Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Hồi Ký Lý Quang Diệu – Tập 1

Chương 26: Hiểu Được Tunku

Tác giả: Lý Quang Diệu
Thể loại: Hồi Ký - Tuỳ Bút
Chọn tập

Tunku từ chuyến đi London trở về trong trạng thái vui tươi. Ông ta đang mở rộng lãnh thổ. Ông ta sẽ sáp nhập Singapore theo những điều khoản cho phép ông ta duy trì được đa số người Malay và quyền thống trị Malay mà ông đã thành lập trong Liên bang. Ông đã vượt qua nỗi sợ thâm căn cố đế về việc phải thu nhận nhiều người Hoa hơn.

Vào giữa tháng 12, tôi lưu lại Kuala Lumpur 4 ngày, lần này tôi ở tại tư dinh của ông ta. Tôi đi một mình thực hiện cuộc đối thoại tay đôi – không có viên chức nào, không có Bộ trưởng nào, không có ai ghi chép. Đó là cách Tunku cảm thấy thoải mái nhất bởi vì ông luôn luôn ưa thích sự mềm dẻo khi thực hiện các thỏa ước với đối tác. Sau các cuộc thảo luận, tôi tuyên bố với báo chí rằng ông ta muốn thành lập Malaysia vào tháng 8/1962 để ngày kỷ niệm sẽ rơi vào một ngày thuận lợi. Số 8 là số hên của ông ta vì thế ông chọn ngày 31/8 là ngày Độc lập. Tháng 8 là tháng thứ tám27, còn 31 là 3 cộng 1, nghĩa là 4, hay một nửa của 8, Tunku giải thích như thế.

Sau này, từ người bạn cũ của ông thời sinh viên ở Cambridge, Tiến sĩ Chua Sin Kah, tôi biết rằng ông thích tôi lưu trú tại tư dinh bởi vì ông ta muốn biết tôi là loại người như thế nào, cùng với các thói quen và tính cách. Và ông ta đi đến kết luận là tôi “chẳng phải là gã tồi”. Tôi hát trong phòng tắm và ông ta tán thưởng những bài tôi hát như bài Burung Kakaktua của Indonesia lúc ấy là một bài hát rất được ưa thích. Tôi chơi gôn và xì phé. Tôi uống bia và rượu mạnh. Hennessy là loại rượu ưa thích của Tunku. Ông ta xác định tôi không phải là một tên cộng sản nguy hiểm. Thực ra tôi rất có tính người và là một người bạn đồng hành dễ mến – trẻ trung, khá là thông minh đối với những sở thích của ông nhưng lúc nào cũng đầy những ý kiến không phải là không hay. Tôi hòa hợp được với ông. Một thuận lợi lớn là tôi có thể nói tiếng Malay, và tôi hoàn toàn thoải mái khi nói chuyện với vợ ông, bà Puan Sharifah Rodziah, một phụ nữ Malay lai Ả Rập thường được gọi trìu mến là Engku Pah cũng xuất thân từ Kedah, bang quê hương của Tunku. Để thêm ấn tượng rằng tôi có thành phần xuất thân hoàn chỉnh, Choo cũng nói giỏi tiếng Malay. Điều này chứng minh với ông ta rằng trong tâm hồn chúng tôi là người Malay, không phải là những người Hoa có óc dân tộc hẹp hòi.

Để đàm phán với Tunku cần phải có một tính khí đặc biệt. Ông ta không thích ngồi tham gia đàm phán trực diện sau khi đọc xong hồ sơ của mình. Ông ta thích dành những chi tiết tẻ nhạt cho Razak, người phụ tá của mình – một nhân vật có năng lực, chăm chỉ và tỉ mỉ – và tự giới hạn mình trong việc ra những quyết định lớn, thu xếp chiều hướng của các diễn biến. Lúc nào chúng tôi và những viên chức Malay gặp bế tắc về vấn đề nào đó và không thể nhờ tới vị Bộ trưởng có liên quan hay Razak giải quyết bế tắc ấy, tôi phải đến Tunku. Điều này có nghĩa là phải đưa vấn đề này vào giữa các cuộc nói chuyện dài lê thê, không mục đích về tình hình thế giới, giữa các cuộc tán gẫu và những bữa cơm trưa, mà ông ta thường đích thân nấu món cừu quay hay thịt bò quay – ông thích nấu ăn và nấu ăn rất ngon. Sau bữa trưa, ông luôn luôn ngủ một giấc, còn tôi thì ra Câu lạc bộ Gôn Royal Selangor tập dượt vài đường trong khi đợi ông ta thức dậy. Khoảng 4 giờ 30 chúng tôi chơi gôn và giữa các buổi chơi ấy hay trước giờ cơm chiều khi ông ta đang ở trong trạng thái thích hợp, tôi sẽ đưa vấn đề ấy ra. Bằng cách này, một vấn đề có thể cần đến 4 ngày ăn, uống rượu, chơi gôn, tháp tùng ông ta đi dự tiệc hoặc đi ăn cưới. Trong vài trường hợp, tôi cùng ông ta đi Penang, Ipoh hay cao nguyên Cameron để đợi lúc thích hợp.

Ông ta tính tình trầm tĩnh, gần như luôn luôn bình thản, và lặng lẽ. Nhưng ông có thể sẽ trở nên khá sôi động khi cảm thấy nguy hiểm. Ông ta bảo tôi rằng ông không bao giờ cho phép ai đẩy ông ta đến một quyết định bởi vì khi ông không bình tĩnh và thoải mái, ông có thể phạm sai lầm. Nếu bị thúc ép, ông ta sẽ hoãn quyết định. Nhưng chẳng bao lâu tôi biết rằng trước kia ông ta đã làm thế, rồi không bao giờ nhìn lại.

Các viên cao ủy làm việc giỏi ở Kuala Lumpur là những người ý thức được điều này, nhất là Tom Critchley của Úc và Geofroy Tory của Anh. Họ chiều ý ông, chơi gôn và xì phé với ông. Critchley có thể thua vài trăm đô ở các cuộc chơi xì phé trong mấy tháng – một số tiền không lớn, nhưng cũng không phải nhỏ. Tunku thích thắng hay nói đúng hơn là không thích thua. Đó là một phần của nền giáo dục hoàng gia của ông. Tôi không phiền hà gì điều đó bởi vì mục đích của tôi là làm rõ được những điểm trong thỏa ước, nhưng tôi đã tước đi của ông cái cảm giác thỏa mãn do chiến thắng mang lại vì đầu óc tôi không chú ý đến ván bài. Có một lần khi tôi đã thua vài trăm đô sau khi nhận cú điện thoại thứ ba từ Singapore, ông ta nói: “Kuan Yew, hãy chú ý đến việc chơi bài. Tôi không thích ăn anh khi đầu óc anh không tập trung. Công việc có thể đợi đến sáng mai”. Tôi cười và nhớ đến các cuộc đàm phán ở London năm 1956 và Lennox– Boyd viết trả lời một bức điện trong khi đang nghe David Marshall nói chuyện. Tôi nói: “Tunku, khi tôi đến nghe điện thoại, tôi biết rằng ông tố 15 đôla, tôi nghi ông có ba con già mà tôi lại không có bài để theo, vì thế tôi phải chạy”. Ông ta không chịu lý lẽ đó. Ông ta chỉ muốn thắng sau khi tôi đã cố gắng hết mức.

Các bạn của ông cũng chiều ông. Khi con ngựa của ông thua trong một cuộc đua, một người trong nhóm thường móc từ trong túi ra mấy chiếc vé và nói: “Tunku, tôi mua mấy vé này cho ông. Tôi biết ông không đánh cá con ngựa này khi ngựa của ông đang chạy, nhưng tôi biết nó sẽ thắng, vì vậy tôi mua cho ông.” Tunku thường thắng cá ngựa vài trăm đôla khi ra về mặc dầu ngựa ông thua. Điều đó làm ông ta rất vui.

Ông ta cũng là con người dễ thương. Nhưng là một ông hoàng, ông hiểu rõ quyền lực và biết cách sử dụng nó. Ông ta không có vẻ hùng hổ đe dọa, nhưng có nhiều tay chân để thực hiện công việc giùm ông trong khi ông ngó lơ và giữ vẻ hiền từ như mọi khi. Nếu ông ta không tin ai, ông ta sẽ chấm dứt mối quan hệ với người đó. Nếu ông ta tin anh và anh không để ông ta mất niềm tin thì, theo truyền thống hoàng gia, ông luôn tìm cách giúp đỡ, như ông đã làm với Lim Yew Hock. Khi Lim rời chức vụ, ông cử Lim làm cao ủy tại Úc. Lúc Lim tự làm mất tư cách ở Úc khi ở lì trong hộp đêm thoát y vũ trong mấy ngày làm cho cảnh sát phải đi tìm rồi phải từ chức thì Tunku tìm cho ông một việc khác trong tổ chức Hồi giáo ở Jeddah (Lim đã đổi theo đạo Hồi). Đó là cách ông giúp bạn bè trong cơn hoạn nạn.

Và may mắn thay ông ta đã có thiện cảm với vị trí đầy nguy hiểm của tôi ở Singapore. Những người đối lập tấn công chúng tôi không ngừng. Chúng tôi gặp xung đột chủ thợ quanh năm mặc dầu không có bạo loạn hoặc xung đột giữa cảnh sát và công nhân. Vào ngày 11/1/1962, nhóm đối lập ở Dewan Rakyat, Hạ viện ở Kuala Lumpur, đặt ra cho Tunku một vấn đề gai góc là liệu cái gì sẽ xảy ra sau khi hợp nhất bởi vì các lãnh đạo nghiệp đoàn Singapore, khác với những lãnh đạo nghiệp đoàn ở Malaya, dường như “phát triển trong hỗn loạn”. Tunku trả lời rằng trong một tháng Singapore có nhiều cuộc đình công hơn ở Malaya trong 3 năm, nhưng ông ta sẽ cố gắng giảm số lượng các cuộc đình công và tăng hạnh phúc cho người dân ở đó, rồi cười và nói: “Tôi không biết chúng ta sẽ thực hiện điều đó như thế nào nhưng Bộ trưởng phụ trách an ninh nội chính của chúng ta nói ông ta sẽ làm được điều đó. Toàn thể quốc gia này đồng ý với ông.”

Đây là con dao hai lưỡi. Nó có ích khi cho những người do dự ở Singapore thấy rằng Tunku tin tưởng sự hợp nhất đang đến gần và rằng sau hợp nhất ông ta sẽ giải quyết vấn đề cộng sản thông qua Ismail, nhưng nó cũng có hại vì nó thúc đẩy Barisan hành động trong tuyệt vọng để ngăn chặn hợp nhất. Tuy nhiên, Barisan không quay trở lại bạo động. Nó đặt hy vọng sẽ làm cho cử tri người Hoa bỏ phiếu chống lại hợp nhất dưới bất kỳ hình thức nào bằng cách khiến họ sợ hãi về viễn cảnh thân phận “công dân hạng hai”.

Để đối phó với vấn đề này, các nhà lãnh đạo truyền thống của cộng đồng nói tiếng Hoa (kể cả những lãnh đạo của Phòng Thương mại Hoa kiều) đề nghị tôi nói chuyện với các thành viên của mình. Tôi đồng ý và vào ngày 13/1 tôi gặp gỡ hơn một nghìn đại biểu đại diện cho các bang, hội đoàn tại thính đường Victoria Memorial. Chủ tọa buổi gặp gỡ này là chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Hoa kiều ở Singapore, một doanh nhân ngành cao su thành công, 51 tuổi, tên là Ko Teck Kin là một người e ngại cộng sản. Ông ta đầu tư ở Malaya là nơi trồng nhiều cao su và sẽ không ngả theo cộng sản. Sau này khi tôi biết rõ ông nhiều hơn, tôi thấy ông là một người có đầu óc và quan tâm sâu sắc đến cộng đồng người Hoa ở Singapore mà ông cảm thấy rằng nhiệm vụ của ông là bảo vệ quyền lợi cho họ.

Tôi mất đến ba tiếng để trả lời các câu hỏi. Thính giả không thù nghịch. Đa số là các doanh nhân thực tế. Những người cộng sản không thể chiếm số đông và cũng không thể chế ngự được cuộc họp này. Một số câu trả lời của tôi gây được cho đám đông những trận cười. Và khi tôi đúc kết buổi họp bằng câu chuyện kể về lịch sử phát triển của cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á và các bang người Hoa đã đóng vai trò then chốt như thế nào đối với sự thịnh vượng của di dân người Hoa, họ đã hưởng ứng nồng nhiệt và tôi ngồi xuống vỗ tay.

Như dự kiến, câu hỏi đầu tiên là vấn đề quyền công dân. Điều này thật tự nhiên. Khi một thành viên chủ chốt của phòng Thương mại nhắc thính giả nhớ lại rằng họ đã chiến đấu gian khổ để giành được quyền công dân Singapore, quyền đa ngôn ngữ và đối xử bình đẳng đối với mọi nguồn giáo dục. Vì vậy họ lo âu muốn biết việc hợp nhất sẽ ảnh hưởng đến những điều này như thế nào. Tôi nói với họ rằng nếu chúng ta tìm kiếm một sự hợp nhất hoàn toàn như Barisan đề nghị, thì khoảng 330.000 công dân Singapore sẽ mất tất cả các quyền công dân. Nhưng Lam Tian, địch thủ cũ của tôi trong cuộc tổng tuyển cử năm 1955, sau đó lại quay sang hỏi về các phương án của chúng tôi. Tại sao tất cả 600.000 công dân Singapore không thể hưởng những quyền giống nhau sau khi gia nhập Malaysia theo những điều kiện mà chúng ta đã thỏa thuận với Tunku? Tôi giải thích rằng quyền của tất cả các cư dân Malaysia, dù là công dân Singapore hay công dân liên bang, sẽ giống nhau, ngoại trừ công dân Singapore sẽ bầu tại Singapore chọn các đại diện của mình tại nghị viện liên bang, và công dân liên bang sẽ bầu ở Liên bang. (Thực ra mục tiêu của Tunku là muốn loại các công dân Singapore ra khỏi các cuộc bầu cử ở những nơi khác thuộc Malaysia.) Nhưng vấn đề đeo đẳng trong đầu óc cộng đồng người nói tiếng Hoa vẫn còn đó – nếu không có khác biệt nào giữa họ, thì tại sao Tunku không đồng ý sử dụng cùng từ “công dân” thay vì từ “cư dân”?

Sự phân biệt này cũng là vấn đề của tôi, và công việc của tôi cũng không dễ dàng gì hơn khi cuộc họp lần thứ ba của Ủy ban Tư vấn Đoàn kết Malaysia phát ra một tuyên bố mấy ngày trước đó nói rằng những người bản địa tại các lãnh thổ Borneo cùng chia sẻ vị trí đặc biệt với người Malay trong Liên bang; và như thế họ sẽ tự động trở thành “công dân sáng lập” của Malaysia theo luật. Điều này nhấn mạnh đến địa vị ưu việt của “công dân” so với “cư dân” ở Singapore.

Khi tôi gặp Ngài John Martin, một Thứ trưởng thường trực khác ở Vụ thuộc địa, cùng với Ian Wallace và Philip Moore ở Sri Temasek ngày 16/1/1962 để thảo luận về vấn đề Malaysia, họ nghĩ rằng dư luận ở Bắc Borneo trái ngược với sự khẳng định của Ủy ban Tư vấn Đoàn kết Malaysia. Martin và Wallace đã đến Borneo và thấy hầu như tất cả mọi phe phái đều do dự. Những người dân mộc mạc sống ở thượng nguồn ít biết đến những hàm ý sâu xa và cần thời gian để suy nghĩ về điều đó. Người Hoa không tin cậy vì họ biết chính sách của chính phủ Malaya là kiềm chế họ. Ở Brunei, Azahari, lãnh đạo của Partai Rakyat, người được giới trẻ Malay ủng hộ mạnh mẽ, cương quyết chống đối sự gia nhập Malaysia và kêu gọi thành lập một liên bang độc lập cho ba lãnh thổ Borneo. Quốc vương Brunei muốn biết ông ta có lợi gì trong liên bang hay không và phải được bảo đảm rằng ông ta có thể có được những điều khoản đặc biệt trong cuộc đàm phán trực tiếp với chính phủ Malaya.

Tôi nói rằng không nên coi sự do dự của những người tin cậy nơi họ là vấn đề nghiêm trọng. Những người lãnh đạo ở các lãnh thổ Borneo tôn trọng cấp có thẩm quyền. Một khi họ thấy Tunku là nguồn quyền lực cao nhất ở Liên bang, họ sẽ thích ứng với điều đó. Điều quan trọng là người Anh nên tăng cường sự lãnh đạo và làm cho họ hiểu rằng việc Anh ủng hộ Malaysia là vững chắc và ổn định.

Martin kết luận rằng dân Borneo sẽ chấp nhận kế hoạch này miễn là Tunku đủ khôn ngoan để bảo đảm cho họ sự bảo vệ hợp lý, nhưng cần nhiều thời gian chuẩn bị hơn để bảo đảm rằng chính quyền này không sụp đổ sau khi bàn giao chủ quyền. Tôi nhấn mạnh rằng chúng ta phải tiếp tục cái đà này. Tunku muốn thành lập Malaysia vào tháng 8. Tôi muốn hoàn tất việc hợp nhất càng sớm càng tốt và muốn trải rộng mối đe dọa của cộng sản trong một dân số đông hơn ở Malaysia.

Tôi bảo họ rằng chúng ta phải nhanh lên. Barisan đã phạm phải sai lầm chiến thuật khi họ tự tuyên bố ủng hộ hợp nhất hoàn toàn, và một khi nhận ra mình không thắng được thì họ có thể quyết định phát động một cuộc gây rối rộng khắp hơn là chấp nhận Malaysia và việc họ bị đẩy ra khỏi chính trường. Có thể họ muốn chiến đấu.

Khả năng gây rối của Barisan không giảm. Vì vậy tôi sốt ruột muốn cho tiến hành mọi chuyện, và sự thiếu kiên nhẫn và tính khí rất khác lạ của tôi làm cho Tunku giận, tôi vẫn chưa đủ nhạy bén để ý thức rằng một khi ông ta quyết định đưa Singapore vào Liên bang, thái độ của ông đối với tôi cũng có một sự thay đổi tinh tế. Ông là hoàng tử của hoàng tộc Kedah. Sự tuân theo phẩm trật là một phần bản chất của ông. Đến chừng nào Singapore còn nằm ngoài lãnh địa của ông thì ông vẫn coi tôi như là nhà lãnh đạo của một quốc gia láng giềng thân thiện, một nhà lãnh đạo nhỏ bé hơn mà ông ta sẵn lòng để tiếp đãi lịch sự. Nhưng bây giờ tôi sắp là một phần trong Liên bang của ông ta, và ông ta đã quen với các cận thần và hầu cận quanh mình, những đệ tử trung thành và khúm núm. Lim Yew Hock là một người trong số đó và tôi đã không tử tế với Lim khi ông ta đưa ra trước Hội đồng lập pháp một kiến nghị vào tháng 3 để biểu lộ sự quan tâm nghiêm túc đến tình hình bất ổn ngày càng gia tăng ở Singapore. Trong cuộc tranh luận sau đó, tôi đã đánh bại ông ta, chỉ ra sự khác biệt giữa việc ông ta giải quyết các cuộc tranh chấp lao động năm 1955–1956 và cách mà chúng tôi đang giải quyết điều đó hiện nay.

Thứ đến Keng Swee gây giận dữ bằng cách tuyên bố rằng chính quyền Singapore sẽ trả lương ngang nhau ngay lập tức cho cả nam lẫn nữ công chức. Tan Siew Sin, Bộ trưởng Tài chính của chính quyền liên bang hết sức khó chịu và lan sự khó chịu đó sang Tunku. Ông ta tin rằng sự thay đổi này sẽ có tác động về tài chính và xã hội đối với Malaya, vì nữ nhân viên của họ cũng sẽ đòi trả lương ngang với nam giới.

Giọt nước cuối cùng làm tràn ly là lúc tôi nói với Tunku rằng tôi đang lên kế hoạch cho một chuyến viếng thăm Delhi, Cairo, Belgrade, London, Moscow và Bắc Kinh. Ông ta sợ hãi. Tôi đang đi trên con đường nguy hiểm, nhập bọn với kẻ thù. Tôi đã tạo ấn tượng rằng các lãnh tụ Nga và Trung Quốc là những nhân vật vĩ đại trong khi Malaya cho rằng họ muốn phá hoại sự ổn định ở đây. Ông không hiểu rằng sau khi thăm các nuớc Nga và Trung Quốc và được họ đón tiếp, tôi sẽ có đủ tư cách để thuyết phục nhân dân rằng chế độ cộng sản không thích hợp cho Singapore và Malaya. Đó không phải là giải pháp của Tunku. Tôi sắp trở thành một bộ phận trong kế hoạch của ông và ông ta không muốn bất kỳ ai chơi thân với kẻ thù. Ông ta cũng giận dữ vì tôi tranh luận với ông về vấn đề này, và cuối cùng tôi kết luận rằng không có lợi khi tranh luận với ông về vấn đề này.

Sự bực dọc này lộ ra. Vào ngày 25/3 tại Singapore, ông ta tấn công vào những phần tử cực đoan muốn biến hòn đảo này thành “Tiểu Trung Quốc”, chống đối hợp nhất và đã tách ra khỏi PAP để chống lại sự hợp nhất. Ông ta nói, nếu họ muốn gây hỗn loạn và đổ máu, tốt hơn là đừng hợp nhất gì cả, nhưng trong trường hợp này ông ta sẽ đóng cửa đường đê nối Malaya và Singapore để giữ an toàn cho Malaya. Mặt khác, ông nói, các nhóm cực đoan không có gì phải sợ sự hợp nhất cả nếu họ tôn trọng luật pháp và làm việc trong khuôn khổ hiến pháp liên bang – những phần tử cực đoan ở Malaya vốn đã nhiều hơn ở Singapore rồi.

Đó là kiểu cách tiêu biểu của ông. Tại Hạ nghị viện ở Kuala Lumpur ông đã nói rằng Bộ trưởng An ninh nội chính sẽ giải quyết vấn đề cộng sản. Bây giờ ông nói nếu họ hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp thì sẽ không có vấn đề gì. Nhưng rõ ràng là ông ta muốn giải quyết vấn đề các nhóm cực đoan này. Ông ta thường lập lờ như thế. Đó là kiểu Tunku biểu lộ tư tưởng của mình – không nhất thiết là hợp lý và chặt chẽ trong biểu hiện nhưng lại làm cho thính giả biết lập trường của mình. Tuy nhiên trong trường hợp này, sự can thiệp của ông lại có ích nhiều hơn là trở ngại. Ông ta đã nhấn mạnh đến điểm yếu của Singapore và cương quyết thực hiện sự hợp nhất. Chỉ hai ngày sau, trong buổi tiệc do Ko Teck Kin chiêu đãi, ông tỏ rõ lập trường: “Một sự tan vỡ hoàn toàn giữa Singapore và Malaya có nghĩa là sẽ có chiến tranh và đổ máu gây hậu quả nghiêm trọng cho nhân dân”, ông nói, “Chiến tranh sẽ xảy ra nếu một Singapore bị cô lập tìm kiếm sự liên minh với các thế lực không thân thiện với Liên bang (có nghĩa là Trung Quốc).”

Selkirk báo cáo về London:

“Tôi cảm thấy rằng những lời phát biểu khá căng thẳng và đe dọa ấy sẽ gây nguy hại và sẽ làm tăng nhiệt độ bầu không khí chính trị ở Singapore ở một thời điểm chúng ta đang cố gắng đưa Singapore tiến tới sự hợp nhất một cách ôn hòa và tất yếu. Việc đe dọa đóng cửa đường đê và chiến tranh giữa Singapore và Liên bang là vô tác dụng và sẽ chỉ giúp cho đảng Barisan Sosialis kích động tình cảm sắc tộc chống lại người Malay thôi… Tuy nhiên có lẽ điều quan trọng hơn là biểu hiện của tình trạng lúng túng trong suy nghĩ của Tunku. Rõ ràng là ông ta đã bối rối và phật ý khi thấy rằng đề nghị của ông về một Malaysia không được cả Borneo và Singapore hân hoan chào đón, và phần nào ông ta hẳn đã hối tiếc cho toàn bộ kế hoạch này. Tuy nhiên, tôi tin rằng ông ta có ý định tiếp tục thực hiện ý đồ của mình và có lẽ cũng không cần phải lưu tâm lắm về những lời lẽ khá cực đoan trong các bài diễn văn của ông ta.”

Selkirk đã nhận xét sai lầm về hiệu quả những lời phát biểu của Tunku. Chúng ảnh hưởng lớn đến những nhà lãnh đạo Barisan, những người này hiểu rằng Tunku có ý nói thực lòng và bây giờ đã tham gia vào cuộc tranh chấp rồi. Ông ta đã vẽ nên một bức tranh ảm đạm về Singapore nếu không có Malaysia. Lim Chin Siong đã thấy khá đủ lo lắng để viết cho Tunku một bức thư hứa hẹn sẽ ủng hộ sự hợp nhất và Malaysia. Bức thư này được kín đáo trao tay tại

Dinh Liên bang ở Singapore nhưng Tunku tiết lộ chuyện này cho một trong những thư ký của ông biết và tờ Straits Times chạy cái tít: “Thư mật, đến từ Lim”. Bị các phóng viên ép, Lim Chin Siong đành xác nhận rằng ông ta đã viết nó và nói rằng ông rất biết ơn Tunku đã trả lời thư ông rất lịch sự. Được hỏi thư trả lời nói về vấn đề gì, ông ta từ chối trả lời.

Bị khiêu khích bởi những phỏng đoán tối tăm của Chin Chye – đây có phải là một vụ bán đứng không? – ngày 11/7, tiến sĩ Lee Siew Choh cuối cùng đưa ra bức thư và thư trả lời của Tunku. Lim Chin Siong viết ông nghĩ phần lớn những cảm nghĩ không vui của Tunku về Singaore xuất phát từ sự thiếu cơ hội cho những cuộc thảo luận tự do và thẳng thắn về “những thái độ rõ ràng là khác nhau” giữa họ, mà những cuộc thảo luận này lại có thể đóng góp rất lớn vào sự hiểu biết và sự thống nhất quốc gia. Tunku, trong thư trả lời, hoan nghênh việc Lim bảo đảm rằng ông ta sẽ hoàn toàn ủng hộ Tunku trong khát vọng thống nhất quốc gia. Ông phải rời Singapore ngày hôm sau, nhưng sẽ rất vui nếu được gặp lại Lim vào một ngày nào đó trong tương lai và sẽ cho Lim biết khi có thể thu xếp cuộc gặp này. Nhưng Tunku, biết rằng “những thái độ rõ ràng là khác nhau” đó là không thể hòa hợp được, nên đã không đưa ra ngày hẹn gặp nào.

Lim Chin Siong đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Đầu tiên, viết thư mà không công bố đối với cộng đồng người Hoa là một sự yếu đuối, một sự thú nhận rằng ông ta đang ở thế yếu và muốn dàn hòa với Tunku. Bức thư này là một sự nhượng bộ, mà không nhận lại được cái gì cả. Nó ngầm thừa nhận rằng Tunku, từ bây giờ trở đi, là người có triển vọng nắm quyền kiểm soát nhất, chứ không phải Lim Chin Siong và những người cộng sản, và tôi biết người Hoa sẽ cân nhắc việc này khi quyết định sự lựa chọn của mình trong tương lai. Điều duy nhất mà Barisan có thể làm trong lúc này là cố giữ cho các cán bộ bận rộn để duy trì tinh thần và tránh để họ nghĩ đến tình trạng tuyệt vọng của mình. Theo đó, Tiến sĩ Lee công bố rằng trong ngày chủ nhật sắp tới, và 6 ngày chủ nhật tiếp theo đó, 1.500 cán bộ sẽ lên đường thực hiện một cuộc vận động đến từng nhà để chống lại chủ trương hợp nhất của chính phủ.

Một tuần sau cuộc viếng thăm của Tunku, Tan Siew Sin thăm Singapore để khai trương một phân bộ của MCA mà ông ta vừa nhận chức chủ tịch. Ông ta tuyên bố thậm chí còn cứng rắn hơn cả Tunku. Singapore đã trở thành đứa con có vấn đề của Malaya, ông nói. Nhưng nếu không hợp nhất, có thể sẽ không nhất thiết phải đóng cửa đường đê bởi vì nền kinh tế của Singapore đã quá yếu đuối. Chỉ cần một lệnh ngắn gọn và đơn giản về tăng thuế quan đánh vào cao su xuất khẩu cũng đủ biến thị trường cao su lớn nhất thế giới này thành một khu ổ chuột miền nhiệt đới. Một hòn đảo nhỏ hơn vùng đồi của Malaya, cao nguyên Cameron, không thể đứng một mình. Ông ta thêm rằng chính quyền Malaya không phải hoàn toàn do người Malay chi phối, và thật không đúng khi cho rằng người Hoa không được đối xử công bình. Ông ta không phải là thành viên của một chính phủ mà ông cảm thấy là thù nghịch với quyền lợi hợp pháp của người Malaya gốc Hoa.

Đe dọa để áp đặt Singapore qua những biện pháp kinh tế làm cho người Hoa không ưa thích ông ta. Một vài ngày sau, Barisan phản công bằng cách cảnh cáo ông ta rằng sự lệ thuộc lẫn nhau giữa Malaya và Singapore là một thực tế, bất kỳ cố gắng nào của nước này nhằm áp đặt sự trừng phạt kinh tế chống nước kia cũng sẽ là tự sát. Đồng thời Lim Chin Siong thách đố Tunku, mặc dầu gián tiếp. Bởi vì người Anh không thể cai trị theo kiểu thuộc địa cũ được nữa, ông ta nói, nên họ quyết định thành lập Liên bang Malaysia nhằm sử dụng các lực lượng cánh hữu ở địa phương để bảo vệ quyền lợi của mình trong khu vực này.

Tunku đáp trả bằng cách lặp lại lời cảnh cáo rằng đường đê sẽ bị đóng cửa vào cuối năm nếu Singapore phản đối việc hợp nhất và nhấn mạnh rằng điều đó là ông ta nói thực. “Nếu cộng sản nghĩ rằng họ có thể dễ dàng lừa bịp được người Malay,” ông nói, “thì họ đã sai lầm một cách đáng buồn”. Một tuần sau, Barisan trả đũa lại rằng những đe dọa như thế chỉ làm gia tăng sự chống đối của quần chúng đối với các nhà chính trị liên bang mà thái độ của họ “hết sức phi lý, bất công và phi dân chủ”. Nó cũng nói rằng Liên bang ve vãn nhân dân các lãnh thổ Borneo bằng những nhượng bộ, nhưng đối với Singapore chỉ toàn là đe doạ, cưỡng bách và hăm he.

Cũng có thể là như thế thật, nhưng những đe dọa đã làm cho nhân dân ý thức rằng hậu quả của cuộc đương đầu với Tunku có thể sẽ rất nguy hại. Dù tổn thương đến mức nào đi nữa, Malaya sẽ vượt qua dễ dàng hơn Singapore. Giới kinh doanh người Anh hoảng sợ và để nhấn mạnh đến tính bất ổn của tình thế, vị chủ tịch hồi hưu của

Phòng Thương mại Singapore nhắc đến “sự bột phát các cuộc bãi công, lãn công, ngồi lì… có nghĩa là bất ổn trong ngành công nghiệp” và đưa tới nguy cơ lớn là nguồn vốn mới sẽ không chảy vào hòn đảo này nữa, trong khi giá cả tăng vọt sẽ hạn chế thương mại và tạo ra những khó khăn về tài chính.

Tâm trạng lo sợ chung do tất cả những chuyện này khơi lên đã đi ngược lại ý muốn của Barisan. Trong khi ấy chúng tôi đã vượt được một rào cản khác. Sau các cuộc trao đổi hằn học và một cuộc thảo luận kéo dài 5 tiếng đồng hồ đến quá nửa đêm và tiếp tục sang ngày hôm sau, Hạ viện đã thông qua một kiến nghị tu chính hoan nghênh việc giới thiệu Dự luật về Trưng cầu dân ý quốc gia Singapore với tỷ lệ 26/16.

Vì cần thay đổi sau hoạt động sôi nổi này, tôi quyết định đã đến lúc phải nối lại các cuộc tiếp xúc với các nhà lãnh đạo Anh, và gặp gỡ một số nhà lãnh đạo Á Phi trên chuyến đi này. Vào tháng 4/1962, tôi bay sang London, ghé qua Rangoon, New Delhi, Cairo và Belgrade.

Thủ tướng Pandit Nehru của Ấn Độ hoàn toàn ủng hộ đề nghị của tôi muốn hợp nhất Singapore với Malaya để thành lập Malaysia. Báo chí ủng hộ. Dưới tiêu đề: “Thủ tướng ủng hộ một liên bang Malaysia”, tờ The Time of India, lúc đó là tờ nhật báo có uy tín của Ấn Độ viết rằng Malaysia đã dành được sự tán đồng trong chính giới. Hiển nhiên là Ấn Độ coi đây là một phát triển lành mạnh bởi vì nó giúp ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Tại cuộc họp báo, tôi có thể nói với giới báo chí rằng Thủ tướng của họ không quan tâm về tuyên bố của ban thư ký Ủy ban Đoàn kết Á Phi rằng Malaysia là một tên thực dân kiểu mới.

Trạm dừng kế tiếp của tôi là Cairo, nơi ban thư ký của Ủy ban Đoàn kết Á Phi phát ra tuyên bố chỉ trích Malaysia. Nếu tôi tranh thủ được Tổng thống Nasser, đó sẽ là một thắng lợi lớn. Tôi đến vào buổi sáng, được phó Tổng thống ra đón và đưa về một trong những lâu đài nhỏ của cựu quốc vương Farouk bấy giờ được dùng làm nhà khách. Tối đó, tôi được Nasser tiếp trong căn nhà khiêm tốn của ông. Đó là một cuộc gặp gỡ tốt đẹp. Khi tôi đến, ông đã đứng ở cửa trước với các nhà nhiếp ảnh đang ở trong vị trí của mình. Tôi cảm thấy ông đã làm điều đó hàng trăm lần để trông ăn ảnh hơn trên tivi và báo chí. Ông ta lúc nào cũng nồng nhiệt tiếp đón và rất thân thiện. Vị tổng lãnh sự của ông tại Singapore là người ủng hộ tôi và liên bang Malaysia nhiệt thành. Ông ta biết chúng tôi không muốn Singapore trở thành một Israel ở Đông Nam Á và ông đã báo cáo tình hình này với Bộ trưởng Ngoại giao của mình.

Nasser nghe tôi nói cả tiếng đồng hồ về những mối nguy hiểm khi Singapore đứng một mình và trở thành một thực thể kỳ cục ở Đông Nam Á, một thực thể người Hoa ở giữa một quần đảo Malay có khoảng một trăm triệu dân. Tôi không muốn điều này. Câu trả lời là đưa Singapore kết hợp trở lại với bán đảo Malaya vốn là một đơn vị đã do người Anh cai trị chung trong hơn một trăm năm trước khi chúng bị tách ra. Ông ta hiểu rõ việc lập Liên bang Malaysia không phải là một âm mưu thực dân mới và bảo đảm với tôi rằng ông ta sẽ ủng hộ điều đó và tôi có thể nói điều đó cho mọi người biết. Trong suốt 5 ngày viếng thăm, người Ai Cập tiếp đãi tôi như thượng khách. Tôi được mời viếng thăm Ai Cập lần nữa và có thể ghé thăm ông ta bất cứ lúc nào với tư cách cá nhân, Nasser nói. Tôi đã kết được một bạn mới. Tôi thích người đàn ông này, thích phong cách giản dị và sự khao khát mãnh liệt của ông muốn làm thay đổi một nước Ai cập suy tàn và mục nát dưới triều Farouk.

Nasser ra một tuyên bố chung với tôi, một việc phá lệ vì Singapore không phải là một quốc gia độc lập. Thông cáo chung nói rằng ông ủng hộ việc thành lập Malaysia và “sự thống nhất của tất cả các dân tộc có cùng nền tảng xã hội và chính trị… tìm cách chấm dứt sự thống trị của chủ nghĩa thực dân”. Đối với Singapore, được Nasser và Nehru, hai nhà lãnh đạo tiên phong của châu Phi và châu Á, hiểu và ủng hộ là một thắng lợi chính trị.

Vào ngày lễ Lao động, tôi bay đến Belgrade. Tito tiếp tôi trọng thể. Khác với Nasser, ông ở trong một dinh thự sang trọng với các cổng sắt được điều khiển bằng điện lặng lẽ mở ra khi chúng tôi tới. Một vị Bộ trưởng, ông Slavko Komar, đưa tôi tới gặp ông. Tito mặc một bộ thường phục, không phải là một trong những bộ đồng phục oai vệ nhất của ông ta. Khi các nhiếp ảnh gia chụp hình, ông ta trông cứng ngắc và nghiêm trang – không cười, không nồng nhiệt, hoàn toàn trái ngược với Nasser. Tôi đối mặt với vấn đề: người Indonesia đã đầu độc đầu óc ông.28 Nhưng ông lắng nghe. Tôi thư thả giải thích lập trường của mình, nói rằng tôi là một người có tinh thần dân tộc, không phải là một tên bù nhìn của chủ nghĩa thực dân. Tôi không đồng ý với những người cộng sản Singapore, họ đi theo đường lối của Trung Quốc: họ không thể thành công ở Singapore và Malaysia bởi vì nhãn cộng sản của họ không bắt nguồn từ bản địa; chủ nghĩa Mao không thể thành công ở châu Á. Cử chỉ của ông cho tôi cảm nghĩ rằng tôi đã chuyển biến được ông. Tôi nhắc lại một bài báo phê bình Malaysia trong tờ báo đảng, tờ Komunist. Tito nói nó không đại diện cho chính quyền Nam Tư. Tôi lại giành được điểm.

Khi tôi đi đến phi trường và sắp sửa gặp giới báo chí ở đó, tôi hỏi Slavko Komar là liệu tôi có thể lặp lại những điều Tito nói với tôi không. Ông nói Tổng thống là một người giữ lời, khi ông ta nói như thế là như thế. Vì thế tôi trích dẫn tuyên bố của Tito và quay sang hỏi vị Bộ trưởng điều đó có đúng không, ông ta gật đầu và nói: “Đúng”. Sau khi tôi rời Nam Tư, hãng Reuters tường thuật tuyên bố của người phát ngôn Vụ đối ngoại rằng: “Bài báo này phản ánh quan điểm cá nhân của tác giả. Thủ tướng Lee trong suốt thời gian lưu lại Belgrade đã thông báo với chủ tịch và các nhà lãnh đạo Nam Tư về mong muốn thành lập liên bang Malaysia. Vấn đề này được phía Nam Tư thông hiểu”. Thêm một thắng lợi chính trị.

Đối với Choo, chuyến đi London lần này là lần đầu tiên bà trở lại từ khi ra đi vào tháng 8/1950. Thành phố trông thịnh vượng và dân London ăn mặc rất chải chuốt. Họ đang trải qua thập niên 60 thịnh đạt. Mặc dầu tôi đã tới đây 3 lần trong khoảng thời gian 1956–1958, tôi vẫn bị ấn tượng khi thấy có quá nhiều tiệm ăn và xe hơi. Macmillan đã thắng trong cuộc bầu cử 1959 với điệp khúc: “Bạn không bao giờ có được điều tốt đẹp đến thế,” và báo chí đặt biệt danh cho ông là “siêu Mac”. Đó là tháng 5, thời tiết rất đẹp, và chúng tôi thật hạnh phúc khi thấy thủ đô Anh phát đạt. Một vài chiếc xe Humber Pullman khổng lồ đang đậu ở Grosvenor House nơi chúng tôi lưu trú, sẵn sàng đưa chúng tôi đi bất cứ nơi nào chúng tôi muốn. Nhưng tôi có một lịch trình dày đặc – thảo luận với các Bộ trưởng, gặp gỡ những người ủng hộ thuộc đảng Lao động trong nghị viện, và các cuộc phỏng vấn không chính thức với báo chí Anh.

Reginald Maudling, vị tân Bộ trưởng Thuộc địa, một người to lớn, vạm vỡ, đeo kiếng, rất cởi mở và dễ làm quen, ông ta và vợ tiếp chúng tôi thân mật trước các cuộc thảo luận chính thức để cho chúng tôi có cảm giác thoải mái. Ông cũng tụ tập được vài Bộ trưởng

dùng cơm trưa với tôi, và đối với vợ tôi, bà Maudling cũng tổ chức một cuộc chiêu đãi dành cho quý bà ở khách sạn Hyde Park.

Một vấn đề lớn vốn là vấn đề cũ – liệu có nên gạt bỏ những người cộng sản trước hay sau sự hợp nhất không. Tunku đã lặp lại đòi hỏi của ông rằng Hội đồng an ninh nội chính phải ra tay đối phó trước. Ông cũng nói rõ rằng ông không muốn thực hiện các cuộc đàn áp vào lúc Malaysia khai sinh. Đó không phải là một khởi đầu thuận lợi.

Tôi chuẩn bị xem xét việc hành động trước khi thực hiện hợp nhất

– với hai điều kiện quan trọng. Tôi nói với Maudling chiến dịch này có thể bắt đầu trong khi Anh vẫn còn giữ trách nhiệm về an ninh, vẫn là chủ tịch Hội đồng an ninh nội chính. Tôi nhấn mạnh rằng cộng sản vẫn cứ giữ lập trường như thế lúc tiến hành cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề hợp nhất. Quan điểm trước công chúng của tôi là tôi sẽ xem việc ấy như một điều rất đáng tiếc nhưng trên quan điểm cá nhân với sự hiểu biết về cộng sản, tôi cho rằng đó là điều rất cần thiết. Kế đó tôi nhấn mạnh rằng những người cộng sản vẫn phải được tự do hoạt động khi cuộc trưng cầu dân ý về việc lập Liên bang Malaysia được tiến hành. Tôi tin rằng họ sẽ kêu gọi một cuộc tẩy chay nhưng sẽ không được quần chúng ủng hộ, và chính điều này sẽ làm mất uy tín của họ. Sẽ là một sai lầm chết người nếu bắt giữ họ trước cuộc trưng cầu dân ý; chính điều đó sẽ hủy diệt hoàn toàn giá trị của cuộc trưng cầu dân ý và tôi dễ dàng bị kết tội là đã bắt giữ họ để giành chiến thắng và giao Singapore cho Tunku. Sẽ có bạo động phản đối và rối loạn xã hội.

Một ủy ban đặc biệt dưới quyền lãnh đạo của ngài Cobbold lúc ấy đang viếng thăm Bắc Borneo để xác định quan điểm của vùng này về vấn đề hợp nhất. Tôi nhấn mạnh rằng dù cho báo cáo của Cobbold có bất kỳ khuyến cáo gì về vấn đề quyền công dân của người Borneo đi nữa, thì Singapore cũng phải được hưởng những điều kiện thuận lợi không kém các vùng lãnh thổ đó. Từ “cư dân Malaysia” có lẽ sẽ được chấp nhận nếu nó được áp dụng chung cho các công dân của hai lãnh thổ này, nhưng Tunku đã tuyên bố rằng công dân Borneo sẽ trở thành công dân Malaysia mặc dầu công dân Singapore thì không được như thế.

Khi Maudling hỏi về các khó khăn của tôi với Tunku, tôi nói: “Tunku nghĩ tôi thông minh nhưng sai lầm còn ông ta không thông minh nhưng đúng. Tôi thắng trong cuộc tranh luận ấy nhưng ông ta cảm thấy kết luận của tôi là sai mặc dầu ông ta không biết tại sao”. Nếu

Maudling thuyết phục được Tunku rằng thật là điên rồ khi tin rằng mọi người Hoa đều có thể ủng hộ cộng sản, thì ông ta sẽ đạt được hiệu quả hơn tôi. Niềm tin đơn giản của Tunku là “chính trị dành cho người Malay và kinh doanh dành cho người Hoa”. Điều đó có lẽ đúng với thời của cha Tunku, nhưng không hiện thực vào năm 1962. Đối với các khác biệt về quyền công dân, tôi cũng đã gặp Cobbold vào buổi sáng hôm đó và bỏ ra gần cả tiếng đồng hồ để thảo luận các đề nghị của ông về vấn đề Borneo. Tôi nói với Maudling rằng tôi cảm thấy vui hơn khi biết rằng ông ta biết những điều đó ảnh hưởng đến Singapore như thế nào và những điều đó làm gia tăng khó khăn của tôi ra sao.

Cuộc viếng thăm của tôi không phải hoàn toàn là công việc. Chúng tôi lái xe đến Cambridge dùng trà với Billy Thatcher ở University Arms Hotel. Thatcher rất vui với những điều tôi đã làm được kể từ khi tôi rời Cambridge vào năm 1949 và hỏi thăm con cái của chúng tôi – Chúng tôi đã viết thư cho ông nói rằng Loong rất là thông minh, ông biếu tôi cuốn Alice in Wonderland của Lewis Caroll để tặng cho Loong và nói: “Nó phải đến sớm nếu tôi còn ở được chỗ này để gặp nó”. Thatcher không có vẻ yếu lắm nhưng tôi rất vui vì đã có thể thăm được ông. Một năm sau ông ta mất. Cả hai chúng tôi đều rất buồn.

Ngày cuối tuần ở Cambridge là một dịp may với nguyên một chương trình chính thức bao gồm chương trình phát thanh của đài BBC về Singapore trên chuyên mục Viễn Đông của họ. Tôi mô tả các nhà lãnh đạo của các quốc gia không liên kết – Ấn Độ, Ai Cập, Nam Tư – đã công khai ủng hộ việc thành lập Malaysia như thế nào. Đó không phải là loại tin phấn khởi cho những người ủng hộ cộng sản.

Các bài tường thuật trên báo chí, đài phát thanh về các cuộc gặp gỡ của tôi với Nehru, Nasser và Tito, và bài phát thanh của tôi trên đài BBC ắt hẳn là có tác dụng tốt bởi vì Barisan tấn công tôi dữ dội. Để giải thích tại sao những nhà lãnh đạo Á Phi ấy không nghĩ Malaysia là một âm mưu của chủ nghĩa thực dân, họ khẳng định rằng tôi đã lấy cảm tình và ủng hộ của họ bằng cách tạo ra một ấn tượng giả. Họ chỉ trích rằng Nehru, Tito và Ne Win (khác với Nasser) không đời nào đưa ra một thông cáo chung nào với một vị thủ tướng thiếu uy tín. Nhưng họ không thể bác bỏ rằng những nhân vật đó đã ủng hộ Malaysia.

Trong khi ấy, tờ báo thân cộng của Indonesia, tờ Bintang Timur, tường thuật rằng Lim Chin Siong nói ông ta ủng hộ việc hợp nhất với Indonesia hơn là với Malaysia. Điều này là ngu xuẩn, và Lim vội bác bỏ việc mình đã tuyên bố như trên, nhưng nó đã gây tổn hại cho ông – cộng sản đang mất đi ưu thế trong cuộc chiến chống lại việc hợp nhất và lời bác bỏ của ông không thuyết phục nổi ai.

Tôi trở về Singapore và cảm thấy dễ chịu hơn sau 5 tuần rời xa những tranh luận hàng ngày và áp lực của các cuộc đình công. Tinh thần của tôi đã phục hồi đủ để trở lại với những cuộc đấu tranh bất tận với cộng sản, bút chiến với họ trên báo chí và cố gắng kiềm chế khi đối mặt với những khiêu khích do những cuộc đình công, lãn công trong khi kinh doanh trì trệ, công ăn việc làm mất đi và thất nghiệp gia tăng.

Mọi thứ đã không diễn ra quá tệ. Vào tháng 5, khoảng 3.000 học sinh tụ họp ở trường trung học Chung Cheng để kỷ niệm các cuộc xung đột với cảnh sát năm 1954. Họ hát, lên án chính phủ vì đã thành lập một ủy ban điều tra cuộc tẩy chay thi cử và kêu gọi bãi khóa một ngày ở tất cả các trường trung học người Hoa vào ngày 21/5, ngày ủy ban bắt đầu làm việc. Nhưng vào đúng ngày đó, 19 trong số 25 trường học buổi sáng có 100% học sinh đi học. Một trăm học sinh được chọn để dán các áp phích phản đối lên tường, cột điện và biển báo giao thông vào lúc 5 giờ sáng, lúc trời hãy còn tối. Họ không lo bị chú ý và chụp hình.

Mặc dầu Barisan đến từng nhà để vận động vào những ngày chủ nhật, về căn bản chúng tôi vẫn ở thế thắng.

Chọn tập
Bình luận