Buổi tiệc chiêu đãi ở công viên mà Zack thầm mong sẽ diễn ra đơn giản hóa ra lại thành một sự kiện lễ hội hoang phí với đèn sáng nhấp nháy trên những táng cây và những bàn ăn phủ vải kêu cọt kẹt bên dưới những khay thức ăn được chuẩn bị kĩ lưỡng với chất lượng tương đương với đội ngũ những nhân viên cung cấp thực phẩm của Zack.
Sánh vai với Matt Farrell, anh quan sát Patrick Swayze cắt ngang Harrison Ford, lúc này Ford đang nhảy với Julie, và anh cười thầm khi nhớ lại gương mặt sửng sốt của Julie lúc anh giới thiệu cho cô một hàng quan khách gồm toàn những diễn viên cô yêu thích. Tuy nhiên sau vẻ ngỡ ngàng ban đầu, cô khôi phục tinh thần lại ngay và bắt đầu tiếp khách với vẻ lịch thiệp làm Zack phải cảm thấy tự hào.
“Đám cưới tuyệt vời, Zack” Warren Beatty nói, nắm tay vợ và gắp lấy một đĩa đồ nguội cho vào một đĩa khác “Thức ăn ngon lắm. Nhân tiện món này làm từ gì ấy nhỉ?” .
Zack nhìn vào đĩa “Sườn nướng’ anh khô khan “kiểu Texas”.
Khi họ quay đi, Zack liếc nhìn đồng hồ, ròi anh quay sang tìm Julie và thấy cô lại nhảy với Swayze nữa, cô cười với hết thảy mọi chuyện anh ta nói.
“Cô ấy bị bọn họ bắt giữ mất rồi” Matt toét miệng cười ủng hộ.
“Đặc biệt là Swayze” Zack quan sát, chú tâm đến khả năng khiêu vũ của cô thay vì để ý xem Swayze đứng sát cô bao nhiêu.
Vài phút sau Matt thúc khuỷu tay vào anh và gật đầu về phía Meredith .
“Nhìn xem tôi phải chịu đựng cái gì – điệu nhảy thứ 3 của Costner với cô ấy. Meredith,” anh nói thêm “là người hâm mộ anh ta”.
“Và ngược lại, trông có vẻ thế. May thay là Swayze và Costner đều đã kết hôn” Zack mỉm cười uể oải. Đặt ly sâm panh xuống cái bàn kế bên, anh nói.
“Tôi nghĩ thế là đủ cho điệu nhảy cuối và rồi mãn tiệc”.
“Gấp rút đi hưởng tuần trăng mật hả?”
“Anh sẽ không tin tôi gấp đến mức nào đâu” Zack đùa. Anh bắt tay Matt nhưng anh không cảm ơn vì tình bạn vững bền nhiều năm hoặc những điều đáng quý Matt đã làm cho anh. Lòng biết ơn của anh sâu đậm hơn nhiều, và cả hai người đều hiểu.
Ngừng lại yêu cầu dàn nhạc chơi bài hát theo ý riêng, Zack đi đến giải cứu vợ mình. Cô rời Patrick Swayze với tốc độ tên lửa, đến trong vòng tay Zack và mỉm cười nhìn vào mắt anh .
“Anh đến đúng lúc lắm đó” cô êm ái nói.
“Sẵn sàng đi chưa?” anh hỏi cô khi bản nhạc đã gần xong.
Julie muốn đi đến chết được, để được rời khỏi đây và ở riêng với anh. Cô gật đầu và bắt đầu lui bước, nhưng anh lắc đầu và nói bằng một giọng gấp gáp, đầy ý nghĩa.
“Sau bài hát kế tiếp”.
“Bài gì?” cô âm thầm hỏi, nhưng anh chỉ cười, và khi bài hát Zack yêu cầu bắt đầu vào đoạn nóng bóng, nhịp nhàng.
“Bài này” anh nói đầy ẩn ý tựa như những lời nói có cánh trong bài hát của Feliciano bắt đầu bủa vây bóng đêm.
“Thắp sáng ngọn lửa của anh, Julie” anh khàn khàn ra lệnh, bắt đầu cùng cô di chuyển theo tiếng nhạc.
Julie cảm nhận được bùa phép từ hàng mi trĩu nặng và nụ cười mời mọc của anh chỉ trong vòng vài giây. Quên mất đám đông đang dạt ra hai bên quan sát họ, cô di chuyển lại gần anh hơn, cơ thể cô hòa hợp với những bước nhảy uyển chuyển của anh. Anh trượt tay qua eo cô, giữ cô sát bên “Nhiều hơn”.
Phần kết
Bị bủa vây bởi những bó hoa hồng có cuống đủ mọi màu sắc, Julie ôm ấp đứa con trai mới sinh vào bầu ngực trong phòng bệnh riêng ở Trung tâm y tế Cedars-Sinai, nhưng lần đầu tiên kể từ khi con cô được sinh ra cách đây hai ngày, sự tập trung của cô không chỉ đặt vào đứa bé sơ sinh nhỏ xíu, hoàn hảo được cô và Zack tượng hình.
Cho đến vài phút trước, một số y tá đã tụ tập trong phòng cô để cùng xem lễ trao giải Oscar, nhưng họ bận mang em bé cho những bà mẹ khác, và thế là Julie tự yên ổn một mình. Giải thưởng nam diễn viên chính xuất sắc đã đến rất gần, và cho dù cô khá chắc chắn là Zack sẽ thắng giải, thì cô vẫn không thật sự muốn làm khán giả khi người thắng cuộc được xướng tên.
“Nhìn kìa, Nicky!” cô thì thầm, nghiêng nghiêng đứa bé để cậu có thể thấy màn hình “Đó là cha mẹ đỡ đầu của con, ông bà Farrell. Và cha con đang ở ngay bên cạnh họ, mặc dù máy quay không hướng vào cha lúc này”.
Nicholas Alexander Benedict vừa được dứt sữa cách đây ít phút, ngay lập tức đón lấy tình huống ngoại lệ bị ngắt khỏi bầu sữa mẹ và thế là Julie ổn định lại tư thế và giúp cậu bé tìm đúng thứ cậu cần, rồi cô giành hết sự tập trung vào màn hình tivi.
Bộ phim đầu tiên của Zack sau khi kết hôn không chỉ phá vỡ kỉ lục phòng vé mà Last Interlude còn thu thập toàn bộ đề cử Oscar ở mỗi hạng mục có người tham dự, và tối nay nó đã thắng lớn. Zack đã thắng giải đạo diễn xuất sắc nhất, Sam Hudgins thắng giải quay phim xuất sắc nhất, và những người khác đã tham gia từ hiệu ứng đặc biệt đến âm thanh hậu kì.
Zack đã muốn ở lại đây và xem lễ trao giải với cô, và khi Julie không thể nói anh phải làm thế này hay thế khác cô đã quyết liệt tranh cãi rằng anh nên đến đó vì lợi ích của mọi người tham gia Interlude, bào gồm dàn diễn viên phụ cũng đã đến buổi lễ.
Thực tế mà nói, Julie cảm nhận được đây là buổi tối dành cho anh, và cô cứng rắn quyết định rằng không phải cô hay đứa con hay Chúa có thể can thiệp vào. Sáng nay, bản pho to cuốn sách Zack đồng ý cho cô viết để giúp đỡ chương trình dành cho phụ nữ mù chữ cuối cùng cũng được gửi đến nhà. Mặc dù cô vừa háo hức vừa hồi hộp khi phải đưa nó cho anh xem và hỏi xin ý kiến, cô đã yêu cầu Sally gửi trả lại, rồi bắt cô ta hứa không đưa cho Zack hoặc kể anh nghe nó đã đến.
Đề cử cho giải kịch bản gốc xuất sắc nhất đã được công bố và Julie lo lắng cắn môi, rồi cô khẽ cười khi tên của Peter Listerman được vang lên và anh ta nhanh chóng sải bước lên sân khấu nhận giải cho thành tích của anh trong phim Interlude.
“Nicky, nhìn kìa” cô vui vẻ thì thầm, “Đó là Pete và chú ấy đoạt giải rồi! con phải biết ơn chú ấy” cô trêu “Cảm ơn chú ấy vì con có một cái ghế cao duy nhất trên thế giới trông giống ghế của đạo diễn với tên con phía sau lưng”.
Pete là một trong số những người Julie yêu quý nhất. Một phần vì người đàn ông có vẻ trí thức kia đã làm việc ở nhà cùng Zack khá lâu trong suốt quá trình làm phim nên Julie biết anh khá rõ, và một phần vì anh ta có vẻ đang nảy sinh một kiểu tình yêu – ghét với Debby Sue Cassidy, người đã lặng lẽ đề cập với anh ta và Zack khi một ngày kia hai người cố sửa lại phần kết kịch bản và Debby đã nghĩ ra một cái. Ánh mắt nhạt nhẽo của Pete ngụy trang khéo léo tính khí say mê nghệ thuật điên cuồng, và điều duy nhất đã cứu Debby đáng thương khỏi cơn nóng giận của Pete chính là Zack ngay lập tức thích ý tưởng của cô. Thật sự thích. Anh bắt Pete sửa lại kịch bản với phần đóng góp của Debby, và phân đoạn cao trào mới của Interlude đã giúp nó tạo tiếng vang lớn.
Bài diễn văn thắng giải của Pete diễn ra bình thường cho đến đoạn cuối, khi anh ngẩng lên nhìn vào máy quay và nói thêm.
“… Và tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn đến cô Debby Cassidy vì đã góp phần làm công việc của tôi trở nên vô giá”.
“Pete đáng yêu quá” Julie nức nở và ôm chặt Nicky. Niềm say mê không thể dập tắt của Debby cùng với nỗ lực không mệt mỏi và sự ngưỡng mộ miễn cưỡng của Pete và tình trạng giám hộ bức thiết đã tạo ra kì tích.
Vài phút sau, Julie cảm thấy tim cô đập thình thịch và cơ thể cô trở nên căng thẳng khi Robert Duvall và Meryl Streep bước lên sân khấu và bắt đầu liệt kê đề cử cho giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất.
“Cầu nguyện đi, con yêu” Julie nói. Cô hôn lên bàn tay tí xíu rồi cô bọc lấy nó bằng ngón tay và để ngón trỏ bắt chéo cầu may mắn.
“Và những đề cử là” Robert Duvall nhìn vào máy quay “Kevin Costner trong phim End of the Rainbow”.
“Tom Cruise trong phim The Way Home” Meryl Streep nói.
“Kurt Russell trong phim Shot in the Night” Duvall bổ sung.
“Zachary Benedict trong phim Last Interlude” Streep tiếp lời.
“Jack Nicholson trong phim The Peacemaker” Duvall kết thúc.
Anh duỗi tay đón lấy phong bì và Julie cảm thấy một cảm giác bị châm chích kì lạ không thể lý giải ở sau cổ.
“Và giải Oscar đã thuộc về” anh nhìn xuống tấm thiếp trong phong bì và hô lớn “Zachary Benedict! Phim Last Interlude!”.
Tiếng hoan hô vỡ òa và tăng dần như sấm sét khi một vài khán giả có mặt đã đứng lên chúc mừng, và máy quay hướng vào một người đàn ông cao lớn tóc đen trong bộ vét đang sải bước dọc lối đi đến sân khấu, và Duvall cúi người nói thêm.
“Nhận giải thay cho Zack là Matthew Farrell…”
Và bất thình lình Julie biết được lý do cô có cảm giác gai gai nơi đốt sống cổ.
Ngã người ra gối và cười vô vọng, cô nói mà không cần nhìn ra cửa .
“Anh ở đây phải không?”
“Em đoán hay thế” Giọng Zack trêu tức.
Quay đầu lại và quan sát anh đi vào với áo khoác được choàng cẩu thả ngang vai, và phủ xuống tận ngón tay cái, tượng vàng Oscar cho giải đạo diễn xuất sắc nhất nằm đu đưa trong bàn tay trái của anh.
“Lẽ ra anh nên ở lại nhận giải” Julie nhắc nhở, nhưng cô vươn cánh tay còn trống quàng qua vai anh khi anh ngồi xuống cạnh cô, “Chúc mừng, anh yêu”.
Cẩn thận không đánh thức cậu con trai đang ngủ, Zack hôn môi vợ và rồi sang má .
“Anh đang ở nơi anh muốn ở nhất” anh dịu dàng thì thầm khi rúc vào cổ cô “Nơi duy nhất anh muốn ở lại”.
Cô chà chà ngón tay lên má anh .
“Nicky và em rất tự hào về anh” cô êm ái nói, và Zack cảm thấy những giọt nước mắt xa lạ đang ngấp nghé trên khóe mắt khi anh ngước nhìn gương mặt rạng rỡ của cô và đứa con đang úp mặt vào bầu ngực, nắm tay bé xíu của cậu bé đang ghim chặt một mảnh vải trên váy cô .
“Con buồn ngủ rồi” anh nói, giọng anh khàn khàn “Anh đặt con vào nôi nhé em?”
“Anh có thể thử” Julie nói rồi cẩn thận trao đứa con đang ngủ cho anh.
Sau khi đặt con xuống, Zack tháo giày rồi lăn đùng ra giường và kéo cô lại gần.
“Cảm ơn em vì đứa con” anh thì thầm. Và bởi vì cảm xúc của anh tối nay gần như bộc lộ ra hết một cách nguy hiểm nên anh đảo mắt tìm cái gì đó có thể khiến anh phân tâm. Tia nhìn chăm chú của anh rơi ngay cuốn sách úp mặt trên chiếc bàn cạnh giường, và anh chộp ngay lấy nó .
“Em đang đọc sách gì vậy?”
Không phải một lần trong suốt quá trình viết sách của Julie hoặc trong lúc phát hành cô đã định bàn thảo với anh. Zack là một chuyên gia có yêu cầu công việc rất cao, và cô đã sợ phải lắng nghe những lời phê bình từ anh sẽ làm cô rạn nứt hoặc hoang mang. Thời khắc quyết định đã đến, tuy nhiên, cô hít thở lo âu .
“Đó là cuốn sách của em – một bản phác thảo, còn thơm mùi mực. Sally vừa gửi cho em sáng nay”.
“Tại sao em không kể anh nghe!” anh nói và với tay lấy cuốn sách “Thật là thú vị”.
“Vì đây là ngày trao giải Oscar và em không muốn cuốn sách hay bất kì thứ gì khác làm giảm giá trị của nó, trong 1 phút cũng không”.
Bị cảm động vì sự quan tâm không cần thiết của cô, Zack cầm lấy cuốn sách và lật nó ra trong lúc Julie quan sát với một sự trộn lẫn giữa háo hức và hồi hộp chờ đợi phản ứng đầu tiên của anh về bìa sách.
“Nó thật đẹp” anh quả quyết, để nó mở và nghiên cứu những đóa hồng nở rộ được chạm nổi trên nền giấy nhám với nền hồng có vân cẩm thạch.
“Anh nghĩ gì về tựa đề?”
Anh cười và đọc to “Em đã đặt tên nó là Perfect (hoàn hảo)”.
Cô gật đầu.
“Anh thích nó” anh toét miệng cười “Sao em nghĩ ra tên đó vậy?”
“Đó là phần dễ nhất” cô thì thầm, đưa mắt lên nhìn anh “Đó là câu chuyện của chúng ta, nhưng cuốn sách chỉ toàn viết về anh”.
Nụ cười của Zack biến mất và sự dịu dàng xâm chiếm bên trong anh. Anh kéo cô vào vòng tay, vùi mặt anh vào tóc cô và ôm cô. Cô đã đứng bên cạnh anh khi cả thế giới đóng mác anh là quỷ dữ, cô muốn anh khi anh không có gì để trao lại cô, và dạy anh biết thế nào là tha thứ. Cô mừng rỡ cho thành công của anh, ủng hộ khi anh làm đúng, và kiên trì phản đối khi anh làm sai. Cô tái tạo cuộc sống của anh và lấp đầy cuộc sống đó bằng mục tiêu, ý nghĩa, tiếng cười và tình yêu. Và giờ cô cho anh một đứa con trai.
Anh vẫn nhớ từng câu trong bài thơ Debby Sue Cassidy đã viết cho cô.
Tôi đã từng xấu hổ
Và nay tôi tự hào
Thế giới từng là bóng tối
Và giờ nó rạng rỡ
Tôi từng cúi đầu mà đi
Và giờ tôi hiên ngang đứng thẳng Tôi từng có những giấc mơ
Nhưng giờ tôi có hy vọng
Cảm ơn Julie
“Đừng khóc, anh yêu” Julie thì thầm, kinh ngạc nhận ra sự ẩm ướt từ bên má rắn rỏi đang ấn vào cô. Vòng tay ra sau gáy anh để ôm anh chặt hơn, cô run rẩy chọc ghẹo “Anh chưa đọc cuốn sách em viết kia mà. Có khi em viết hay hơn anh nghĩ thì sao”.
Giữa khoảnh khắc sâu lắng xúc động nhất trong đời anh, Zack cười phá lên.