4/7, lúc tờ Utusan bóp méo bài diễn văn tôi phát biểu tại Seremban, trong đó tôi có nói “40% người Malay tại nước Malaysia không thể thắng được 60% không–Malay.” Tờ Utusan thuật lại điều đó như sau: “Những người có thể đánh đuổi người khác ra khỏi Malaysia chính là người Hoa và những người không–Malay, và kẻ bị đánh đuổi đi là những người Malay bởi họ là thiểu số.” Họ đã lặp lại luận điệu này mấy ngày liền sau đó, và khi chúng tôi minh định rằng hiến pháp Singapore chỉ công nhận “vị trí đặc biệt” của họ mà thôi thì họ lại tuyên bố rằng PAP đang quyết tâm hủy bỏ “đặc quyền” của người Malay.

Lúc đầu, tôi quyết định phản công lại chiến dịch này bằng cách mời tất cả các nhà lãnh đạo Malay tại Singapore đến gặp tôi vào ngày 17/7 để thảo luận trực diện nhằm vạch trần các luận điệu dối trá và bóng gió. Vào ngày 30/6, UMNO đã ra tay trước tôi; tờ Utusan thông báo UMNO sẽ tổ chức một hội nghị bao gồm các đảng phái Malay vào ngày 12/7 nhằm “thảo luận về số phận và cảnh ngộ của người Malay dưới sự cai trị của PAP”. Cuộc họp này có sự tham dự của toàn thể các chính đảng Malay, mặc dù ba trong số đó chống Malaysia và thân Indonesia. Không sao, hiện tình này đòi hỏi sự đoàn kết thống nhất của người Malay, và Albar đã khởi sự khuấy đảo tình cảm của họ qua tuyên bố rằng tình cảnh của người Malay bây giờ còn nghẹt thở hơn cả thời người Nhật chiếm đóng. Đoạn văn tiêu biểu sau đây được lấy từ một trong các diễn văn của ông ta:

“Tôi rất vui mừng là giờ đây những người Hồi giáo và người Malay tại Singapore đã thể hiện tình đoàn kết, chuẩn bị cùng sống chết với nhau vì chủng tộc và thế hệ mai sau của chúng ta. Một khi đã có sự đoàn kết nhất trí đó, không một thế lực nào trên thế giới này có thể chà đạp chúng ta nổi, không một thế lực nào có thể làm nhục chúng ta được, không một thế lực nào có thể xem thường chúng ta. Không một Lee Kuan Yew, hay một nghìn Lee Kuan Yew nào… chúng ta sẽ hạ gục chúng…” (Vỗ tay. La hét. “Giết hắn… Giết hắn… Othman Wok và Lee Kuan Yew… Lee Kuan Yew… Lee Kuan Yew… Othman Wok.”) “Bất chấp chúng ta bị chính quyền PAP áp bức đến mức nào, bị chà đạp đến mức nào, và địa vị của chúng ta bị bóp vặn chèn ép đến mức nào, vậy mà theo cái kiểu lý luận của Lee Kuan Yew thì: Ê, các ngươi, chủng tộc thiểu số trên hòn đảo này, câm miệng lại. Ở đây, tôi muốn nói với Lee Kuan Yew rằng: Chính ông hãy câm miệng lại chứ đừng bảo chúng tôi.”

Toàn bộ cuộc hội nghị đã được trình chiếu trên Đài truyền hình Malay tại Kuala Lumpur vào tối hôm đó. Trong số các nghị quyết được thông qua có lời kêu gọi tẩy chay hội nghị ngày 17/7 của chính phủ mà trong đó tôi sẽ nói chuyện với các nhà lãnh đạo quần chúng Malay. Cuộc khuấy động chủng tộc rầm rộ trên các báo Malay đã thổi bùng cảm xúc của người Malay trên cùng khắp liên bang. Vào ngày 14/7, bộ chỉ huy cảnh sát liên bang đã công bố rằng các vụ xung đột đã xảy ra tới tận miền Bukit Mertajan xa xôi, thuộc tỉnh Wellesley, cách Singapore 500 dặm về phía Bắc, có hai người bị giết và 13 người khác bị thương. Những vụ xung đột Malay – Hoa đã từng xảy ra nhiều lần tại cựu thuộc địa Penang này sau khi nó được sáp nhập vào Liên bang Malaya năm 1948 và các đặc quyền của người Malay đã được áp dụng tại đây, trong khi trước đây không hề có chuyện này.

Bất chấp lời kêu gọi tẩy chay, có khoảng 800 đại biểu thuộc 83 tổ chức của người Malay và 300 ketua (trưởng thôn) đã tham dự hội nghị của chính quyền. Tôi đã nói chuyện bằng tiếng Malay và chúng tôi thảo luận các vấn đề về giáo dục, công ăn việc làm, nhà ở dành cho người Malay. Chẳng có ai thắc mắc gì về chuyện tái định cư tại Crawford, vốn từng bị người ta dùng làm ngòi nổ cho cuộc xách động. Trong năm tiếng đồng hồ bàn bạc chân tình, tôi đã nói rõ là chính phủ sẽ làm mọi điều có thể được để đào tạo giúp người Malay vươn lên được địa vị cao, thế nhưng không hề có hệ thống hạn định công ăn việc làm hay hạn định giấy phép hành nghề tắc xi hoặc bán rong.

Truyền thanh và truyền hình tại Kuala Lumpur đã lờ đi không đưa tin về hội nghị này. Thay vào đó, Utusan còn cho chạy hàng tít lớn đầy ác ý vào ngày hôm sau rằng: “Thách thức với Đoàn Thanh niên UMNO toàn Malay, Lee Kuan Yew kết tội: Thầy giáo bắt học sinh ngửi thịt heo – phản đối”. Hàng tít này có tính cách gây kích động khi buộc một người Hồi giáo phải làm điều mà họ căm ghét, nhất là sắp tới ngày đản sinh của Đấng Tiên tri Mohammed, một mùa lễ rất quan trọng đối với tất cả những người theo Hồi giáo.

Ngày kỷ niệm đản sinh của Đấng Tiên tri Mohammed là ngày thứ Ba, 21/7/1964, một ngày nghỉ lễ chung. Theo lệ, người Malay sẽ tụ tập tại một số nơi rộng rãi trong thành phố và tuần hành về khu của họ tại Geylang Serai cùng với trống lớn, trống nhỏ, hát những bài thánh ca mừng lễ. Lần này, cuộc diễu hành bắt đầu tại Padang, nhưng thay cho các bài thuyết pháp như vẫn thường có trước đây, lại xảy ra những bài diễn thuyết chính trị cố tình khuấy động tình cảm căm thù của người Malay.

Othman Wok, Bộ trưởng các vấn đề xã hội, đã có mặt tại Padang cùng với một nhóm người Hồi giáo Malay của PAP. Ông đã biết thế nào cũng có chuyện rắc rối xảy ra, bởi chín ngày trước đó, trong một cuộc mít–tinh tại Singapore, Albar đã kết tội tất cả những dân biểu Malay thuộc PAP vì đã không còn là dân Hồi giáo, chống Hồi giáo, chống Malay và là những kẻ phản bội cộng đồng. Ngay tại Padang, ông cũng đã cảm thấy tất sẽ có điều gì đó xảy ra vào chiều hôm đó, bởi giữa những lúc ngừng của các bài diễn văn là những tiếng hét “Allahu Akbar” (Thượng đế Vĩ đại), tiếng la vang lên trong giận dữ, chứ chẳng phải để ca tụng đấng Allah.

Esa Almenoar, một luật sư người Ả Rập, một kẻ ăn chơi và cũng là một tay Hồi giáo có lẽ phá giới nhất trong luật sư đoàn, đã đề cập tới vụ tái định cư ở Crawford bằng cách trích một đoạn trong Koran: “Allah không cấm bạn đối xử nhân từ và công bằng với những người không chống lại bạn vì lý do tôn giáo hay cũng không xua đuổi bạn ra khỏi nhà bạn, thật sự là Allah yêu sự công bằng.” Ông ta giải thích ý nghĩa của đoạn này như sau: “Rõ ràng đấng Allah không ngăn người Hồi giáo làm bạn với những người không Hồi giáo… nhưng tất cả những gì chúng ta làm cũng đều phải có một giới hạn ở chỗ nếu những người không Hồi giáo phá rối tôn giáo của chúng ta và xua đuổi chúng ta ra khỏi nhà mình thì những người Hồi giáo phải gọi những kẻ đó là bọn làm bậy độc ác.”

Tôi vừa chơi xong ván gôn vào lúc 6 giờ 20 chiều thì cảnh sát báo động những vụ đụng độ Malay – Hoa đã xảy ra trong cuộc rước lễ và tình trạng rối loạn đang lan tràn. Tôi chạy vội về nhà để thay quần áo và chạy đến bộ chỉ huy cảnh sát Pearl’s Hill, rồi cùng với Keng Swee nghe John Le Cain, chỉ huy trưởng cảnh sát và George Bogaars, giám đốc Sở đặc vụ báo cáo tóm tắt. Khi các báo cáo về tổn thất liên tục đổ về, lúc đầu là các nạn nhân người Hoa, sau đó là người Malay khi bị người Hoa đánh trả, Le Cain họp với ban chỉ huy cảnh sát ở Kuala Lumpur và ra lệnh giới nghiêm từ 9 giờ 30 tối đến 6 giờ sáng. Trong một chương trình phát thanh lúc 10 giờ 30 tối hôm đó, tôi thuật lại, theo lời của cảnh sát, chuyện bạo động đã xảy ra thế nào:

“Khoảng sau 5 giờ chiều, đám rước của gần 25.000 tín đồ Hồi giáo đi ngang qua Nhà máy Khí đốt Kallang nằm trong khu vực đa số người Hoa. Một nhân viên của Đơn vị dự bị Liên bang (cảnh sát biệt phái từ Malaysia qua) đã yêu cầu một nhóm tách rời khỏi đám rước hãy gia nhập trở lại. Thay vì tuân lệnh, đám người đó lại gây sự. Từ đó, hàng loạt rối loạn diễn ra khi ngày càng có nhiều nhóm trở nên hung hãn, tấn công khách qua đường và những người vô tội đứng gần đó. Các vụ bạo loạn đã lan tràn nhanh chóng khắp khu Geylang. Đến 7 giờ tối thì rối loạn đã nổ ra ngay trong thành phố.”

Tôi đã kêu gọi (mọi người) hãy bình tĩnh trở lại:

“Vấn đề ai hay cái gì đã gây ra tình trạng này thì cũng đều không quan trọng vào lúc này. Tất cả mọi dấu hiệu đều cho thấy đã có sự tổ chức và âm mưu đằng sau chuyện lộn xộn này nhằm biến nó thành một vụ xung đột chủng tộc xấu xa… Nhưng giờ đây, công việc của chúng ta là ngăn sự ngu xuẩn này lại… Những lời đồn và hô hào chuyện trả thù sẽ chỉ làm cho người ta thêm giận dữ.”

Thế nhưng những căm ghét chủng tộc đã dấy lên rồi, và hỗn loạn cũng đã xổ lồng. Tin tức, vốn bị bóp méo và thổi phồng, chẳng bao lâu lan truyền từ cửa miệng người này sang cửa miệng người khác. Trên toàn hòn đảo, người Malay bắt đầu giết người Hoa, và người Hoa đã trả thù. Thiệt hại lên đến 23 người chết và 454 người bị thương, và khi người ta đếm xác ở nhà xác, thì số nạn nhân người Malay cũng nhiều không thua gì số nạn nhân người Hoa. Các băng nhóm hội kín đã nhảy vào để bảo vệ người Hoa và thực hiện báo thù, không kém gì sự đối xử thô bạo mà nhân viên trong Trung đoàn Malay và Đơn vị dự bị Liên bang, chủ yếu gồm toàn người Malay, đã dành cho họ. Bạo động dấy lên từng đợt trong mấy ngày sau đó, vào những lúc lệnh giới nghiêm được tạm ngưng cho người ta đi chợ. Mãi tới ngày 2/8 thì chuyện này mới kết thúc.

Bất kể chuyện tàn sát như vậy, tờ Utusan vẫn tiếp tục xúi giục. Vào ngày 26/7, tờ này đã cho đăng một bài lấy từ báo Indonesia với tiêu đề “Lee chịu trách nhiệm về những vụ bạo loạn tại Singapore”, mặc dù chính phủ Malay và chính phủ Singapore đều đã kêu gọi bình tĩnh và hòa giải. Sáu ngày sau đó, Albar lên tiếng rằng các vụ bạo động đã xảy ra vì “đã có kẻ tai quái tại Singapore khiến người Malay và người Hoa chống đối nhau… Tại sao dưới thời của các chính phủ Anh, Nhật, David Marshall và Lim Yew Hock lại không hề có những tai biến nào xảy ra ở Singapore… Chính bởi vì Lee Kuan Yew đã cố thách thức và đùa bỡn tinh thần dân tộc của chúng ta. Các bạn nên nhớ… ông ta đã nhạo báng chúng ta ra sao khi nói rằng, các bạn đã nhận được sự độc lập trên một cái dĩa bằng bạc… Tự các bạn cũng có thể thấy ông ta đã thách thức hoàng gia của chúng ta ra sao khi nói rằng: “Tunku Abdul Rahman không có năng lực.”

Lúc ấy Tunku đang ở Mỹ, sau khi đã dự Hội nghị Bộ trưởng Khối Thịnh vượng Chung ở London. Phát biểu qua đài phát thanh Malaysia tại Mỹ, ông nói ông rất sửng sốt trước vụ này, và trong một cuộc phỏng vấn trên ti-vi, ông bảo đây là “giây phút buồn bã nhất trong đời mình”. Với tư cách thay mặt Thủ tướng, Razak đã bay đến Singapore, và tôi đã ra đón ông tận phi trường. Ông phát biểu với báo chí rằng tình thế vẫn trong tầm kiểm soát, tuy có nghiêm trọng, và lệnh giới nghiêm sẽ tiếp tục vô thời hạn. Nguyên nhân của vụ rối loạn là có một kẻ muốn gây chia rẽ đã ném chai vào đám rước, ông ta tuyên bố. Qua các phóng viên, ông cũng biết là không phải vậy. Tôi vẫn mong chính phủ trung ương sẽ chặn đứng tất cả những trò vận động chính trị mang tính phân biệt chủng tộc.

Tôi tuyên bố qua truyền thanh và truyền hình rằng đã triển khai các kế hoạch nhằm vãn hồi trật tự, và kiên quyết nhấn mạnh rằng các kế hoạch sẽ bao gồm cả việc bắt giữ những thành viên chủ chốt của các hội kín và đặt các hoạt động của những phần tử cực đoan ngoài vòng pháp luật. Cùng lúc đó, chúng tôi cũng xúc tiến thành lập các ủy ban thiện chí tại tất cả các khu vực bầu cử, giúp các nhà lãnh đạo thuộc các cộng đồng Hoa, Malay, Ấn, Âu phục hồi lòng tin lẫn nhau và ngăn chặn những trò đồn đại. Tôi đi đến những khu bị thiệt hại nặng nề để cho thấy chính phủ Singapore đã có mặt, và cố gắng tạo cho mọi người ấn tượng rằng chúng tôi vẫn có thể làm được mọi chuyện và vãn hồi trật tự mặc dù chúng tôi không còn nắm cảnh sát và quân đội nữa. Trong thâm tâm, tôi cảm thấy thất vọng vì đã không nắm được các công cụ của pháp luật và trật tự, và chẳng thể xử trí được những kẻ kỳ thị chủng tộc trắng trợn. Tuy nhiên, bằng sự tỉ mỉ và có phương pháp, chúng tôi đã thu thập dữ liệu có được để làm sáng tỏ chuyện họ đã khai thác có hệ thống các phương tiện truyền thông nhằm khơi dậy tình cảm chủng tộc của dân chúng thông qua những lời dối trá và xuyên tạc ác ý.

Sau đó, chính phủ đã cho công bố một giác thư vạch rõ những biến cố dẫn đến những vụ bạo loạn. Giác thư đó như sau:

“Giác thư này nhận định rằng, không giống như trước đây, chính các nhà lãnh đạo chính trị có uy thế và báo chí đã được phép công khai tuyên truyền chính trị và chủng tộc trong nhiều tháng liên tục. Những người làm tuyên truyền chủng tộc này không phải loại cuồng tín vô danh tiểu tốt, chẳng có mấy tài lực và phương tiện để truyền bá lời nói của mình… Lần này, những tay tuyên truyền chủng tộc hung hăng bao gồm cả những con người và những tờ báo có quan hệ mật thiết với chính quyền trung ương và với đảng cầm quyền tại Malaysia.”

Giác thư kết luận rằng không có lúc nào giới đương quyền tại Kuala Lumpur chịu kiềm chế những kẻ chuyên lao vào cuộc tuyên truyền kỳ thị chủng tộc mang tính kích động cả. Chẳng có ai chịu chặn nó lại, và chẳng có ai bị truy tố vì xúi giục nổi loạn cả, trong khi việc đó có thể làm rất dễ dàng. Bằng chứng có được đã cho thấy rõ rằng các vụ bạo động chẳng phải sự biểu hiện tự phát và vô cớ của những thù hằn giữa các chủng tộc. Mục đích của chiến dịch chủ yếu là để tái lập ảnh hưởng chính trị của UMNO nơi người Malay tại Singapore. Một mục tiêu thậm chí còn quan trọng hơn thế nữa là dùng người Malay ở Singapore làm mồi cho việc củng cố sự ủng hộ UMNO của người Malay ngay tại Malaya. Bằng cách đổ trách nhiệm về những vụ bạo loạn cho chính quyền của chúng tôi và mô tả nó là trò đàn áp người Malay tại Singapore, thủ phạm hy vọng sẽ khiến được dân chúng tại các vùng khác của liên bang cùng liên minh lại quanh UMNO để được bảo vệ.

Một tuần sau những vụ bạo loạn, Othman Wok, từng là phó tổng biên tập của tờ Utusan Melayu, được một phóng viên lão thành của Utusan ở Kuala Lumpur cho biết rằng vào 2 giờ chiều ngày 21/7 ông đã biết sẽ có điều gì đó xảy ra rồi. Othman hỏi: “Thế nhưng mãi tới 4 giờ chiều chuyện bạo loạn mới diễn ra, làm sao anh biết trước được?”

Tay phóng viên Utusan trả lời: “Chúng tôi đã biết trước, chúng tôi có nguồn tin riêng mà.”

Những người có trách nhiệm thì lại muốn dành trang nhất cho những tin tức hấp dẫn hơn.

Chin Chye kêu gọi phải có một ủy ban để điều tra lý do của vụ bạo động. Thế nhưng tại Kuala Lumpur, Bộ trưởng liên bang Khir Johari lại nói chính quyền sẽ tiến hành một cuộc mổ xẻ phân tích về những chuyện lộn xộn đã xảy ra, chứ chẳng phải một cuộc điều tra. Họ không muốn để Albar và tờ Utusan bị tra xét. Điều đó không làm cho ai yên tâm được. Và bầu không khí giữa các cộng đồng cũng vậy. Điều quan trọng là không để dân chúng người Hoa bị đe dọa, bằng không những kẻ cực đoan và những nhân vật trong UMNO sẽ đạt được mục tiêu của họ là tạo ra một dân chúng dễ phục tùng và sợ hãi, và dễ uốn nắn khi bị đối xử như những công dân hạng hai. Tuy nhiên nhiều người Hoa đã cảm thấy sợ hãi vì sự phân biệt đối xử công khai của quân đội và cảnh sát Malay trong thời kỳ bạo loạn, và hậu quả của tình trạng bạo động vô lý này là khiến hai chủng tộc xa cách nhau hơn. Người Hoa cảm thấy bị ngược đãi và nhìn người láng giềng Malay của mình với sự lo sợ và nghi ngờ, trong khi những người Malay sống trong các khu có đông người Hoa thì lại sợ bị tấn công khi bạo loạn chủng tộc nổ ra. Các gia đình người Hoa sống lẻ loi trong các khu người Malay đã âm thầm dời đến sống cùng bà con của họ ở nơi khác, cho dù điều đó có nghĩa là họ phải bán rẻ nhà cửa. Tình trạng tương tự cũng đã xảy ra cho các gia đình người Malay tại những khu đa số người Hoa, họ phải sống tị nạn tại các trường học và các trung tâm cộng đồng dưới sự bảo vệ của cảnh sát.

Thật là một sự đau lòng khủng khiếp, một sự phủ định sạch tất cả những gì chúng ta đã tin tưởng và đã đấu tranh để giành lấy – đó là một sự hòa nhập từng bước và xóa đi sự chia rẽ chủng tộc. Khó có thể xóa tan hay dẹp bỏ được lòng nghi kị thâm căn cố đế một khi sự giết chóc phi lý bị khơi dậy, đơn giản chỉ vì diện mạo của nạn nhân, cho dù đó là người Hoa hay người Malay. Tại một trung tâm cộng đồng nông thôn mà tôi đã tới, một phụ nữ Malay độ 35 tuổi đầy kinh hoàng đã bấu lấy tay tôi khi kể lại chuyện một số người Hoa đã muốn cưỡng hiếp chị như thế nào, trong khi đó, một ông người Hoa đã đến đồn cảnh sát địa phương để kêu ca rằng cảnh sát Malay lạm dụng quyền hành và ra lệnh ông ta phải thủ dâm bởi có một số người Hoa đã cưỡng hiếp một phụ nữ Malay ở khu lân cận. Người ta đã làm những điều ngu xuẩn và dã man với nhau khi người ta cứ nhận diện kẻ thù qua chủng tộc, xem đó cứ như một thứ quân phục của phe địch.

Vào ngày 14/8, Thủ tướng Malaysia từ Mỹ về nước. Ông đã bật khóc khi nói về những vụ bạo loạn tại Singapore. “Tôi đã luôn yêu cầu là các nhà lãnh đạo phải cẩn thận trong khi phát biểu để tránh mọi điều qua tiếng lại. Nhưng có một số lại bất cẩn trong các bài diễn văn, dẫn đến những sự cố này,” ông nói. Điều ông nói nghe rất mơ hồ. Ai đã bất cẩn trong các bài phát biểu, Ja’afar Albar hay tôi? Tôi hy vọng ông muốn ám chỉ Albar, nhưng không có gì chắc chắn lắm. Ông đã để điều đó mơ hồ, đủ cho tờ Utusan tiếp tục chĩa mũi dùi vào tôi. Vẫn giữ vẻ cương quyết, tôi nói tôi tin rằng Thủ tướng sẽ trấn áp được những kẻ cực đoan tại Malaysia, tôi cũng hối thúc mọi người hãy giúp cho công việc của ông thêm dễ dàng, và nhấn mạnh rằng không có cách nào khác để đạt được sự hợp tác hòa bình giữa các cộng đồng.

Mấy ngày sau Thủ tướng Malaysia đến Singapore để tìm hiểu tình hình. Nói chuyện với người Malay tại Geylang Serai, ông cam đoan sẽ sớm có các kế hoạch để giúp họ “nâng cao địa vị kinh tế và xã hội”, ý ông muốn nói là giúp họ đạt mức sống ngang bằng với người Hoa và người Ấn. Tôi cũng có mặt và phát biểu rằng sự thành công của Malaysia đã dựa rất nhiều vào những quyền lợi và bổn phận pháp định. Điều đó tùy thuộc vào lòng trung thành và sự tin cậy, và tôi tin tưởng rằng Thủ tướng có thể giải quyết được các vấn đề đang đặt ra. Tôi đã bày tỏ với ông rằng tôi tin tưởng ông đang làm điều đúng đắn. Quyền lực giờ đây đang trong tay ông.

Ngày hôm sau, ông kết thúc chuyến viếng thăm bằng bài phát biểu trước hàng nghìn người tại trường St. Patrick thuộc vùng duyên hải phía đông, nơi có đủ các sắc dân Hoa, Âu Á, Ấn và Malay chịu ảnh hưởng giáo dục Anh. Ông kêu gọi mọi người Malay giúp ông giải tỏa bớt gánh nặng, kêu gọi sự hòa hợp để mọi chủng tộc đều có thể sống theo tập quán và tín ngưỡng của mình. Tôi đã hứa rằng chính phủ Singapore sẽ làm hết sức mình để giải quyết các vấn đề xã hội đã làm rối loạn các quan hệ cộng đồng. Khi về nước vào ngày hôm sau, ông nói ông đã về “trong sự nhẹ nhõm cả người”, trong khi tôi mạnh dạn nói về “một sự khởi đầu tan đi băng giá”.

Những vụ bạo loạn không chỉ giáng một đòn bất lợi cho Malaysia ngay trong nước. Trước khi xảy ra chuyện, dư luận quốc tế đang phát triển có lợi cho Malaysia. Thật sai lầm khi các nhà lãnh đạo UMNO cho phép Albar dàn dựng nên những xung đột chủng tộc tại Singapore và do dó giúp Sukarno có được lợi thế tuyên truyền – một bằng chứng cho thấy Malaysia là một thực thể thực dân kiểu mới với đầy những xung đột chủng tộc đe dọa sự thống nhất của liên bang. Đó là cái giá nặng nề mà chính phủ Malaysia phải trả để dạy cho PAP bài học về việc tham gia vào tuyển cử tại Malaya và để giành lại thế đứng đã mất của người Malay trong cuộc tuyển cử Singapore năm 1963. Các nhà lãnh đạo UMNO biết những gì Albar đang làm khi đọc tờ Utusan Melayu, nhưng lại làm ngơ, để mặc cho ông ta lấn tới.

Các nhà ngoại giao, cả ở Singapore lẫn Kuala Lumpur, đều báo cáo về nước họ những gì đã diễn ra. Head nói với London rằng ông “không nghi ngờ gì về việc chính phần tử cực đoan của UMNO đã đóng vai trò đáng kể trong chuyện làm dấy lên những vụ bạo động chủng tộc tại Singapore.”

Cao ủy Anh tại Kuala Lumpur báo cáo:

“Các vụ bạo động có nguồn gốc chính trị hơn là tôn giáo; đã có một vụ tương tự xảy ra tại bang Penang trước đó một tuần nhưng không nghiêm trọng bằng. Mâu thuẫn chủng tộc trở nên gay gắt trong suốt mấy tháng qua do một chiến dịch tuyên truyền (chủ yếu do tờ báo tiếng Malay hàng đầu là Utusan Melayu tiến hành) chỉ trích chính phủ PAP tại Singapore là đã đối xử bất công với người Malay tại đó. Utusan Melayu thường hoạt động với tư cách cơ quan ngôn luận của UMNO, và đặc biệt là của tổng bí thư cực đoan Syed Ja’afar Albar. Việc mất các ghế đại biểu cho người Malay trong Hội đồng lập pháp Singapore vào tay của PAP hồi tháng 9 vừa qua quả là cay đắng, và sự bất mãn của UMNO tăng lên do việc PAP can thiệp vào cuộc tổng tuyển cử Malaya vào tháng 4 (mặc dù không thành công), và do những nỗ lực liên tục của PAP nhằm thiết lập một tổ chức quần chúng tại tất cả các thành phố lớn của Malaya.”

Báo cáo của Ủy ban Tình báo hỗn hợp (Viễn đông) gửi cho Hội đồng Tham mưu Anh có đoạn: “Chiến dịch chống lại PAP do chi bộ UMNO tại Singapore tiến hành có sự hỗ trợ tích cực và công khai của ban lãnh đạo UMNO tại Kuala Lumpur.”

Tổng lãnh sự Mỹ tại Singapore, Arthur H. Rosen, trong bức điện gửi về Bộ Ngoại giao, đã nói rằng các vụ bạo loạn “có nguồn gốc chính trị” và là “kết quả đương nhiên” của “cả một thời kỳ dài kích động chính trị chống lại PAP, với những hàm ý rõ rệt về chủng tộc, do các nhà lãnh đạo UMNO tiến hành.”

Donald McCue, đại diện lâm thời của tòa đại sứ Mỹ tại Kuala Lumpur, đã chứng thực điều này trong báo cáo gửi về cho Bộ Ngoại giao:

“Dato Nik Daud (thư ký thường trực của Bộ Nội vụ) đã nói với tôi rằng Bộ của ông tin rằng các vụ bạo động tại Singapore là do những phần tử cực đoan Malay gây ra. Ông thừa nhận cuộc mít–tinh ngày 12/7 của Syed Ja’afar và các bài diễn văn ở Singapore đã làm nặng thêm mối bất hòa chủng tộc vốn dĩ đã có sẵn. Daud, một người Kelanta, là một người Malay hơn cả Malay. Nếu có bất cứ nghi vấn nào về trách nhiệm của các phần tử cực đoan trong những vụ bạo động tại Singapore, Daud sẽ cho họ trắng án vì không đủ bằng chứng.”

W.B. Pritchett, Phó Cao ủy của Úc tại Singapore, đã báo cáo về cho Canberra: “Không còn nghi ngờ gì nữa rằng trách nhiệm về những vụ bạo động tại Singapore là hoàn toàn của UMNO khi các thành viên của họ tiến hành chiến dịch kỳ thị chủng tộc, hoặc là đã dung dưỡng chiến dịch đó.”

Bộ Ngoại vụ New Zealand kết luận:

“Sự thật rằng chính UMNO (và trên hết là các nhà lãnh đạo của UMNO) phải chịu trách nhiệm chính trong chuyện đổ vỡ mới đây, bởi việc họ đã dùng đến sự kích động tình cảm kỳ thị chủng tộc của người Malay. Chúng tôi thấy rằng Razak và các nhà lãnh đạo khác của UMNO đã không hành động ngay để kịp kiềm chế những quá quắt của các phần tử cực đoan như Ja’afar Albar và chúng tôi thậm chí còn hoang mang lúng túng trước phản ứng của chính quyền liên bang trước các vụ bạo động.”

Sukarno đã tiến hành một chương trình phát thanh xúi giục người Hoa ở Singapore không ủng hộ Malaysia. Thế rồi vào ngày 17/8, Jakarta cho đổ bộ 30 lính vũ trang vào bờ biển phía Tây Johor, đối diện với Sumatra, để gây rối. May thay, họ đã bị cô lập. Hai tuần sau đó, Indonesia gửi thêm 30 người nữa nhảy dù xuống từ hai chiếc máy bay. Phần lớn đều bị bắt, Jakarta đã tuyên bố rằng đó là những người Malay chiến đấu vì tự do và những người Indonesia tình nguyện. Thật ra, hầu hết họ đều là lính nhảy dù người Indonesia. Sukarno đã đi quá trớn. Malaysia đã đệ đơn kiện chính thức với Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, và nước Anh đã huy động hai hàng không mẫu hạm có tăng cường máy bay và tàu tiếp vận. Sukarno hứa sẽ chấm dứt những hoạt động như vậy.

Cũng trong ngày Indonesia cho người nhảy dù xuống, các cuộc đụng độ Malay – Hoa đã nổ ra tại Geylang. Một người phu xích lô bị giết và tài xế của một chiếc xe hơi bị tấn công. Bất kể lệnh giới nghiêm, bạo động vẫn diễn ra trong suốt ba ngày liền, với 13 người bị giết và 109 người bị thương. Một lần nữa, thiệt hại của người Malay hay người Hoa cũng ngang nhau. Lúc đó tôi đang ở Brussels dự lễ kỷ niệm 100 năm Quốc tế Xã hội chủ nghĩa. Chin Chye, Thủ tướng nhiệm quyền, nói rằng các mật viên Indonesia đã gây ra chuyện bạo loạn. Tình hình trở nên bấp bênh đến độ chỉ cần người Malay hăng lên hành hung một vài người Hoa thôi là cuộc trả đũa sẽ nổ ra liền.

Sau khi nổ ra vụ bạo loạn lần thứ hai, nội các Malaysia, trước áp lực ngày càng tăng của công chúng tại Singapore, đã ra lệnh thành lập một ủy ban điều tra do thẩm phán E.A. Chua làm chủ tịch; để điều tra nguyên nhân của những rối loạn tại đây, cũng như những vụ trước đó tại Bukit Mertajam thuộc tỉnh Wellesley. Tuy nhiên chính phủ liên bang lại ra lệnh giữ kín nó trước công chúng và báo chí. Mãi đến ngày 20/4/1965, tức bảy tháng sau đó, ủy ban mới tiến hành các cuộc thẩm cung.

Trong diễn văn khai mạc, cố vấn chính phủ Malaysia nói rằng ông sẽ chứng tỏ hai vụ rối loạn trên đều là việc làm của các mật viên Indonesia tại Singapore. Ông đã cho triệu ra hầu tòa 85 nhân chứng để cung cấp bằng chứng cho điều này, thế nhưng bằng chứng của 5 nhân chứng quan trọng mà ông đưa ra đã không chỉ ra được điều đó. Tất cả họ đều khăng khăng phủ nhận chuyện Indonesia có ít nhiều dính dáng đến những vụ bạo động. Cuộc chất vấn một nhân chứng thuộc loại hàng đầu đã diễn ra như sau:

Hỏi: Trong suốt các tháng 5, 6 và 7, với tất cả những chuyện như tôi vừa nói với anh – việc tuyên truyền công khai và kéo dài, anh có đồng ý là cảm xúc của người Malay tăng lên rất cao không?

Trả lời: Đồng ý.

Hỏi: Và nó cũng tiếp tục như vậy vào ngày xảy ra các vụ bạo động, phải vậy không?

Trả lời: Đúng vậy.

Hỏi: Anh có đồng ý là chính chuyện tuyên truyền cao độ là nhân tố có liên quan đến các vụ bạo động không?

Trả lời: Đồng ý.

Quan trọng hơn là bằng chứng soi rọi vào các vụ bạo động do Keng Swee đưa ra. Ông đã gặp Razak tại Kuala Lumpur vào ngày 28 và 29/7/1964, một tuần sau vụ bạo động đầu tiên. Razak đã bảo rằng ông ta đã thấy được một lối thoát. Ông ta sẵn sàng xây dựng một chính quyền Malaysia trong đó PAP sẽ có đại biểu trong nội các liên bang – với điều kiện tôi từ chức Thủ tướng Singapore; tôi có thể nhận một chức vụ ở Liên Hiệp Quốc và đóng góp hiệu quả hơn ở cương vị đó. Sau hai hoặc ba năm người ta có thể duyệt xét lại chức vụ này.

Keng Swee hỏi lại, liệu Albar có bị cách chức không. Razak trả lời:

“Không.” Razak đã nhấn mạnh khi nói với Keng Swee rằng ông ta

kiểm soát được Albar và Utusan Melayu, và ông ta cam đoan là mình có thể kiểm soát được Utusan. Sau khi gặp Razak, Keng Swee có nhận xét ngay là: “Razak thừa nhận rằng người ta có hỏi ý kiến ông rằng rối loạn sẽ xảy ra tại Singapore hay không và ông cũng đã đưa ra ý kiến rằng rối loạn sẽ không xảy ra. Ông thừa nhận là đã đánh giá sai lầm. Nếu đã biết trước, ông ta hẳn đã có biện pháp.”

Keng Swee đã ghi lại chuyện này vào năm 1982 như sau:

“Giờ đây, chuyện này đi đến chỗ phải thừa nhận rằng ông ta đã có dính dáng đến toàn bộ chiến dịch nhằm khuấy động tình cảm kỳ thị chủng tộc và tôn giáo của người Malay tại Singapore. Và việc Albar đến Singapore cùng chiến dịch của ông ta tại Singapore và sự hỗ trợ dành cho tờ Utusan Melayu đều có Razak đứng đằng sau. Không thể nói khác đi được.

Giờ đây, khi Razak nói rằng theo ý ông thì rối loạn không xảy ra đâu, theo tôi… thành thật mà nói là không chấp nhận được. Không ai có nhận thức đầy đủ lại tin rằng chiến dịch kỳ thị chủng tộc ầm ĩ lại đi liền với một đám rước được tổ chức chu đáo của người Malay với sự xuất hiện của đông đảo các tốp võ sinh bersilat, không ai tin nổi chuyện này. Kết quả tất phải là những vụ bạo động chủng tộc.

Thực ra, một số ngày, có lẽ hơn một tuần, trước khi có vụ bạo động xảy ra, tôi nhớ là ông Lee rất lo âu và linh cảm rằng sẽ có chuyện rắc rối chủng tộc diễn ra. Ông có nói chuyện với tôi, nhưng tôi cũng quá ngộp với bao vấn đề kinh tế và tài chính rồi. Tôi không được thông tin đầy đủ và có vẻ hoài nghi về chuyện này. Vả lại, đây là vấn đề thuộc phán đoán chính trị – cảm nhận được tình thế – điều mà tôi không có. Khi tôi cố hỏi, ông Lee chỉ thở dài và chuyển đề tài. Ông hẳn nghĩ là tôi mù tịt trong những chuyện như thế này. Và quả thật đúng vậy. Phải, bất kể kết quả như thế nào thì bạo động cũng đã nổ ra, Razak có liên quan đến chuyện này, và rõ ràng ý định của ông ta là đẩy Lee ra khỏi quyền lực hiện tại. Đó là mục đích cho chiến dịch của Albar.”

Chọn tập
Bình luận
720
× sticky