Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Tây Sơn Bi Hùng Truyện

Chương 35

Tác giả: Lê Đình Danh
Thể loại: Văn Học Việt Nam

Nhắc lại tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ đem hai vạn binh vào đánh quân Tiêm La do Nguyễn vương Phúc Ánh cầu viện. Quân Tiêm La năm vạn còn lại mấy trăm người trốn về nước, từ ấy không dám dòm ngó nước Nam nữa. Đuổi quân Tiêm La xong, Nguyễn Huệ đem đại binh về Quy Nhơn phục mệnh vua Thái Đức. Vua sai mở tiệc khao quân. Trước các tướng, vua Thái Đức nói:

– Nguyễn Huệ lúc xuất chinh có hẹn trước với ta sẽ về Quy Nhơn ăn tết Ất Tỵ. Nay ta mở tiệc khao quân nhằm vào tết năm Ất Tỵ, lời Nguyễn Huệ thật quả không sai. Vậy em muốn ta ban thưởng vật gì ta cũng chiều theo ý em.

Nguyễn Huệ quỳ tâu rằng:

– Em không muốn ban thưởng vật gì cả, chỉ có một điều thỉnh cầu, xin Hoàng huynh thuận cho.

Vua Thái Đức bảo:

– Điều gì em cứ nói.

Huệ thưa:

– Lần trước vào Nam đánh Phúc Ánh em có bắt được tướng của Phúc Ánh là Nguyễn Huỳnh Đức đem về đây xin Hoàng huynh giam vào thiên lao cho cơ hội dụ hàng. Nay Nguyễn Phúc Ánh chưa biết sống chết hay phiêu dạt nơi đâu, ấy chính là cơ hội dụ hàng Nguyễn Huỳnh Đức. Nếu Huỳnh Đức chịu quy thuận, ấy là hồng phúc của nước nhà và Hoàng huynh lại được thêm một viên tướng giỏi. Xin Hoàng huynh cho em vào thiên lao dụ hàng Huỳnh Đức. Vua bảo:

– Việc này nào có khó gì, lát nữa tiệc tàn em cứ đi dụ hàng Huỳnh Đưa. Ta biết ý em dụ hàng Huỳnh Đức là để thu phục lòng dân đất Gia Định, chứ Huỳnh Đức lại sánh bằng Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Đặng Xuân Phong, Đặng Xuân Bảo, Vũ Văn Nhậm của ta sao?

Vua Thái Đức vừa dứt lời bỗng một người bước ra nói lớn:

– Bệ hạ khinh thân là nữ nhi thường tình hay sao mà không kể đến?

Vua vỗ trán cả cười nói:

– Bởi tướng giỏi của ta đông quá, nên ta sơ xuất mà quên mất nữ kiệt Bùi Thị Xuân, ba lần đuổi Nguyễn Phúc Ánh chạy vắt giò lên cổ, xạ tiễn trọng thương Tống Phước Hiệp ở Phú Yên, mới đây là chém tướng Tiêm La là Lục Côn rơi đầu, thì sao ta là dám bảo cô Xuân là nhi nữ thường tình.

Nói rồi vua cũng nâng chén uống mừng đại thắng Tiêm La và vui tết năm Ất Tỵ.

Tiệc tan ai về nhà nấy, Nguyễn Huệ tìm đến thiên lao gặp Nguyễn Huỳnh Đức, Huệ hỏi Đức:

– Đã hơn năm nay tướng quân còn sống ở tại thiên lão là do Huệ tôi hết lòng xin Hoàng huynh đừng giết kẻ anh hùng. Việc ấy Huỳnh Đức có biết chăng?

Đức ngồi trong ngục bình thản đáp:

– Việc này tôi có biết.

Nguyễn Huệ lại hỏi:

– Nguyễn Vương Phúc Ánh bán nước cầu vinh, viện quân Tiêm La về hại dân lành Huỳnh Đức có biết chăng?

Đức đáp:

– Chúa ta viện quân về đánh giặc Tây Sơn lấy là nước là điều đúng. Tàn hại dân lành là tội của quân Tiêm La, sao đổ tội cho Chúa ta được.

Nghe Đức gọi Tây Sơn là giặc, Nguyễn Huệ vẫn điềm nhiên hỏi:

– Ta vừa đem quân vào đất Gia Định đánh một trận tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La, quét sạch ngoại xâm ra ngoài bờ cõi. Nguyễn vương Phúc Ánh chưa biết sống chết thế nào, tướng quân đành đem tấm thân hữu dụng mà tìm cái chết hay sao.

Đức cười đáp:

– Nếu Nguyễn vương không còn, Đức này nguyện sẽ chết theo. Nếu Nguyễn vương còn sống mà vua Thái Đức không bằng Tào Tháo đã thả Quan Vân Trường ngày xưa, thì Đức này đành cam tâm chỉ chết chứ nhất định không hàng.

Nghe Nguyễn Huỳnh Đức nói xong Nguyễn Huệ bảo:

– Tướng quân lại không bằng một câu nói của Mạnh Tử gần ngàn năm trước vậy.

Nói rồi Nguyễn Huệ quay gót về dinh. Huệ đi rồi Nguyễn Huỳnh Đức nói thầm rằng: Mạnh Tử có nói câu: “Dân vì quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” ý Nguyễn Huệ bảo ta là ngu trung vậy!

Trên đường về nhà Nguyễn Huệ gặp quân ngự sử Nguyễn Thung. Nguyễn Thung hỏi:

– Tướng quân đem binh vào Nam đánh một trận đuổi giặc Tiêm La ra ngoài bờ cõi, uy danh lừng lẫy thì nên vui mới phải, cớ gì nét mặt lại dàu dàu như thế?

Huệ lắc đầu đáp:

– Năm trước ta bắt được tướng tài của Nguyễn Phúc Ánh tên Nguyễn Huỳnh Đức. Ta thương tài mến nghĩa không nỡ giết, đã mấy phen dụ hàng mà Đức không quy thuận nên đâm ra buồn bực trong lòng. Nguyễn Thung nói:

– Tôi xin vì tướng quân vào thiên lao khuyên Huỳnh Đức quy hàng.

Đoạn Nguyễn Thung đến gặp Huỳnh Đức nói:

– Tôi là thuyết khách của Long Nhương tướng quân.

Đức cười đáp:

– Đến cái chết ta còn không sợ, thì điều gì có thể lay chuyển được ta.

Nguyễn Thung cũng vô cùng rằng:

– Không sợ chết chưa hắn đã là người quân tử.

Nguyễn Huỳnh Đức nghiêm mặt hỏi:

– Vậy thế nào mới là người quân tử?

Thung ung dung đáp:

– Khi thất thủ ở Hạ Bị, Quan Văn Trường lúc ấy nếu chọn cái chết, thì làm gì tiếng để đến ngàn thu thì làm gì có việc phò nhị tẩu, qua ngũ quan trảm lục tướng, về sau lại trấn thủ đất Kinh châu uy danh lừng lẫy. Vì nghĩ đến tấm thân hữu dụng của mình, sau phò Chúa nên Quan Văn Trường mới giao ước ba điều tạm hàng Tào Mạnh Đức. Nay Nguyễn vương chưa biết sống chết, hoặc lưu lạc nơi nào, nếu tướng quân chọn cái chết ngộ nhỡ Nguyễn vương con sống, hưng binh khôi phục cơ đồ thì ắt là thiếu đi một tướng tài phò tá, ấy là tướng quân trung nhưng là trung chưa trọn vẹn vậy. Tình thế của tướng quân bây giờ thì chẳng khác gì Quan Văn Trường ngày xưa. Sao tướng quân không noi theo gương ấy, đến lúc nghe Chúa còn sống thì đi hay ở là tuỳ ý của tướng quân, ấy chẳng phải là kẻ thức thời biết tiến thoái để giữ lại tấm thân hữu dụng ư? Long Nhương tướng quân là người bách chiến bách thắng, tính khí lại ngang trời dọc đất, thế mà lại không giết tướng quân, rõ là vì thiên hạ thương tiếc anh hùng. Nếu tướng quân là hàng chim chuột thì Long Nhương tướng quân đâu phải nhọc lòng sai tôi đến đây!

Nghe Nguyễn Thung nói xong Huỳnh Đức hỏi:

– Tôi bằng lòng hàng Tây Sơn. Nhưng khi nghe Nguyễn vương con sống tôi nhất quyết theo Chúa cũ. Vậy Nguyễn Huệ có bằng lòng chăng?

Thung cười đáp:

– Lúc quân Tây Sơn ta mới khởi binh chỉ lấy được đất Quy Nhơn, Quảng Ngãi, binh lực con non yếu. Ngoài thì địch Hoàng Ngũ Phục ở Quảng Nam, trong thì cự Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Trong lúc lưỡng đầu thọ địch thế mà Long Nhương tướng quân còn dám tha mạng quan tham tán quân cơ đa mưu túc trí của chúa Nguyễn là Tĩnh Diệp hầu Nguyễn Đăng Trường, huống hồ gì ngày nay Long Nhương lại không giữ lời hứa mà thả tướng quân sao?

Huỳnh Đức nói:

– Nếu thế phiền ông về thưa cùng Long Nhương tướng quân tôi thuận ý xin hàng.

Nguyễn Thung quay về nói với Nguyễn Huệ rằng:

– Nguyễn Huỳnh Đức giao ước một điều nếu tướng quân bắng lòng Đức sẽ quy hàng.

Huệ hỏi:

– Đức giao ước điều gì?

Thung đáp:

– Huỳnh Đức thuận ý quy hàng, nhưng khi nào biết Nguyễn vương ở đâu sẽ bỏ Tây Sơn ta đi theo Chúa.

Huệ cười bảo:

– Việc này nào có khó gì. Phiền quan Ngự sử vời Huỳnh Đức đến đây.

Nguyễn Thung đưa Đức đến. Đức vòng tay thi lễ nói:

– Đức tôi giao ước Long Nhương tướng quân có bằng lòng chăng?

Huệ đáp:

– Ta bằng lòng nên mới vời Huỳnh Đức đến đây.

Đức nói:

– Vậy khi nào biết Chúa ở đâu, tôi quyết lòng theo Chúa. Lúc ấy xin tướng quân chớ khá quên lời.

Huệ cười bảo:

– Một lời đã nói, bốn ngựa khó theo. Huỳnh Đức muốn làm Quan Văn Trường đời nay, ta lại không bằng Tào Mạnh Đức ngày xưa sao?

Nói xong truyền quân bày yến tiệc thết đại huynh Đức. Từ ấy Nguyễn Huệ giữ Huỳnh Đức ở luôn trong quân.

***

Nhắc lại tướng Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh năm ấy vì loạn kiêu binh đứa Trịnh Khải lên ngôi Chúa, Chỉnh sợ luỵ đến thân, bỏ đất Nghệ An theo về Quy Nhơn nương nhờ vua Thái Đức.

Ngày ấy Hữu Chỉnh tâu vua Thái Đức rằng:

– Ngày nay Bệ hạ diệt xong nhà Nguyễn làm cho một cõi Đàng Trong uy danh lừng lẫy. Nhưng đất đai họ Nguyễn gồm cả đất Thuận Hoá, nay đất ấy đã bị họ Trịnh lấy mặt, Bệ hạ hãy đem quân lấy lại đất này, dùng sông Linh Giang làm ranh giới như ngày xưa hai nhà Trịnh – Nguyễn đã làm, thì Bệ hạ ở Đàng Trong như ngồi trên bàn thạch mà hưởng lộc vậy.

Vua Thái Đức xua tay nói:

– Vì thương lê dân lâm cảnh đói nghèo nên ta khởi binh ở đất Tây Sơn cứu trăm họ thoát chốn lầm than. Nay thiên hạ đại thái bình muôn dân đã no ấm, họ Trịnh lấy đèo Hải Vân làm ranh giới không xâm phạm chủ quyền của ta, việc gì ta phải dấy động can qua, làm khổ cho sinh linh thật lòng ta không nỡ!

Nguyễn Hữu Chỉnh lại tâu:

– Nay đất Thuận Hoá do Phạm Ngô Cầu trấn thủ. Ngô Cầu là người tham lam tàn bạo vơ vét của cải dân lành, nếu Bệ hạ đem quân Bắc tiến ắt trăm họ một lòng hưởng ứng thì chỉ một hồi trống là lấy xong đất Thuận Hoá mà thôi. Ấy là không phải Bệ hạ dấy động can qua làm khổ bá tánh mà là đem nhân nghĩa để cứu dân đó.

Vua Thái Đức gạt đi bảo:

– Đèo Hải Vân hiểm trở lại do quân Trịnh chiếm đóng, Phạm Ngô Cầu ở đất Thuận Hoá còn những hai vạn binh tinh nhuệ thì tài gì một hồi trống có thể đuổi được họ đi. Vả lại dân ở Thuận Hoá khổ sở thế nào ta chỉ nghe người nơi mà thôi, nếu động binh, cứu dân nghèo đâu chưa thấy chỉ thấy quân ta lại thêm hao binh tổn tướng một lần nữa. Quân của ta lúc dấy binh đến nay chinh chiến triền miên, lòng người đều mong cảnh thái bình. Nay đã thái bình lại còn gây chinh chiến làm chi. Ý ta đã quyết ngươi chớ nhiều lời.

Nói xong vua đuổi Nguyễn Hữu Chỉnh ra ngoài. Về nhà Chỉnh nói với thủ hạ là Nguyễn Viết Tuyển rằng:

– Ta những muốn mượn tay Tây Sơn đem quân đánh Trịnh đẹp yên xứ Bắc, rồi sẽ mượn cớ phò Lê xin anh em Nhạc – Huệ cho ta ở lại vỗ yên Bắc Hà. Khi ấy ta sẽ chiêu binh mãi mã thì làm Chúa Đàng Ngoài không phải là ta hỏi còn ai vào đây nữa? Ngặt nỗi vua Thái Đức chí nhỏ tài sơ đã mấy phen khẩn cầu mà không dám động binh. Ngươi có kế gì cho họ xuất quân chăng?

Viết Tuyển bàn rằng:

– Vua Thái Đức càng già càng thụ động cầu an, là có tính đố tài không muốn cho Nguyễn Huệ đem quân ra ngoài cõi. Tôi có nghe năm xưa Nguyễn Huệ xin cất quân vào Nam đánh Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Nhạc vì ngại cho Huệ cầm quân chuyên quyền cõi xa còn không cho Huệ cầm binh thì chẳng có cớ gì nên chẳng chịu xuất quân. Về sau Nguyễn Huệ phải giả bệnh, Nguyễn Nhạc mới nhận cơ hội ấy sai Nguyễn Lữ vào Nam đánh Định vương Nguyễn Phúc Thuần. Vậy tướng quân nên đốc thúc Nguyễn Huệ cầm quân Bắc tiến, may ra Nguyễn Huệ sẽ có cơ khuyên Nguyễn Nhạc xuất binh.

Nguyễn Hữu Chỉnh khen phải, liền đến tư dinh Nguyễn Huệ. Chỉnh nói với Nguyễn Huệ rằng:

– Từ ngày tướng quân vào Nam đánh quân Tiêm La đến nay đã hơn một năm, quân ta đã đủ thời giờ để dưỡng uy sức nhuệ. Nay Phạm Ngô Cầu ở đất Thuận Hoá không phòng bị, sao tướng quân không xin vừa đem quân Bắc tiến.

Huệ hỏi lại Chỉnh:

– Hoàng huynh tôi đã cao tuổi ngại việc chinh chiến, tôi cầu xin chưa chắc người đã nghe. Ông là thượng khách của Hoàng huynh tôi sao không xin giúp một lời.

Chỉnh đáp:

– Tôi đã mấy lượt khẩn cầu những vua không thuận ý.

– Ông viện cớ gì để khuyên Hoàng huynh tôi xuất quân?

– Tôi xin vua nên đánh lấy đất Thuận Hoá dùng sông Linh Giang và luỹ Trường Dục làm ranh giới như chúa Nguyễn lúc trước thì có thể an nhàn mà hưởng lộc.

Nguyễn Huệ cười to nói:

– Hoàng huynh tôi vì thấy trăm họ lầm than mà dựng cơ khởi nghĩa. Ông lại đem cái lợi để khuyên Hoàng huynh tôi xuất quân, thảo nào Hoàng huynh tôi chẳng chịu nghe theo.

Nguyễn Hữu Chỉnh lại nói:

– Tôi có tâu với vua rằng lương dân ở Thuận Hoá bị Phạm Ngô Cầu đàn áp bóc lột, xin người cất quân đánh Trịnh cứu dân. Nhưng nhà vua vẫn để ngoài tai.

– Lời ông nói lấy gì để Hoàng huynh tôi tin là nhân dân ở Thuận Hoá thật sự bị bóc lột khổ sở. Hay là ông muốn vin vào cớ ấy để muốn quân Tây Sơn ta đưa ông về Bắc Hà?

Chỉnh thất sắc nói:

– Ngày trước còn là tôi nhà chúa Trịnh, tình hình đất Bắc Hà thế nào tôi rất rõ, nên mới xin tướng quân đánh Trịnh cho bá tánh được nhờ ơn mưa móc.

Còn việc cầm quân Bắc tiến, tôi có tài cán gì mà thống lĩnh binh quyền để mượn binh của nhà vua về xứ Bắc. Xin tướng quân xét lại.

Thấy Nguyễn Hữu Chỉnh lo sợ, Nguyễn Huệ an ủi rằng:

– Dù ông có muốn quân của Hoàng huynh tôi ra có diệt Trịnh phò Lê thì tình giao hảo giữa nước của nhà Lê và nhà Tây Sơn ta càng thêm gắn bó, có gì mà ông phải ngại. Từ ngày đánh tan quân Tiêm La do Nguyễn Phúc Ánh rước về đến nay đất Gia Định đã bình yên. Tôi cũng muốn đem quân đánh lấy đất Thuận Hoá, những Hoàng huynh tôi ngại việc chiến chinh, nên chưa dám xin quân Bắc tiến. Nay nhờ có ông xin hộ, Hoàng huynh tôi ắt sẽ bằng lòng đánh Trịnh.

Hữu Chỉnh ngạc nhiên nói:

– Tôi vừa thưa với tướng quân, tôi đã mấy lượt cầu xin mà nhà vua không thuận ý kia mà.

Huệ cười bảo:

– Người xưa có câu: “Trăm nghe không bằng mắt thấy. Ông hay đưa Hoàng huynh tôi ra đất Thuận Hoá để người được tận mắt chứng kiến cảnh muôn dân Thuận Hoá bị Phạm Ngô Cầu áp bức bóc lột. Hoàng huynh tôi là người đại đức, thấy việc nghĩa dù nhảy vào lửa cũng chẳng từ nan. Nếu người được thấy tận mắt cảnh nhân dân cùng khổ ắt sẽ lập tức xuất quân.

Chỉnh ngẫm nghĩ rồi hỏi:

– Nhưng làm cách nào mà đưa Bệ hạ ra Thuận Hoá cho được?

Huệ mỉm cười nói:

– Ông là người đa mưu túc trí của đất Bắc Hà lại nghĩ không ra cách, thì tôi làm sao mà biết được.

Thấy nét mật Chỉnh lộ vẻ thất vọng, Huệ vỗ vai Chỉnh bảo:

– Việc này cũng chưa vội gì, sớm muộn ông cũng nghĩ ra kế. Giờ hay theo tôi đến trại quân xem tướng sĩ tập binh giải sầu.

Nói rồi Huệ liền đưa Hữu Chỉnh đến các trại quân. Đến nơi thấy quân lính đang háo hức luyện võ nghe. Chỉnh đứng nhìn một hồi rồi nói:

– Tôi từ nhỏ theo dõi cung kiếm, tuy không dám sánh cùng các tướng Tây Sơn nhưng thập bát ban võ nghệ cũng từng học qua. Về quyền thuật thì Hổ Quyền, Long Quyền, Hầu Quyền, Xa Quyền cũng khá tính thông nhưng chưa từng trông thấy loại quyền thuật nào là như bài quyền mà quân lính đang tập cả. Tướng quân có thể cho biết bài quyền này xuất xứ ở đâu chăng?

Huệ đáp:

– Bài quyền này tên là Hùng Kê Quyền chưa tìm có trong võ thuật cổ truyền. Nó do em tôi là Tiết Chế Nguyễn Lữ nghiên cứu các thế võ của gà rừng chọi nhau mà sáng tạo nên. Bởi vậy mới có tên là Hùng Kê Quyền đó!

Hữu Chỉnh ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao không là gà chọi mà phải của gà rừng?

Huệ mỉm cười đáp:

– Ông không thấy sao. Người sử dụng bài quyền này chuyên dùng các ngón tay và ngón chân điểm vào các yếu huyệt của đối phương. Trong khi ra đón thân pháp lại lanh lẹ bay nhảy như chim, nếu không phải của gà rừng thì làm gì có được sở trường đó? Chín nhờ bài quyền thuật này mà từ lúc Tây Sơn tôi khởi binh đến nay mới biến thua thành thắng, dùng ít địch nhiều đều nhờ công lao của Nguyễn Lữ cả đây.

Hữu Chỉnh lấy làm lạ lại hỏi:

– Vậy Tiết chế phải cất công lên tận rừng sâu xem gà rừng đá nhau ư? Vả lại giữa rừng rộng mênh mông thì làm sao tìm thấy được một cặp gà trống đá nhau.

Nguyễn Huệ cười lớn một hồi mà không đáp. Hữu Chỉnh ngạc nhiên hỏi:

– Long Nhương tướng quân cười gì mà cười mãi thế?

Huệ cố nín cười nói:

– Tôi nghe người ta bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh huyện Chân Lộc phủ Nghệ An nổi danh là văn võ song toàn, đa mưu túc trí, năm mươi sau tuổi đã thi đỗ Hương Cống lại không nghĩ ra cách để nhìn thấy gà rừng đá nhau sao?

Hữu Chỉnh vẫn chưa hiểu ý, liền hỏi:

– Tôi thật tình không nghĩ ra. Xin tướng quân chỉ bảo.

Huệ mỉm cười đáp:

– Ta chỉ cần đặt bẫy bắt nhiều gà rừng về nhốt trong nhà ắt chúng sẽ đã cho ta xem chứ có gì là khó. Nếu không đến nơi xem được thì đem chúng về cho ta xem. Có thế mà ông chẳng nghĩ ra.

Nghe Huệ nói xong, Chỉnh lầm bầm một mình rằng:

– Không đến nơi xem được thì đem về nhà! Không đến nơi xem được thì đem về nhà!

Rồi quay sang Huệ, Chỉnh nói:

– Cấm ơn tướng quân đã cho tôi xem một bài quyền bổ ích. Xin cáo biệt tướng quân.

Nói rồi Hữu Chỉnh quay gót ra về. Tên hầu cần hỏi Nguyễn Huệ:

– Theo tiện nhân được biết bài Hùng Kê Quyền này là Tiết chế xem thế đá của gà chọi mà sáng tạo ra, sao tướng quân lại bảo với Nguyễn Hữu Chỉnh là của gà rừng?

Nguyễn Huệ đáp:

– Việc nay ta há chẳng biết sao. Ta nói vậy là có dụng ý ngươi không hiểu được đâu! Lát nữa về tư dinh ngươi hãy thử xắp những vật dụng cần thiết chuẩn bị theo ta đem quân Bắc tiến.

***

Nói về Nguyễn Hữu Chỉnh đến nhà rồi, Nguyễn Viết Tuyển hỏi:

– Nguyễn Huệ có kế gì khuyên vua Thái Đức xuất quân chăng mà trông tướng quân vui vẻ thế?

Chỉnh đáp:

– Lần này Nguyễn Huệ chẳng có kế gì hay cả. Nhưng nhờ Huệ đưa ta đi xem các trại tập binh nên tình cờ ta nghĩ ra một kế có thể kích động lòng nhân của vua Thái Đức khiến ông ấy phải đồng ý xuất quân.

Nguyễn Viết Tuyển liền hỏi:

– Xin hỏi tướng quân ấy là kẻ gì.

Chỉnh đáp:

– Ấy là khổ nhục kế!

Rồi Chỉnh kề tai Tuyển nói nhỏ. Nghe xong Tuyển khen:

– Nếu vua Thái Đức là người đức lớn như đế hiệu của ông ấy thì đây là kế hay vậy. Tôi chịu ơn tướng quân cưu mang bấy lâu, nay tôi xin vì tướng quân chọn thêm vài người tin cẩn thi hành kế này.

Nói rồi Tuyển gọi mấy tên quân tâm phúc vào. Bọn Tuyển cởi trần quỳ giữa nhà, Hữu Chỉnh tự tay cầm roi mây mà đánh. Người nào trên lưng cũng hằn đấy vết roi cả. Đánh xong Chỉnh đỡ đám thủ hạ dậy rồi quỳ xuống khóc nói:

– Ta vì muốn về nước nên bất đắc dĩ mới phải dùng kế này. Nếu được về tung hoành ngang dọc Bắc Hà chính là nhờ ơn của các ngươi vậy! Khi vào gặp Thái Đức các ngươi nhớ nói rằng mình là dân Thuận Hoá, không được nhận là người nhà của ta. Nếu việc bị lộ ra là mắc tội khi quân, ta và các người không tranh khói mất đầu.

Nói xong Chỉnh liền sửa soạn khăn áo dẫn theo bọn Tuyển vào chầu vua Thái Đức. Chỉnh thưa:

– Tâu Bệ hạ, có mấy người dân ở Thuận Hoá ở Phạm Ngô Cầu sai quân cướp bóc đánh đập nên mới đi đường biển trốn đến Quy Nhơn vào nhà hạ thần tá túc. Hạ thần không dám tự tiện nên vội đến tâu cùng Bệ hạ được rõ.

Vua Thái Đức hỏi:

– Những người dân ấy hiện ở đâu.

Chỉnh đáp:

– Thưa, đang đứng đợi bên ngoài.

Vua Thái Đức liền bảo quân:

– Hãy mau gọi họ vào đây cho ta dạy việc.

Bọn Nguyễn Viết Tuyển vào đến, vua ôn tồn hỏi:

– Các ngươi là dân xứ nào. Vì sao phải lưu lạc đến đây?

Nguyễn Viết Tuyển vờ khóc to rồi đáp:

– Tâu Bệ hạ, thần dân là người ở Phú Xuân Thuận Hoá bị Phạm Ngô Cầu đặt sưu cao thuế nặng không đủ tiền nộp thuế, nên bị quan quân nhà Trịnh đánh đập dã man chẳng thể nào sống nổi. Nghe vua là người đức lớn nên liều mình bỏ trốn vào theo nương nhờ ơn mưa móc.

Nói xong bọn Tuyển cùng khóc rống lên rất là thảm thiết. Vua cảm động bước xuống ngai tự tay đỡ bọn Tuyển đứng lên. Thấy quần áo bọn Tuyển rách tả tơi, vua thương hại nói:

– Năm xưa ta vì thương dân nghèo bị quan quân nhà Nguyễn bóc lột thậm khổ nên mới khởi nghĩa đất Tây Sơn. Nay các ngươi bất luận ở đâu đó đói khổ mà bỏ quê quán đến đây thì là con dân trong nước của ta.

Nói rồi liền bảo quân mang quần áo mới vào cho bọn Tuyển thay. Bọn Tuyển vừa cởi áo ra, nhìn thấy lưng người nào cũng hằn đầy vết roi ứa máu, vua liền chộp lấy nghiên mực trên bạn quăng xuống đất vỡ tan. Nguyễn Hữu Chỉnh cùng bọn Tuyển thấy đều thất kinh hồn vía. Vua giận dữ quát lớn:

– Thằng giặc Phạm Ngô Cầu thật là tàn ác. Năm xưa nó vì ham quyền tước mà nghe lời Trịnh Sâm giết chết Thái tử, nhờ vậy được Trịnh Sâm phòng tước Tạo quận công, cất nhắc làm đại tướng trấn thủ đất Thuận Hoá. Nay lại vì ham lợi mà hà hiếp bóc lột đàn áp lương dân. Nếu ta không đem quân vượt Hải Vân quan bắt Phạm Ngô Cầu về đây trị tội bán vua hại dân thì ta đâu phải là vừa trời Thái Đức.

Nghe vua nói xong, Nguyễn Hữu Chỉnh và bọn Tuyển đổi sợ làm vui, khắp khởi mừng thăm. Vua lại bảo quân:

– Hay truyền lệnh ta, ngày mai với bá quan văn võ lập tức thiệt triều.

Hôm sau thiết triều, đông đủ các quan văn võ, vua Thái Đức nói:

– Nay tướng của họ Trịnh là Phạm Ngô Cầu trấn thủ đất Thuận Hoá tham lam tàn ác hà khắc lương dân. Ta những muốn đem quân đuổi quân Trịnh ở khỏi sông Linh Giang. Trước là cứu muôn dân Thuận Hoá, sau là lấy lại đất đai của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Nhưng quân Trịnh ở thành Phú Xuân còn hai vạn tinh binh lại chiếm lấy đèo Hải Vân hiểm trở các khanh ai có kế gì lấy đất Phú Xuân, Thuận Hoá mà ít phải hy sinh binh sĩ hay chăng?

Nguyễn Hữu Chỉnh bước ra thưa:

– Đèo Hải Vân hiểm trở, ai chiếm đóng đèo này một có thể địch được trăm. Vậy ta đánh bằng quân bộ e rằng bắt lợi. Theo hạ thần ta nên đem thuỷ binh vượt bể vào cửa Tư Hiền (cửa Thuận An ngày nay) đánh lấy thành Phú Xuân. Thành Phú Xuân mất ắt quân trấn thủ ở Hải Vân quân tấn thôi lưỡng nan tất phải đầu hàng.

Chỉnh vừa dứt lời, Nguyễn Huệ bước ra nói:

– Mục đích của Hoàng huynh tôi là đánh như thế nào để chiếm được thành mà ít phải tổn hao binh sĩ. Tuy rằng Phạm Ngô Cầu là kẻ bất tài nhu nhược nhưng phó tướng Hoàng Đình Thế là một tay kiệt hiệt từng theo Hoàng Ngũ Phúc xông phá trăm trận ắt thành Phú Xuân được phỏng thủ kỹ lưỡng. Sách lược của ông Chỉnh chắc chắn là thắng nhưng nhất định tổn thất không phải nhỏ.

Vua Thái Đức hỏi:

– Vậy theo em phải đánh thế nào?

Huệ đáp:

– Ngày trước quan Ngự sử Nguyễn Thung tiên sinh đi sứ ra Thăng Long xin Trịnh Sâm cho Hoàng huynh làm đại chức Trấn thủ đất Quảng Nam. Nguyễn tiên sinh có biết việc Phạm Ngô Cầu vì sợ hồn Thái tử Duy Vỹ theo báo oán nên Cầu mới bày kế cho Nguyễn tiên sinh mách cùng Trịnh Sâm cho Cầu vào trấn đất Thuận Hoá, đồng thời với Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn lúc ấy đang trấn thủ Thuận Hoá về Thăng Long, hầu hạ cánh Trịnh Sâm để nhờ tướng quý của hai người này đuổi hồn ma Thái tử, cho Ngô Cầu vào Thuận Hoá. Vậy nay ta cho một người ra Phú Xuân nói với Ngô Cầu như vậy… như vậy… ắt Phạm Ngô Cầu sẽ làm theo mà lơ đễnh việc canh phòng. Sau đó ta bất ngờ tiến đánh, tin chắc quân Trịnh ở Phú Xuân sẽ trở tay không kịp thì tổn thất của ta chẳng đáng kể gì.

Vua Thái Đức khen:

– Hay lắm. Em thật là đa mưu túc trí. Sang sứ Phạm Ngô Cầu, ai có thể làm được việc này.

Nguyễn Thung bước ra thưa:

– Ngày trước ra Thăng Long thần có biết rõ Phạm Ngô Cầu là người hay tin vào những điều huyễn hoặc nhưng lại không nghĩ ra kế này. Long Nhương tướng quân quả nhiên chước quỷ mưu thần. Việc sang sứ Phạm Ngô Cầu thần xin tiến cử một người.

Vua Thái Đức hỏi:

– Người ấy là ai?

Thung đáp:

– Người này tên là Triệu Đình Tiệp, rất giỏi tử vi tướng số, tinh thông dịch lý. Nay ta nhờ người nay sang gạt Phạm Ngô Cầu mới không sợ có điều sơ sảy. Triệu Đình Tiệp cùng với thần là chỗ thâm giao, thần xin vì Bệ hạ đi vời Tiệp một phen!

Vua cả mừng bảo:

– Ấy là trời đã giúp ta ra tay cứu bá tánh ở đất Thuận Hoá vậy. Phiền quan Ngự sử hãy đi ngay cho.

Nói xong vua truyền bãi triều.

Ra ngoài Nguyễn Huệ nạt Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:

– Cống Chỉnh to gan khi quân phạm thượng. Ông dám bày khổ nhục kế gạt Hoàng huynh ta xuất binh Bắc phạt mà không sợ mất đầu ư?

Chỉnh thất kinh nói nhỏ với Huệ rằng:

– Ai mách với tướng quân như thế. Những người ấy đều là dân ở Thuận Hoá bị Phẩm Ngô Cầu đàn áp trốn vào đây mà thôi.

Huệ nghiêm mặt bảo:

– Ông xem tôi là con nít hay sao. Để tôi vào thưa cùng Hoàng huynh đem những người dân ấy ra tra hỏi xem hư thực thế nào?

Nói xong Huệ quay lưng toan đi. Nguyễn Hữu Chỉnh thất kinh níu áo Huệ lại van xin:

– Ôi! Nếu tướng quân đã biết tới cũng không đã giấu. Chẳng qua vì tôi nóng lòng báo thù cho chúa, trị tội bọn kiêu binh ở Bắc Hà, nên bất đắc dĩ mới dùng kế ấy. Vả chăng tướng quân cũng đã bảo tôi tìm cách c khuyên vua xuất quân Bắc tiến sao, bây giờ lại toan hại tôi như thế?

Bảy giá Huệ mới cười rằng:

– Nào tôi cố ý hại ông. Chẳng qua tôi muốn biết ai bày kế hay cho ông nên mới nói thế mà thôi.

Chỉnh vô tình đáp:

– Chẳng ai bày kế cho tôi cả. Bởi hôm ấy đi xe quân tập bài Hùng Kê Quyền, tướng quân có nói câu: “Không lên rừng xem gà rừng đá nhau được thì bắt chúng về nhà đá cho ta xem”, nên tôi mới nghĩ ra được kế này.

Nguyễn Huệ khen Hữu Chỉnh:

– Ông không hổ danh là nhân tài đất Bắc vậy.

Nguyễn Hữu Chỉnh cáo từ ra về. Nguyễn Huệ bấm bụng cười mỉm.

***

Nói về đại tướng trấn thủ Thuận Hoá là Tạo quận công Phạm Ngô Cầu, ngày ấy ở tư dinh trong thành Phú Xuân nghe quân hầu vào báo:

– Thưa tướng quân, tiện nhân nghe quân đồn đại ở ngoài phố có một người coi tử vi rất giỏi, thiên hạ rủ nhau đi xem rất đông. Sao tướng quân không xem một quẻ thử hậu vận thế nào.

Ngô Cầu vốn rất ưa thích việc bói toán, nghe tên hầu nói thế liền cái trang thành thường dân đến gặp người thầy bói hỏi:

– Nghe nói thấy xem tử vi đoán biết việc quá khứ vị lai. Vậy tử vi là thế nào?

Thầy bói nhìn Ngô Cầu rồi đáp:

– Xem tử vi là theo năm, tháng, ngày, giờ sinh mà an các sao vào mười hai cung là Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quân, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Thê, Huynh gọi là lá số. Rồi theo lá số ấy mà đoán thì có thể biết vận mệnh, sinh tử, tiền tài, danh vọng, nhà cửa, bạn bè, tai nạn, vợ con của người ấy trong suốt cuộc đời sẽ như thế nào.

Ngô Cầu hỏi:

– Nhưng tôi không biết được ngày giờ sinh của mình thì làm thế nào?

Thầy bói đáp:

– Hễ thiếu một trong bọn yếu tố của ngày, giờ tháng, năm sinh thì không thể xem được tử vi. Nhưng chẳng hề gì, tôi có thể xem tướng cho ngài cũng được.

Ngô Cầu mừng rỡ hỏi:

– Vậy thầy hãy xem thử tôi là người thế nào?

Người thầy bói ngắm thấy diện mạo Phạm Ngô Cầu, mắt ốc bươu, mũi lõ, miệng rộng đến tận mang tai, răng hô, tai to và nhăn như tai heo. Thầy bói nghĩ thầm rằng: Ta đang đình tìm cách vào dinh Phạm Ngô Cầu thi hành độc kế chẳng lẽ hắn lại tìm đến đây? Nghĩ xong liền nói:

– Tướng của ngài không là đại tướng thì cũng là công hầu!

Ngô Cầu kinh ngạc bảo:

– Lời đồn quả thật không sai. Ta là trấn thủ đất Thuận Hoá, chức đại tướng, tước quận công. Thầy đoán hai điều đều đúng cả hai vậy.

Nói xong liền mời thấy tướng vào dinh phủ. Đến nơi, Cầu hỏi:

– Dám hỏi thầy dựa vào đâu mà đoán chính xác thế?

Thầy tướng đáp:

– Diện mạo tướng quân thì mắt lộ, mũi to, răng hô, miệng rộng, tai vênh ấy là tướng ngũ lộ. Người có tướng này nhất định danh vọng thênh thang, phú quý tột bực. Việc này rất dễ coi bí quyết của khoa toán số hoặc tử vi là nơi đúng về hậu vận mới hay.

Cầu liền hỏi:

– Vậy thầy hãy đoán xem hậu vận của ta thế nào?

Thầy tướng đáp:

– Tướng quân đang có nạn. Nếu qua khỏi nạn này ắt là đường hoạn lộ không ai bì kịp!

Cầu giật mình hỏi:

– Thấy bảo ta có nạn, ấy là nạn gì?

Thầy tướng đáp:

– Nhãn quang của tướng quân bất định, thần sắc lại nhợt nhạt. Nếu tôi đoán không lầm ắt là có âm hồn theo báo oán.

Phạm Ngô Cầu kinh hãi hỏi ngay:

– Lời thầy nói quả không sai. Ngày trước ta có giết lầm một người, nay chắc là oan hồn người đó theo báo oán ta chăng? Vậy thầy có cách gì xua đuổi hồn oan ấy được không?

– Ngươi này chết oan rất là thảm thiết nên trong lòng uất hận thành ra oan hồn rất dữ. Nếu muốn đuổi được đi phải lựa nơi ngoài thành đất bằng rộng rãi đủ chỗ cho một ngàn người đứng. Rồi đắp đàn cho cao triệu thầy pháp cao tay lên đàn cầu đảo. Trong khi cầu đảo một ngàn quân phải đeo tang, hàng ngũ chỉnh tề đứng như pho tượng không được cử động. Từ sáng đến chiều thì thay quân khác cho quân cũ ra ở uống nghỉ ngơi cho đến sáng lại đến lượt mình. Sau bảy ngày bảy đêm như thế thì chắc chắn đuổi được hồn oan giải nạn cho tướng quân.

Phạm Ngô Cầu vẫn còn lo âu nói:

– Ta sẽ làm ý theo lời chỉ dạy của thấy. May ra có thể đuổi được âm hồn theo báo oán.

Nhắc lại tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ đem hai vạn binh vào đánh quân Tiêm La do Nguyễn vương Phúc Ánh cầu viện. Quân Tiêm La năm vạn còn lại mấy trăm người trốn về nước, từ ấy không dám dòm ngó nước Nam nữa. Đuổi quân Tiêm La xong, Nguyễn Huệ đem đại binh về Quy Nhơn phục mệnh vua Thái Đức. Vua sai mở tiệc khao quân. Trước các tướng, vua Thái Đức nói:

– Nguyễn Huệ lúc xuất chinh có hẹn trước với ta sẽ về Quy Nhơn ăn tết Ất Tỵ. Nay ta mở tiệc khao quân nhằm vào tết năm Ất Tỵ, lời Nguyễn Huệ thật quả không sai. Vậy em muốn ta ban thưởng vật gì ta cũng chiều theo ý em.

Nguyễn Huệ quỳ tâu rằng:

– Em không muốn ban thưởng vật gì cả, chỉ có một điều thỉnh cầu, xin Hoàng huynh thuận cho.

Vua Thái Đức bảo:

– Điều gì em cứ nói.

Huệ thưa:

– Lần trước vào Nam đánh Phúc Ánh em có bắt được tướng của Phúc Ánh là Nguyễn Huỳnh Đức đem về đây xin Hoàng huynh giam vào thiên lao cho cơ hội dụ hàng. Nay Nguyễn Phúc Ánh chưa biết sống chết hay phiêu dạt nơi đâu, ấy chính là cơ hội dụ hàng Nguyễn Huỳnh Đức. Nếu Huỳnh Đức chịu quy thuận, ấy là hồng phúc của nước nhà và Hoàng huynh lại được thêm một viên tướng giỏi. Xin Hoàng huynh cho em vào thiên lao dụ hàng Huỳnh Đức. Vua bảo:

– Việc này nào có khó gì, lát nữa tiệc tàn em cứ đi dụ hàng Huỳnh Đưa. Ta biết ý em dụ hàng Huỳnh Đức là để thu phục lòng dân đất Gia Định, chứ Huỳnh Đức lại sánh bằng Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Đặng Xuân Phong, Đặng Xuân Bảo, Vũ Văn Nhậm của ta sao?

Vua Thái Đức vừa dứt lời bỗng một người bước ra nói lớn:

– Bệ hạ khinh thân là nữ nhi thường tình hay sao mà không kể đến?

Vua vỗ trán cả cười nói:

– Bởi tướng giỏi của ta đông quá, nên ta sơ xuất mà quên mất nữ kiệt Bùi Thị Xuân, ba lần đuổi Nguyễn Phúc Ánh chạy vắt giò lên cổ, xạ tiễn trọng thương Tống Phước Hiệp ở Phú Yên, mới đây là chém tướng Tiêm La là Lục Côn rơi đầu, thì sao ta là dám bảo cô Xuân là nhi nữ thường tình.

Nói rồi vua cũng nâng chén uống mừng đại thắng Tiêm La và vui tết năm Ất Tỵ.

Tiệc tan ai về nhà nấy, Nguyễn Huệ tìm đến thiên lao gặp Nguyễn Huỳnh Đức, Huệ hỏi Đức:

– Đã hơn năm nay tướng quân còn sống ở tại thiên lão là do Huệ tôi hết lòng xin Hoàng huynh đừng giết kẻ anh hùng. Việc ấy Huỳnh Đức có biết chăng?

Đức ngồi trong ngục bình thản đáp:

– Việc này tôi có biết.

Nguyễn Huệ lại hỏi:

– Nguyễn Vương Phúc Ánh bán nước cầu vinh, viện quân Tiêm La về hại dân lành Huỳnh Đức có biết chăng?

Đức đáp:

– Chúa ta viện quân về đánh giặc Tây Sơn lấy là nước là điều đúng. Tàn hại dân lành là tội của quân Tiêm La, sao đổ tội cho Chúa ta được.

Nghe Đức gọi Tây Sơn là giặc, Nguyễn Huệ vẫn điềm nhiên hỏi:

– Ta vừa đem quân vào đất Gia Định đánh một trận tiêu diệt năm vạn quân Tiêm La, quét sạch ngoại xâm ra ngoài bờ cõi. Nguyễn vương Phúc Ánh chưa biết sống chết thế nào, tướng quân đành đem tấm thân hữu dụng mà tìm cái chết hay sao.

Đức cười đáp:

– Nếu Nguyễn vương không còn, Đức này nguyện sẽ chết theo. Nếu Nguyễn vương còn sống mà vua Thái Đức không bằng Tào Tháo đã thả Quan Vân Trường ngày xưa, thì Đức này đành cam tâm chỉ chết chứ nhất định không hàng.

Nghe Nguyễn Huỳnh Đức nói xong Nguyễn Huệ bảo:

– Tướng quân lại không bằng một câu nói của Mạnh Tử gần ngàn năm trước vậy.

Nói rồi Nguyễn Huệ quay gót về dinh. Huệ đi rồi Nguyễn Huỳnh Đức nói thầm rằng: Mạnh Tử có nói câu: “Dân vì quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” ý Nguyễn Huệ bảo ta là ngu trung vậy!

Trên đường về nhà Nguyễn Huệ gặp quân ngự sử Nguyễn Thung. Nguyễn Thung hỏi:

– Tướng quân đem binh vào Nam đánh một trận đuổi giặc Tiêm La ra ngoài bờ cõi, uy danh lừng lẫy thì nên vui mới phải, cớ gì nét mặt lại dàu dàu như thế?

Huệ lắc đầu đáp:

– Năm trước ta bắt được tướng tài của Nguyễn Phúc Ánh tên Nguyễn Huỳnh Đức. Ta thương tài mến nghĩa không nỡ giết, đã mấy phen dụ hàng mà Đức không quy thuận nên đâm ra buồn bực trong lòng. Nguyễn Thung nói:

– Tôi xin vì tướng quân vào thiên lao khuyên Huỳnh Đức quy hàng.

Đoạn Nguyễn Thung đến gặp Huỳnh Đức nói:

– Tôi là thuyết khách của Long Nhương tướng quân.

Đức cười đáp:

– Đến cái chết ta còn không sợ, thì điều gì có thể lay chuyển được ta.

Nguyễn Thung cũng vô cùng rằng:

– Không sợ chết chưa hắn đã là người quân tử.

Nguyễn Huỳnh Đức nghiêm mặt hỏi:

– Vậy thế nào mới là người quân tử?

Thung ung dung đáp:

– Khi thất thủ ở Hạ Bị, Quan Văn Trường lúc ấy nếu chọn cái chết, thì làm gì tiếng để đến ngàn thu thì làm gì có việc phò nhị tẩu, qua ngũ quan trảm lục tướng, về sau lại trấn thủ đất Kinh châu uy danh lừng lẫy. Vì nghĩ đến tấm thân hữu dụng của mình, sau phò Chúa nên Quan Văn Trường mới giao ước ba điều tạm hàng Tào Mạnh Đức. Nay Nguyễn vương chưa biết sống chết, hoặc lưu lạc nơi nào, nếu tướng quân chọn cái chết ngộ nhỡ Nguyễn vương con sống, hưng binh khôi phục cơ đồ thì ắt là thiếu đi một tướng tài phò tá, ấy là tướng quân trung nhưng là trung chưa trọn vẹn vậy. Tình thế của tướng quân bây giờ thì chẳng khác gì Quan Văn Trường ngày xưa. Sao tướng quân không noi theo gương ấy, đến lúc nghe Chúa còn sống thì đi hay ở là tuỳ ý của tướng quân, ấy chẳng phải là kẻ thức thời biết tiến thoái để giữ lại tấm thân hữu dụng ư? Long Nhương tướng quân là người bách chiến bách thắng, tính khí lại ngang trời dọc đất, thế mà lại không giết tướng quân, rõ là vì thiên hạ thương tiếc anh hùng. Nếu tướng quân là hàng chim chuột thì Long Nhương tướng quân đâu phải nhọc lòng sai tôi đến đây!

Nghe Nguyễn Thung nói xong Huỳnh Đức hỏi:

– Tôi bằng lòng hàng Tây Sơn. Nhưng khi nghe Nguyễn vương con sống tôi nhất quyết theo Chúa cũ. Vậy Nguyễn Huệ có bằng lòng chăng?

Thung cười đáp:

– Lúc quân Tây Sơn ta mới khởi binh chỉ lấy được đất Quy Nhơn, Quảng Ngãi, binh lực con non yếu. Ngoài thì địch Hoàng Ngũ Phục ở Quảng Nam, trong thì cự Tống Phước Hiệp ở Phú Yên. Trong lúc lưỡng đầu thọ địch thế mà Long Nhương tướng quân còn dám tha mạng quan tham tán quân cơ đa mưu túc trí của chúa Nguyễn là Tĩnh Diệp hầu Nguyễn Đăng Trường, huống hồ gì ngày nay Long Nhương lại không giữ lời hứa mà thả tướng quân sao?

Huỳnh Đức nói:

– Nếu thế phiền ông về thưa cùng Long Nhương tướng quân tôi thuận ý xin hàng.

Nguyễn Thung quay về nói với Nguyễn Huệ rằng:

– Nguyễn Huỳnh Đức giao ước một điều nếu tướng quân bắng lòng Đức sẽ quy hàng.

Huệ hỏi:

– Đức giao ước điều gì?

Thung đáp:

– Huỳnh Đức thuận ý quy hàng, nhưng khi nào biết Nguyễn vương ở đâu sẽ bỏ Tây Sơn ta đi theo Chúa.

Huệ cười bảo:

– Việc này nào có khó gì. Phiền quan Ngự sử vời Huỳnh Đức đến đây.

Nguyễn Thung đưa Đức đến. Đức vòng tay thi lễ nói:

– Đức tôi giao ước Long Nhương tướng quân có bằng lòng chăng?

Huệ đáp:

– Ta bằng lòng nên mới vời Huỳnh Đức đến đây.

Đức nói:

– Vậy khi nào biết Chúa ở đâu, tôi quyết lòng theo Chúa. Lúc ấy xin tướng quân chớ khá quên lời.

Huệ cười bảo:

– Một lời đã nói, bốn ngựa khó theo. Huỳnh Đức muốn làm Quan Văn Trường đời nay, ta lại không bằng Tào Mạnh Đức ngày xưa sao?

Nói xong truyền quân bày yến tiệc thết đại huynh Đức. Từ ấy Nguyễn Huệ giữ Huỳnh Đức ở luôn trong quân.

***

Nhắc lại tướng Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh năm ấy vì loạn kiêu binh đứa Trịnh Khải lên ngôi Chúa, Chỉnh sợ luỵ đến thân, bỏ đất Nghệ An theo về Quy Nhơn nương nhờ vua Thái Đức.

Ngày ấy Hữu Chỉnh tâu vua Thái Đức rằng:

– Ngày nay Bệ hạ diệt xong nhà Nguyễn làm cho một cõi Đàng Trong uy danh lừng lẫy. Nhưng đất đai họ Nguyễn gồm cả đất Thuận Hoá, nay đất ấy đã bị họ Trịnh lấy mặt, Bệ hạ hãy đem quân lấy lại đất này, dùng sông Linh Giang làm ranh giới như ngày xưa hai nhà Trịnh – Nguyễn đã làm, thì Bệ hạ ở Đàng Trong như ngồi trên bàn thạch mà hưởng lộc vậy.

Vua Thái Đức xua tay nói:

– Vì thương lê dân lâm cảnh đói nghèo nên ta khởi binh ở đất Tây Sơn cứu trăm họ thoát chốn lầm than. Nay thiên hạ đại thái bình muôn dân đã no ấm, họ Trịnh lấy đèo Hải Vân làm ranh giới không xâm phạm chủ quyền của ta, việc gì ta phải dấy động can qua, làm khổ cho sinh linh thật lòng ta không nỡ!

Nguyễn Hữu Chỉnh lại tâu:

– Nay đất Thuận Hoá do Phạm Ngô Cầu trấn thủ. Ngô Cầu là người tham lam tàn bạo vơ vét của cải dân lành, nếu Bệ hạ đem quân Bắc tiến ắt trăm họ một lòng hưởng ứng thì chỉ một hồi trống là lấy xong đất Thuận Hoá mà thôi. Ấy là không phải Bệ hạ dấy động can qua làm khổ bá tánh mà là đem nhân nghĩa để cứu dân đó.

Vua Thái Đức gạt đi bảo:

– Đèo Hải Vân hiểm trở lại do quân Trịnh chiếm đóng, Phạm Ngô Cầu ở đất Thuận Hoá còn những hai vạn binh tinh nhuệ thì tài gì một hồi trống có thể đuổi được họ đi. Vả lại dân ở Thuận Hoá khổ sở thế nào ta chỉ nghe người nơi mà thôi, nếu động binh, cứu dân nghèo đâu chưa thấy chỉ thấy quân ta lại thêm hao binh tổn tướng một lần nữa. Quân của ta lúc dấy binh đến nay chinh chiến triền miên, lòng người đều mong cảnh thái bình. Nay đã thái bình lại còn gây chinh chiến làm chi. Ý ta đã quyết ngươi chớ nhiều lời.

Nói xong vua đuổi Nguyễn Hữu Chỉnh ra ngoài. Về nhà Chỉnh nói với thủ hạ là Nguyễn Viết Tuyển rằng:

– Ta những muốn mượn tay Tây Sơn đem quân đánh Trịnh đẹp yên xứ Bắc, rồi sẽ mượn cớ phò Lê xin anh em Nhạc – Huệ cho ta ở lại vỗ yên Bắc Hà. Khi ấy ta sẽ chiêu binh mãi mã thì làm Chúa Đàng Ngoài không phải là ta hỏi còn ai vào đây nữa? Ngặt nỗi vua Thái Đức chí nhỏ tài sơ đã mấy phen khẩn cầu mà không dám động binh. Ngươi có kế gì cho họ xuất quân chăng?

Viết Tuyển bàn rằng:

– Vua Thái Đức càng già càng thụ động cầu an, là có tính đố tài không muốn cho Nguyễn Huệ đem quân ra ngoài cõi. Tôi có nghe năm xưa Nguyễn Huệ xin cất quân vào Nam đánh Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Nhạc vì ngại cho Huệ cầm quân chuyên quyền cõi xa còn không cho Huệ cầm binh thì chẳng có cớ gì nên chẳng chịu xuất quân. Về sau Nguyễn Huệ phải giả bệnh, Nguyễn Nhạc mới nhận cơ hội ấy sai Nguyễn Lữ vào Nam đánh Định vương Nguyễn Phúc Thuần. Vậy tướng quân nên đốc thúc Nguyễn Huệ cầm quân Bắc tiến, may ra Nguyễn Huệ sẽ có cơ khuyên Nguyễn Nhạc xuất binh.

Nguyễn Hữu Chỉnh khen phải, liền đến tư dinh Nguyễn Huệ. Chỉnh nói với Nguyễn Huệ rằng:

– Từ ngày tướng quân vào Nam đánh quân Tiêm La đến nay đã hơn một năm, quân ta đã đủ thời giờ để dưỡng uy sức nhuệ. Nay Phạm Ngô Cầu ở đất Thuận Hoá không phòng bị, sao tướng quân không xin vừa đem quân Bắc tiến.

Huệ hỏi lại Chỉnh:

– Hoàng huynh tôi đã cao tuổi ngại việc chinh chiến, tôi cầu xin chưa chắc người đã nghe. Ông là thượng khách của Hoàng huynh tôi sao không xin giúp một lời.

Chỉnh đáp:

– Tôi đã mấy lượt khẩn cầu những vua không thuận ý.

– Ông viện cớ gì để khuyên Hoàng huynh tôi xuất quân?

– Tôi xin vua nên đánh lấy đất Thuận Hoá dùng sông Linh Giang và luỹ Trường Dục làm ranh giới như chúa Nguyễn lúc trước thì có thể an nhàn mà hưởng lộc.

Nguyễn Huệ cười to nói:

– Hoàng huynh tôi vì thấy trăm họ lầm than mà dựng cơ khởi nghĩa. Ông lại đem cái lợi để khuyên Hoàng huynh tôi xuất quân, thảo nào Hoàng huynh tôi chẳng chịu nghe theo.

Nguyễn Hữu Chỉnh lại nói:

– Tôi có tâu với vua rằng lương dân ở Thuận Hoá bị Phạm Ngô Cầu đàn áp bóc lột, xin người cất quân đánh Trịnh cứu dân. Nhưng nhà vua vẫn để ngoài tai.

– Lời ông nói lấy gì để Hoàng huynh tôi tin là nhân dân ở Thuận Hoá thật sự bị bóc lột khổ sở. Hay là ông muốn vin vào cớ ấy để muốn quân Tây Sơn ta đưa ông về Bắc Hà?

Chỉnh thất sắc nói:

– Ngày trước còn là tôi nhà chúa Trịnh, tình hình đất Bắc Hà thế nào tôi rất rõ, nên mới xin tướng quân đánh Trịnh cho bá tánh được nhờ ơn mưa móc.

Còn việc cầm quân Bắc tiến, tôi có tài cán gì mà thống lĩnh binh quyền để mượn binh của nhà vua về xứ Bắc. Xin tướng quân xét lại.

Thấy Nguyễn Hữu Chỉnh lo sợ, Nguyễn Huệ an ủi rằng:

– Dù ông có muốn quân của Hoàng huynh tôi ra có diệt Trịnh phò Lê thì tình giao hảo giữa nước của nhà Lê và nhà Tây Sơn ta càng thêm gắn bó, có gì mà ông phải ngại. Từ ngày đánh tan quân Tiêm La do Nguyễn Phúc Ánh rước về đến nay đất Gia Định đã bình yên. Tôi cũng muốn đem quân đánh lấy đất Thuận Hoá, những Hoàng huynh tôi ngại việc chiến chinh, nên chưa dám xin quân Bắc tiến. Nay nhờ có ông xin hộ, Hoàng huynh tôi ắt sẽ bằng lòng đánh Trịnh.

Hữu Chỉnh ngạc nhiên nói:

– Tôi vừa thưa với tướng quân, tôi đã mấy lượt cầu xin mà nhà vua không thuận ý kia mà.

Huệ cười bảo:

– Người xưa có câu: “Trăm nghe không bằng mắt thấy. Ông hay đưa Hoàng huynh tôi ra đất Thuận Hoá để người được tận mắt chứng kiến cảnh muôn dân Thuận Hoá bị Phạm Ngô Cầu áp bức bóc lột. Hoàng huynh tôi là người đại đức, thấy việc nghĩa dù nhảy vào lửa cũng chẳng từ nan. Nếu người được thấy tận mắt cảnh nhân dân cùng khổ ắt sẽ lập tức xuất quân.

Chỉnh ngẫm nghĩ rồi hỏi:

– Nhưng làm cách nào mà đưa Bệ hạ ra Thuận Hoá cho được?

Huệ mỉm cười nói:

– Ông là người đa mưu túc trí của đất Bắc Hà lại nghĩ không ra cách, thì tôi làm sao mà biết được.

Thấy nét mật Chỉnh lộ vẻ thất vọng, Huệ vỗ vai Chỉnh bảo:

– Việc này cũng chưa vội gì, sớm muộn ông cũng nghĩ ra kế. Giờ hay theo tôi đến trại quân xem tướng sĩ tập binh giải sầu.

Nói rồi Huệ liền đưa Hữu Chỉnh đến các trại quân. Đến nơi thấy quân lính đang háo hức luyện võ nghe. Chỉnh đứng nhìn một hồi rồi nói:

– Tôi từ nhỏ theo dõi cung kiếm, tuy không dám sánh cùng các tướng Tây Sơn nhưng thập bát ban võ nghệ cũng từng học qua. Về quyền thuật thì Hổ Quyền, Long Quyền, Hầu Quyền, Xa Quyền cũng khá tính thông nhưng chưa từng trông thấy loại quyền thuật nào là như bài quyền mà quân lính đang tập cả. Tướng quân có thể cho biết bài quyền này xuất xứ ở đâu chăng?

Huệ đáp:

– Bài quyền này tên là Hùng Kê Quyền chưa tìm có trong võ thuật cổ truyền. Nó do em tôi là Tiết Chế Nguyễn Lữ nghiên cứu các thế võ của gà rừng chọi nhau mà sáng tạo nên. Bởi vậy mới có tên là Hùng Kê Quyền đó!

Hữu Chỉnh ngạc nhiên hỏi:

– Tại sao không là gà chọi mà phải của gà rừng?

Huệ mỉm cười đáp:

– Ông không thấy sao. Người sử dụng bài quyền này chuyên dùng các ngón tay và ngón chân điểm vào các yếu huyệt của đối phương. Trong khi ra đón thân pháp lại lanh lẹ bay nhảy như chim, nếu không phải của gà rừng thì làm gì có được sở trường đó? Chín nhờ bài quyền thuật này mà từ lúc Tây Sơn tôi khởi binh đến nay mới biến thua thành thắng, dùng ít địch nhiều đều nhờ công lao của Nguyễn Lữ cả đây.

Hữu Chỉnh lấy làm lạ lại hỏi:

– Vậy Tiết chế phải cất công lên tận rừng sâu xem gà rừng đá nhau ư? Vả lại giữa rừng rộng mênh mông thì làm sao tìm thấy được một cặp gà trống đá nhau.

Nguyễn Huệ cười lớn một hồi mà không đáp. Hữu Chỉnh ngạc nhiên hỏi:

– Long Nhương tướng quân cười gì mà cười mãi thế?

Huệ cố nín cười nói:

– Tôi nghe người ta bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh huyện Chân Lộc phủ Nghệ An nổi danh là văn võ song toàn, đa mưu túc trí, năm mươi sau tuổi đã thi đỗ Hương Cống lại không nghĩ ra cách để nhìn thấy gà rừng đá nhau sao?

Hữu Chỉnh vẫn chưa hiểu ý, liền hỏi:

– Tôi thật tình không nghĩ ra. Xin tướng quân chỉ bảo.

Huệ mỉm cười đáp:

– Ta chỉ cần đặt bẫy bắt nhiều gà rừng về nhốt trong nhà ắt chúng sẽ đã cho ta xem chứ có gì là khó. Nếu không đến nơi xem được thì đem chúng về cho ta xem. Có thế mà ông chẳng nghĩ ra.

Nghe Huệ nói xong, Chỉnh lầm bầm một mình rằng:

– Không đến nơi xem được thì đem về nhà! Không đến nơi xem được thì đem về nhà!

Rồi quay sang Huệ, Chỉnh nói:

– Cấm ơn tướng quân đã cho tôi xem một bài quyền bổ ích. Xin cáo biệt tướng quân.

Nói rồi Hữu Chỉnh quay gót ra về. Tên hầu cần hỏi Nguyễn Huệ:

– Theo tiện nhân được biết bài Hùng Kê Quyền này là Tiết chế xem thế đá của gà chọi mà sáng tạo ra, sao tướng quân lại bảo với Nguyễn Hữu Chỉnh là của gà rừng?

Nguyễn Huệ đáp:

– Việc nay ta há chẳng biết sao. Ta nói vậy là có dụng ý ngươi không hiểu được đâu! Lát nữa về tư dinh ngươi hãy thử xắp những vật dụng cần thiết chuẩn bị theo ta đem quân Bắc tiến.

***

Nói về Nguyễn Hữu Chỉnh đến nhà rồi, Nguyễn Viết Tuyển hỏi:

– Nguyễn Huệ có kế gì khuyên vua Thái Đức xuất quân chăng mà trông tướng quân vui vẻ thế?

Chỉnh đáp:

– Lần này Nguyễn Huệ chẳng có kế gì hay cả. Nhưng nhờ Huệ đưa ta đi xem các trại tập binh nên tình cờ ta nghĩ ra một kế có thể kích động lòng nhân của vua Thái Đức khiến ông ấy phải đồng ý xuất quân.

Nguyễn Viết Tuyển liền hỏi:

– Xin hỏi tướng quân ấy là kẻ gì.

Chỉnh đáp:

– Ấy là khổ nhục kế!

Rồi Chỉnh kề tai Tuyển nói nhỏ. Nghe xong Tuyển khen:

– Nếu vua Thái Đức là người đức lớn như đế hiệu của ông ấy thì đây là kế hay vậy. Tôi chịu ơn tướng quân cưu mang bấy lâu, nay tôi xin vì tướng quân chọn thêm vài người tin cẩn thi hành kế này.

Nói rồi Tuyển gọi mấy tên quân tâm phúc vào. Bọn Tuyển cởi trần quỳ giữa nhà, Hữu Chỉnh tự tay cầm roi mây mà đánh. Người nào trên lưng cũng hằn đấy vết roi cả. Đánh xong Chỉnh đỡ đám thủ hạ dậy rồi quỳ xuống khóc nói:

– Ta vì muốn về nước nên bất đắc dĩ mới phải dùng kế này. Nếu được về tung hoành ngang dọc Bắc Hà chính là nhờ ơn của các ngươi vậy! Khi vào gặp Thái Đức các ngươi nhớ nói rằng mình là dân Thuận Hoá, không được nhận là người nhà của ta. Nếu việc bị lộ ra là mắc tội khi quân, ta và các người không tranh khói mất đầu.

Nói xong Chỉnh liền sửa soạn khăn áo dẫn theo bọn Tuyển vào chầu vua Thái Đức. Chỉnh thưa:

– Tâu Bệ hạ, có mấy người dân ở Thuận Hoá ở Phạm Ngô Cầu sai quân cướp bóc đánh đập nên mới đi đường biển trốn đến Quy Nhơn vào nhà hạ thần tá túc. Hạ thần không dám tự tiện nên vội đến tâu cùng Bệ hạ được rõ.

Vua Thái Đức hỏi:

– Những người dân ấy hiện ở đâu.

Chỉnh đáp:

– Thưa, đang đứng đợi bên ngoài.

Vua Thái Đức liền bảo quân:

– Hãy mau gọi họ vào đây cho ta dạy việc.

Bọn Nguyễn Viết Tuyển vào đến, vua ôn tồn hỏi:

– Các ngươi là dân xứ nào. Vì sao phải lưu lạc đến đây?

Nguyễn Viết Tuyển vờ khóc to rồi đáp:

– Tâu Bệ hạ, thần dân là người ở Phú Xuân Thuận Hoá bị Phạm Ngô Cầu đặt sưu cao thuế nặng không đủ tiền nộp thuế, nên bị quan quân nhà Trịnh đánh đập dã man chẳng thể nào sống nổi. Nghe vua là người đức lớn nên liều mình bỏ trốn vào theo nương nhờ ơn mưa móc.

Nói xong bọn Tuyển cùng khóc rống lên rất là thảm thiết. Vua cảm động bước xuống ngai tự tay đỡ bọn Tuyển đứng lên. Thấy quần áo bọn Tuyển rách tả tơi, vua thương hại nói:

– Năm xưa ta vì thương dân nghèo bị quan quân nhà Nguyễn bóc lột thậm khổ nên mới khởi nghĩa đất Tây Sơn. Nay các ngươi bất luận ở đâu đó đói khổ mà bỏ quê quán đến đây thì là con dân trong nước của ta.

Nói rồi liền bảo quân mang quần áo mới vào cho bọn Tuyển thay. Bọn Tuyển vừa cởi áo ra, nhìn thấy lưng người nào cũng hằn đầy vết roi ứa máu, vua liền chộp lấy nghiên mực trên bạn quăng xuống đất vỡ tan. Nguyễn Hữu Chỉnh cùng bọn Tuyển thấy đều thất kinh hồn vía. Vua giận dữ quát lớn:

– Thằng giặc Phạm Ngô Cầu thật là tàn ác. Năm xưa nó vì ham quyền tước mà nghe lời Trịnh Sâm giết chết Thái tử, nhờ vậy được Trịnh Sâm phòng tước Tạo quận công, cất nhắc làm đại tướng trấn thủ đất Thuận Hoá. Nay lại vì ham lợi mà hà hiếp bóc lột đàn áp lương dân. Nếu ta không đem quân vượt Hải Vân quan bắt Phạm Ngô Cầu về đây trị tội bán vua hại dân thì ta đâu phải là vừa trời Thái Đức.

Nghe vua nói xong, Nguyễn Hữu Chỉnh và bọn Tuyển đổi sợ làm vui, khắp khởi mừng thăm. Vua lại bảo quân:

– Hay truyền lệnh ta, ngày mai với bá quan văn võ lập tức thiệt triều.

Hôm sau thiết triều, đông đủ các quan văn võ, vua Thái Đức nói:

– Nay tướng của họ Trịnh là Phạm Ngô Cầu trấn thủ đất Thuận Hoá tham lam tàn ác hà khắc lương dân. Ta những muốn đem quân đuổi quân Trịnh ở khỏi sông Linh Giang. Trước là cứu muôn dân Thuận Hoá, sau là lấy lại đất đai của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Nhưng quân Trịnh ở thành Phú Xuân còn hai vạn tinh binh lại chiếm lấy đèo Hải Vân hiểm trở các khanh ai có kế gì lấy đất Phú Xuân, Thuận Hoá mà ít phải hy sinh binh sĩ hay chăng?

Nguyễn Hữu Chỉnh bước ra thưa:

– Đèo Hải Vân hiểm trở, ai chiếm đóng đèo này một có thể địch được trăm. Vậy ta đánh bằng quân bộ e rằng bắt lợi. Theo hạ thần ta nên đem thuỷ binh vượt bể vào cửa Tư Hiền (cửa Thuận An ngày nay) đánh lấy thành Phú Xuân. Thành Phú Xuân mất ắt quân trấn thủ ở Hải Vân quân tấn thôi lưỡng nan tất phải đầu hàng.

Chỉnh vừa dứt lời, Nguyễn Huệ bước ra nói:

– Mục đích của Hoàng huynh tôi là đánh như thế nào để chiếm được thành mà ít phải tổn hao binh sĩ. Tuy rằng Phạm Ngô Cầu là kẻ bất tài nhu nhược nhưng phó tướng Hoàng Đình Thế là một tay kiệt hiệt từng theo Hoàng Ngũ Phúc xông phá trăm trận ắt thành Phú Xuân được phỏng thủ kỹ lưỡng. Sách lược của ông Chỉnh chắc chắn là thắng nhưng nhất định tổn thất không phải nhỏ.

Vua Thái Đức hỏi:

– Vậy theo em phải đánh thế nào?

Huệ đáp:

– Ngày trước quan Ngự sử Nguyễn Thung tiên sinh đi sứ ra Thăng Long xin Trịnh Sâm cho Hoàng huynh làm đại chức Trấn thủ đất Quảng Nam. Nguyễn tiên sinh có biết việc Phạm Ngô Cầu vì sợ hồn Thái tử Duy Vỹ theo báo oán nên Cầu mới bày kế cho Nguyễn tiên sinh mách cùng Trịnh Sâm cho Cầu vào trấn đất Thuận Hoá, đồng thời với Bùi Thế Đạt và Lê Quý Đôn lúc ấy đang trấn thủ Thuận Hoá về Thăng Long, hầu hạ cánh Trịnh Sâm để nhờ tướng quý của hai người này đuổi hồn ma Thái tử, cho Ngô Cầu vào Thuận Hoá. Vậy nay ta cho một người ra Phú Xuân nói với Ngô Cầu như vậy… như vậy… ắt Phạm Ngô Cầu sẽ làm theo mà lơ đễnh việc canh phòng. Sau đó ta bất ngờ tiến đánh, tin chắc quân Trịnh ở Phú Xuân sẽ trở tay không kịp thì tổn thất của ta chẳng đáng kể gì.

Vua Thái Đức khen:

– Hay lắm. Em thật là đa mưu túc trí. Sang sứ Phạm Ngô Cầu, ai có thể làm được việc này.

Nguyễn Thung bước ra thưa:

– Ngày trước ra Thăng Long thần có biết rõ Phạm Ngô Cầu là người hay tin vào những điều huyễn hoặc nhưng lại không nghĩ ra kế này. Long Nhương tướng quân quả nhiên chước quỷ mưu thần. Việc sang sứ Phạm Ngô Cầu thần xin tiến cử một người.

Vua Thái Đức hỏi:

– Người ấy là ai?

Thung đáp:

– Người này tên là Triệu Đình Tiệp, rất giỏi tử vi tướng số, tinh thông dịch lý. Nay ta nhờ người nay sang gạt Phạm Ngô Cầu mới không sợ có điều sơ sảy. Triệu Đình Tiệp cùng với thần là chỗ thâm giao, thần xin vì Bệ hạ đi vời Tiệp một phen!

Vua cả mừng bảo:

– Ấy là trời đã giúp ta ra tay cứu bá tánh ở đất Thuận Hoá vậy. Phiền quan Ngự sử hãy đi ngay cho.

Nói xong vua truyền bãi triều.

Ra ngoài Nguyễn Huệ nạt Nguyễn Hữu Chỉnh rằng:

– Cống Chỉnh to gan khi quân phạm thượng. Ông dám bày khổ nhục kế gạt Hoàng huynh ta xuất binh Bắc phạt mà không sợ mất đầu ư?

Chỉnh thất kinh nói nhỏ với Huệ rằng:

– Ai mách với tướng quân như thế. Những người ấy đều là dân ở Thuận Hoá bị Phẩm Ngô Cầu đàn áp trốn vào đây mà thôi.

Huệ nghiêm mặt bảo:

– Ông xem tôi là con nít hay sao. Để tôi vào thưa cùng Hoàng huynh đem những người dân ấy ra tra hỏi xem hư thực thế nào?

Nói xong Huệ quay lưng toan đi. Nguyễn Hữu Chỉnh thất kinh níu áo Huệ lại van xin:

– Ôi! Nếu tướng quân đã biết tới cũng không đã giấu. Chẳng qua vì tôi nóng lòng báo thù cho chúa, trị tội bọn kiêu binh ở Bắc Hà, nên bất đắc dĩ mới dùng kế ấy. Vả chăng tướng quân cũng đã bảo tôi tìm cách c khuyên vua xuất quân Bắc tiến sao, bây giờ lại toan hại tôi như thế?

Bảy giá Huệ mới cười rằng:

– Nào tôi cố ý hại ông. Chẳng qua tôi muốn biết ai bày kế hay cho ông nên mới nói thế mà thôi.

Chỉnh vô tình đáp:

– Chẳng ai bày kế cho tôi cả. Bởi hôm ấy đi xe quân tập bài Hùng Kê Quyền, tướng quân có nói câu: “Không lên rừng xem gà rừng đá nhau được thì bắt chúng về nhà đá cho ta xem”, nên tôi mới nghĩ ra được kế này.

Nguyễn Huệ khen Hữu Chỉnh:

– Ông không hổ danh là nhân tài đất Bắc vậy.

Nguyễn Hữu Chỉnh cáo từ ra về. Nguyễn Huệ bấm bụng cười mỉm.

***

Nói về đại tướng trấn thủ Thuận Hoá là Tạo quận công Phạm Ngô Cầu, ngày ấy ở tư dinh trong thành Phú Xuân nghe quân hầu vào báo:

– Thưa tướng quân, tiện nhân nghe quân đồn đại ở ngoài phố có một người coi tử vi rất giỏi, thiên hạ rủ nhau đi xem rất đông. Sao tướng quân không xem một quẻ thử hậu vận thế nào.

Ngô Cầu vốn rất ưa thích việc bói toán, nghe tên hầu nói thế liền cái trang thành thường dân đến gặp người thầy bói hỏi:

– Nghe nói thấy xem tử vi đoán biết việc quá khứ vị lai. Vậy tử vi là thế nào?

Thầy bói nhìn Ngô Cầu rồi đáp:

– Xem tử vi là theo năm, tháng, ngày, giờ sinh mà an các sao vào mười hai cung là Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quân, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Thê, Huynh gọi là lá số. Rồi theo lá số ấy mà đoán thì có thể biết vận mệnh, sinh tử, tiền tài, danh vọng, nhà cửa, bạn bè, tai nạn, vợ con của người ấy trong suốt cuộc đời sẽ như thế nào.

Ngô Cầu hỏi:

– Nhưng tôi không biết được ngày giờ sinh của mình thì làm thế nào?

Thầy bói đáp:

– Hễ thiếu một trong bọn yếu tố của ngày, giờ tháng, năm sinh thì không thể xem được tử vi. Nhưng chẳng hề gì, tôi có thể xem tướng cho ngài cũng được.

Ngô Cầu mừng rỡ hỏi:

– Vậy thầy hãy xem thử tôi là người thế nào?

Người thầy bói ngắm thấy diện mạo Phạm Ngô Cầu, mắt ốc bươu, mũi lõ, miệng rộng đến tận mang tai, răng hô, tai to và nhăn như tai heo. Thầy bói nghĩ thầm rằng: Ta đang đình tìm cách vào dinh Phạm Ngô Cầu thi hành độc kế chẳng lẽ hắn lại tìm đến đây? Nghĩ xong liền nói:

– Tướng của ngài không là đại tướng thì cũng là công hầu!

Ngô Cầu kinh ngạc bảo:

– Lời đồn quả thật không sai. Ta là trấn thủ đất Thuận Hoá, chức đại tướng, tước quận công. Thầy đoán hai điều đều đúng cả hai vậy.

Nói xong liền mời thấy tướng vào dinh phủ. Đến nơi, Cầu hỏi:

– Dám hỏi thầy dựa vào đâu mà đoán chính xác thế?

Thầy tướng đáp:

– Diện mạo tướng quân thì mắt lộ, mũi to, răng hô, miệng rộng, tai vênh ấy là tướng ngũ lộ. Người có tướng này nhất định danh vọng thênh thang, phú quý tột bực. Việc này rất dễ coi bí quyết của khoa toán số hoặc tử vi là nơi đúng về hậu vận mới hay.

Cầu liền hỏi:

– Vậy thầy hãy đoán xem hậu vận của ta thế nào?

Thầy tướng đáp:

– Tướng quân đang có nạn. Nếu qua khỏi nạn này ắt là đường hoạn lộ không ai bì kịp!

Cầu giật mình hỏi:

– Thấy bảo ta có nạn, ấy là nạn gì?

Thầy tướng đáp:

– Nhãn quang của tướng quân bất định, thần sắc lại nhợt nhạt. Nếu tôi đoán không lầm ắt là có âm hồn theo báo oán.

Phạm Ngô Cầu kinh hãi hỏi ngay:

– Lời thầy nói quả không sai. Ngày trước ta có giết lầm một người, nay chắc là oan hồn người đó theo báo oán ta chăng? Vậy thầy có cách gì xua đuổi hồn oan ấy được không?

– Ngươi này chết oan rất là thảm thiết nên trong lòng uất hận thành ra oan hồn rất dữ. Nếu muốn đuổi được đi phải lựa nơi ngoài thành đất bằng rộng rãi đủ chỗ cho một ngàn người đứng. Rồi đắp đàn cho cao triệu thầy pháp cao tay lên đàn cầu đảo. Trong khi cầu đảo một ngàn quân phải đeo tang, hàng ngũ chỉnh tề đứng như pho tượng không được cử động. Từ sáng đến chiều thì thay quân khác cho quân cũ ra ở uống nghỉ ngơi cho đến sáng lại đến lượt mình. Sau bảy ngày bảy đêm như thế thì chắc chắn đuổi được hồn oan giải nạn cho tướng quân.

Phạm Ngô Cầu vẫn còn lo âu nói:

– Ta sẽ làm ý theo lời chỉ dạy của thấy. May ra có thể đuổi được âm hồn theo báo oán.

Bình luận