Quả thực lão Khilon muốn trừ khử ông Glaukox người mặc dù đã cao tuổi song hoàn toàn không phải là một gông già cạn kiệt sức lực. Hồi trước lão quen biết ông cụ, phản bội ông và bán ông cho bọn cướp phá tan gia đình ông, cướp sạch tài sản của ông và đẩy ông vào chỗ chết. Tuy nhiên lão chịu đựng ký ức về những sự kiện ấy rất nhẹ nhàng, vì lão bỏ ông cụ đang hấp hối lại một mình không phải trong quán trọ mà giữa cành đồng gần Minturnae, song lão chỉ không lường trước nổi chuyện duy nhất là ông Glaukox có thể chữa lành các vết thương và đến được Roma. Vậy nên khi vừa trông thấy ông trong nhà nguyện, lão đã hoảng hồn thật sự và thoạt tiên lão muốn từ bỏ việc tìm kiếm Ligia. Nhưng mặt khác, Vinixius còn khiến lão hoảng hồn hơn. Lão hiểu rằng cần phải lựa chọn giữa nỗi sợ hãi ông Glaukox và sự săn đuổi cùng sự trả thù của một vị quý tộc hùng mạnh, người mà chắc chắn sẽ được giúp sức của một người thứ hai còn hùng mạnh hơn – ông Petronius. Vì thế lão Khilon khôn còn do dự nữa. Lão nghĩ rằng có kẻ thù nhỏ bé dù sao vẫn tốt hơn là có kẻ thù lớn và mặc dù bản chất hèn nhát của lão run rẩy chút ít trước những biện pháp gây đổ máu, song lão cho rằng việc giết ông Glauxkox nhờ tay kẻ khác là chuyện cần thiết phải làm.
Bây giờ lão chỉ còn lo đến việc chọn người và trong trong việc đó lão đã nẩy ra cái ý hay ho mà lão vừa hé ra với Vinixius. Thường ngủ qua đêm trong các tửu quán giữa những kẻ vô gia cư, vô tín ngưỡng và tôn giáo, lão dễ dàng tìm ra những kẻ sẵn sàng nhận làm bất cứ việc gì, song lại dễ gặp hơn những kẻ mà một khi đã đánh hơi thấy lão có tiền chúng sẽ khử ngay lão, hoặc sau khi đã cầm tiền ứng của lão, chúng sẽ bắt lão phải nộp toàn bộ số tiền bằng cách dọa sẽ nộp lão cho bọn vigin. Thật ra, từ một lúc nào đấy, lão Khilon cũng thấy kinh tởm bọn người vô lại, kinh tởm những hình hài tục tằn và khủng khiếp chui rúc trong những ngôi nhà đáng ngờ ở khu Xubur hoặc khu Zatybre. Đánh giá mọi người bằng thước đo của mình, không cần đi sâu lắm vào những tín đồ Thiên Chúa cùng học thuyết của họ, lão cũng vẫn nghĩ rằng lão sẽ tìm ra phương cách thích hợp trong số những tín đồ ấy, rằng họ có vẻ đáng tin hơn những người khác, lão quyết định đến với họ và trình bày câu chuyện sao cho người ta sẽ thực hiện nó không vì tiền mà vì lòng mộ đạo.
Để nhằm mục đích ấy, chiều tối lão tìm tới nhà ông cụ Euryxius, người mà lão biết rằng sẽ tận tụy với lão bằng cả tấm lòng và sẽ làm mọi chuyện hầu có thể giúp ích được cho lão. Tuy nhiên, vốn thận trọng, lão không định bụng sẽ nói cho ông biết những ý đồ thực sự của mình – những ý đồ chắc chắn sẽ mâu thuẫn với đức của ông già, phẩm hạnh và lòng kính Chúa của ông. Lão chỉ muốn tìm được những người sẵn sàng thực hiện mọi việc và khi ấy, lão mới trình bày sự việc sao cho họ sẽ phải giữ kín chuyện ấy trong vòng bí mật vĩnh viễn vì e sợ cho chính bản thân mình.
Sau khi đã chuộc được con trai ra, ông già Euryxius thuê một trong những quầy hàng nhỏ đầy rẫy gần đại hý trường để bán quả ô liu, dậu, bánh tẩm bột cứng và nước pha mật ong cho những người đến xem các cuộc đua. Khilon gặp ông lão đang ở nhà dọn dẹp quầy hàng và sau khi chào hỏi nhau nhân danh đấng Crixtux, lão bắt đầu nói về việc đã đưa lão tới đây. Giúp tiền cho ông cụ, lão đã tính rằng người ta sẽ đền bù cho lão bằng lòng biết ơn. Hiện nay lão cần có hai ba người khỏe mạnh và can đảm để gạt bỏ một mối hiểm họa đang đe dọa không những chỉ bản thân lão mà toàn thể những người Thiên Chúa giáo. Lão nghèo thật vì tất thẩy những gì lão có thể đều đã đưa cho ông Euryxius, tuy nhiên lão sẽ trả công cho những người nọ, với điều kiện họ phải tin tưởng lão và thực hiện trung thành tất cả những gì lão ra lệnh.
Ông lão Euryxius và cậu con trai là Quatux lắng nghe vị mạnh thường quân của họ với tư thế gần quỳ sụp xuống. Cả hai đều nói rằng họ sẵn sàng làm tất cả những gì mà lão yêu cầu vì tin rằng một người thánh thiện như lão không thể có hành động trái ngược với giáo thuyết của đấng Crixtux.
Khilon cam đoan với họ là đúng như thế, rồi ngước mắt nhìn lên trời giả vờ cầu nguyện, lão suy nghĩ xem có nên nhận sự hy sinh thành tâm của họ hay không, cái đó có thể tiết kiệm cho lão một nghìn xeclexi. Tuy nhiên, sau một lúc cân nhắc, lão bỏ ý định này. Ông Euryxius đã già, có thể cái chính không phải tuổi tác mà âu lo và bệnh hoạn đã làm cho ông cụ héo hắt đi, Quatux thì mới mười sáu tuổi, mà Khilon lại cần những người khéo léo và trước nhất phải khỏe mạnh.
Còn về chuyện một nghìn xeclecxi thì lão tính trước rằng, nhờ cái ý đồ hay hớm mà lão đã nghĩ ra, trong bất cứ trường hợp nào lão cũng vẫn có thể tiết kiệm được phần lớn số tiền đó.
Hai bố con nài nỉ thêm một lúc nữa, nhưng khi lão từ chối một cách cương quyết họ cũng đành thôi, Quatux bèn nói:
– Con biết ông thợ nướng bánh Đemax, thưa ngài, ở chỗ ông ta có nhiều nô lệ và những người làm thuê. Một trong những người làm thuê ấy khỏe đến nỗi có thể địch nổi không chỉ hai mà cả bốn người, chính mắt con đã trông thấy bác ta nhấc bổng một tảng đá mà trước đó cả bốn người không nhích nổi khỏi chỗ.
– Nếu đó là một người kính Chúa và dám xả thân vì an hem thì hãy cho ta được làm quen với y – Khilon nói.
– Bác ấy là tín đồ Thiên Chúa, thưa ngài – Quatux đáp – Vì ở chỗ ông Đemax phần lớn là những người Thiên Chúa giáo làm việc. Họ gồm có công nhân kíp ngày và kíp đêm, bác ta thuộc về kíp đêm. Nếu ngay bây giờ ta tới đó thì sẽ gặp đúng vào bữa tối của họ và có thể nói chuyện thoải mái với bác ta được. Ông Đemax ở gần Emporium đấy ạ.
Lão Khilon rất hài lòng ưng thuận. Emporium nằm dưới chân đồi Aventyn nghĩa là cách không xa đại hý trường. Có thể không cần phải đi vòng chân đồi mà cứ đi dọc sông, qua Porticus Aemilia thì còn rút ngắn chặng đường hơn nữa.
– Ta già rồi – Khilon bảo khi họ đi vào dưới hàng cột – Thỉnh thoảng đầu óc cứ lú lẫn cả đi! Đấng Crixtux của chúng ta bị phản bội với một người trong số học trò của Người. Nhưng lúc này ta lại không sao nhớ ra tên kẻ phản bội ấy.
– Juđa, thưa ngài, hắn treo cổ tự tử rồi – Quatux đáp, trong bụng nhạc nhiên không hiểu sao có người lại có thể quên cái tên ấy.
– A, phải rồi! Juđa! Cảm ơn con! – Khilon nói.
Họ im lặng đi một hồi lâu. Đến Empirium, nơi lúc này đã đóng cửa, họ đi vượt qua và vòng quanh những kho thóc trong đó người ta vẫn phát chẩn lương thực cho mọi người, họ vòng sang trái, hướng về phía những ngôi nhà kéo dài dọc theo Via Ostiensis cho tới tận đồi Textaxiux và Forum Pixtorium. Tới đó, họ dừng bước chân trước một ngôi nhà bằng gỗ, từ bên trong vọng ra tiếng ngũ cốc rơi rào rào. Quatux bước vào trong nhà, còn lão Khilon, vốn không thích xuất hiện ở chỗ đông người và luôn luôn sống tronh tình trạng lo sợ một định mệnh nào đó có thể sẽ xui khiến lão chạm trán với thầy thuốc Glaukox, đứng lại bên ngoài.
“Không hiểu cái tay Herkulex đang làm nghề xau bột này – lão nghĩ thầm và ngắm vầng trăng đang chiếu dang – là người như thế nào nhỉ, nếu hắn là một thằng đểu cáng nhưng là kẻ thông minh thì minhd sẽ phải tốn kém ít nhiều đây, nhưng nếu hắn là một tín đồ Thiên Chúa và lại ngốc nghếch thì ắt hẳn sẽ làm không công mọi chuyện mình yêu cầu”.
Dòng suy nghĩ của lão bị đứt đoạn bởi Quatux từ trong nhà bươc sra với một người đàn ông nữa, người này chỉ mặc một chiếc ái tunica được gọi là kiểu exomix, may chéo để hở cả cánh tay và ngực phải. Đám thợ thường dùng kiểu áo này vì nó cho phép cử động hoàn toàn thoải mái. Lão Khilon nhìn người mới tới và thở phào nhẹ nhõm hài hòng, bởi vì trong đời lão chưa bao giờ được trông thấy một cánh tay và một khuôn ngực nào như thế.
– Thưa ngài – Quatux nói – đây chính là người anh hùng mà em muốn ngài gặp.
– Cầu bằng an của những người theo đấng Crixtux hằng ở cùng anh – Lão Khilon cất tiếng – còn con, Quatux, con hãy nói cho anh ta biết liệu anh ta có đáng tin tưởng hay không rồi con hãy quay về, nhân danh Chúa, vì không nên để cho người cha già nua của con phải ở nhà cô độc một mình.
– Đây là một vị thánh thiện – Quatux nói – đã hiến dâng toàn bộ gia sản để chuộc cháu – một kẻ mà người không hề biết mặt – ra khỏi cảnh đời nô lệ. Cầu Đức Chúa, Đấng Cứu Thế của chúng ta, sửa soạn cho người một phần thưởng trên thiên đàng.
Nghe thấy thế, người thợ khổng lồ cúi xuống hôn tay lão Khilon.
– Người an hem của tôi tên gì nhỉ? – Lão Hi Lạp hỏi.
– Thưa cha, lúc rửa tội, người ta đặt tên cho tôi là Urban.
– Vậy thì Urban, người an hem của tôi này, anh có chút ít thì giờ để chúng ta có thể chuyện trò thoải mái hay chăng?
– Công việc của hcungs tôi mãi nửa đêm mới bắt đầu, lúc này nguồi ta mới đang chuẩn bị bữa tối thôi ạ.
– Thế có nghĩa là khá đủ thời gian – vậy ta hãy ra bờ sông, ở đó anh sẽ nghe những lời tôi nói.
Họ đi và ngồi xuống bờ sông lát đá trong sự tĩnh mịch chỉ bị khuấy động bởi tiếng những hạt ngũ cốc rơi rào rào và tiếng những làn sóng vỗ ồ ạt phía dưới sông. Lão Khilon nhìn thẳng vào mặt người thợ, một khuôn mặt mặc dù mang những nét u buồn và hơi dữ tợn tựa như mặt của những kẻ dã man sinh sống ở Roma nhưng lão vẫn thấy có vẻ chân thành và tốt bụng.
“Chính phải! – Lão nhủ thầm trong dạ – Đây là một người tốt bụng và ngu ngốc, kẻ sẽ giết lão Glaukox không công!”
Rồi lão hỏi:
– Urban này, anh có yêu kính Đức Chúa Crixtux không?
– Tôi kính yêu Người với tất cả tấm lòng, với cả trái tim – người thợ đáp.
– Thế còn những người anh em của mình? Còn những người chị em và những người đã dạy anh chân lý và lòng tin vào Đấng Crixtux?
– Tôi cũng mến họ, thưa cha.
– Vậy thì cầu cho anh được bằng an!
– Và cả người cũng thế, thưa cha!
Lại im lặng – chỉ x axa có tiếng những hạt ngũ cốc rào rào và bên dưới kia rì rào dòng sông.
Khilon nhìn vầng trăng sáng và bằng một giọng chậm rãi, thẻ thọt, lão bắt đầu kể về cái chết của Đấng Crixtux. Dường như lão không nói cho Urban nghe mà gợi lại cho chính mình cái chết kia, hoặc như lão đang thổ lộ với cả thành phố đang ngủ điều bí ẩn của cái chết nọ vậy. Có cái gì đó thật cảm động và long trọng. Người thợ khóc và khi Khilon bắt đầu nức nở và đau đớn rằng vào giây phút lâm chung của Đấng Cứu Thế không có lấy một ai, không có lấy một kẻ nào bảo vệ Người – nếu không tránh khỏi bị đóng đanh câu rút thì ít nhất cũng tránh khỏi bị lũ lính tráng và bọn Do Thái nhục mạ, thì những nắm tay của người đàn ông dữ tợn nọ siết chặt lại trong nỗi tiếc hận và lòng cuồng nộ sôi sục bị nén chặt. Cái chết khiến bác xúc động tâm can, nghĩ tới bọn người đã nhục mạ. Con chiên bị đóng đanh trên thập tự, tâm hồn chất phác trong bác sôi sục cả lên avf bác bị cuốn lôi vào một ước muốn trả thù hoang dã.
Bỗng lão Khilon hỏi đột ngột:
– Urban này, anh có biết Juđa là kẻ nào chứ?
– Biết, biết chứ. Nhưng nó đã tự treo cổ mất rồi còn đâu! – Người thợ kêu lên.
Trong tiếng kêu của bác dường như có nỗi nuối tiếc rằng tên phản bội đã tự trừng phạt mình và không thể rơi vào tay bác nữa.
Lão Khilon nói tiếp:
– Song nếu như hắn không treo cổ, nếu như một người tín đồ Thiên Chúa bắt gặp hắn trên đất liền hay trên mặt biển, thì liệu anh ta có nên trả thù hắn về những cực hình, về dòng máu và cái chết của Đấng Cứu Thế chăng?
– Thưa cha, có ai lại không trả thù này.
– Bằng an được cùng anh, hởi kẻ tôi đòi của Chúa. Phải! Có thể bỏ qua những điều nhục mạ đối với bản thân, nhưng ai có quyền bỏ qua những điều xúc phạm tới Đức Chúa? Nếu rắn sinh ra rắn, sự dữ sản sinh sự dữ và sự phản bội đẻ ra sự phản bội, thì tù cái nọc độc của Juđa lại sinh ra một tên phản bội thứ hai, nếu tên kia bán đứng Đấng Cứu Thế thì tên này hiện đang sống giữa chúng ta lại muốn bán những con chiên của Người cho lũ sói và nếu như không ai ngăn chặn trước sự phản bội, nếu như không ai đập nát đầu con rắn độc đúng lúc, thì cái chết đang đón đợi tất thảy chúng ta và mất đi vùng với chúng ta là cả lòng kính con chiên nữa.
Người thợ nhìn lão vẻ vô cùng lo lắng, dường như không thật hiểu rõ những điều bác vừa nghe thấy. Còn lão Hi Lạp thì lấy một góc áo khoác che đầu bắt đầu lặp đi lặp lại với giọng nói nhu vọng lên từ dưới đất:
– Thương thay cho an hem, những tôi con của Đức Chúa chân chính, thương thay cho an hem, hỡi các nam nữ tín đồ Thiên Chúa giáo!
Im lặng lại bao trùm, lại chỉ còn nghe thấy tiếng rào rào của hạt ngũ cốc, tiếng hát âm ấm của những người thợ xay và tiếng xôn xao của dòng sông.
– Thưa cha – mãi sau người thợ mới hỏi – đứa phản bội là ai vậy?
Lão Khilon cúi đầu. Thằng phản bội là ai ư? Hắn là con trai của Juđa, là con đẻ của thứ nọc độc của y, hắn giả danh là người Thiên Chúa và lui tới các nhà nguyện chỉ để tố giác những người anh em trước hoàng đế, rằng họ không thừa nhận hoàng đế là thần, rằng họ đánh thuốc độc các vòi nước phun, giết chóc trẻ con và rằng họ muốn triệt phát cái thành phố này sao cho không một hòn đá nào còn nguyên vẹn nữa. Chỉ vài ngày nữa thôi người ta sẽ ra lệnh cho bọn cấm vệ bắt hết các cụ già, đàn bà và trẻ con mang đi giết, như đã hành hình những người nô lệ của viên quan Peđanius Xekunđa vậy. Và tất thấy những chuyện đó là do chính tên Juđa thứ hai kia gât nên. Nếu như tên Juđa thứ nhất không bị ai trừng phạt, nếu như hắn không bị ai trả thù, nếu như không một ai bảo vệ Đấng Crixtux trong giờ lâm nạn cực hình, thì liệu ai chăng sẽ trừng trị tên Juđa, thứ hai, có ai chăng sẽ đánh giập đầu con rắn độc trước khi hoàng đế nghe lời hắn, có ai chăng sẽ trừ khử hắn, có ai chăng sẽ bảo vêh những người an hem, bảo vệ lòng tin vào Đấng Crixtux tránh khỏi bị diệt vong?
Urban từ nãy giờ vẫn ngồi yên lặng trên bờ đá chắn đột ngộ đứng bật dậy nói:
– Tôi sẽ làm việc đó thưa cha.
Lão Khilon cũng đứng dậy, lão nhìn mặt người thợ giây lâu, nét mặt được ánh trăng chiếu sáng, rồi khoan thai đưa cánh tay đặt nhẹ lên đầu bác.
– Con hãy đi vào những người Thiên Chúa giáo – lão nói một cách trang trọng – và hỏi những người an hem về gã thầy thuốc Glaukox. Khi người ta trỏ gã cho con, thì nhân danh Đấng Crixtux, con hãy giết gã đi…
– Glaukox à? – Người thợ nhắc lại dường như muốn khắc ghi vào tâm khảm cái tên ấy.
– Con biết y hay sao?
– Không, tôi không quen. Có tới hàng nghìn tín đồ Thiên Chúa ở Roma và không phải ai cũng biết hết nhau. Nhưng đêm mai anh chị em đồng đạo sẽ họp mặt nhau ở Oxtrianum, tất thảy mọi người, bởi vì vị sứ đồ của Đấng Crixtux đã đến, Người sẽ thuyết giáo tại đó và ở đó an hem sẽ chỉ mặt gã Glaukox cho tôi.
– Ở Oxtrianum ư? – Lão Khilon hỏi lại – Có nghĩa là bên ngoài các cổng thành? Tất thảy anh chị em đồng đạo? Ban đêm à? Ở Oxtrianum, ngoài cổng thành à?
– Vâng thưa cha. Đó là cái nghĩa địa của chúng ta nằm giữa Via Xataria và Via Nomentama. Vậy ra người không biết rằng đức sứ đồ sẽ thuyết giáo tại đó ư?
– Hai hôm nay ta không có nhà nên không nhận được thư của người, ta cũng không biết Oxtrianum ở đầu vì ta mới từ Koryntơ đến đây cách đây chưa bao lâu, lại Koryntơ ta cai quản họ đạo ở đấy…Nhưng phải rồi! Nếu Đấng Crixtux đã gieo vào lòng con niềm phấn hứng mạnh như thế thì con của ta đêm mai hãy đi tới Oxtrianum, tìm bằng được tên Glaukox trong số những người an hem và trừ khử hắn trên đường hắn quay trở về thành phố, điều nay sẽ rửa sạch mọi tội lỗi cho con. Và cầu cho bằng an ở cùng các con!
– Thưa cha…
– Gì thế con, hỡi nô bộc của con chiên.
Trên nét mặt của người thợ hiện rõ vẻ lúng túng. Cách đây chưa lâu bác vừa mới giết một người – mà cũng rất có thể tới hai người – trong khi luân lý của Đấng Crixtux lại cấm việc sát sinh. Thực ra bác không giết họ troçng lúc tự vệ vì ngay cả điều ấy cũng bị nghiêm cấm. Bác cũng không giết họ vì lợi nhuận, lạy Đấng Crixtux che chở…Chính ngài giám mục đã giao cho bác những người an hem để họ giúp đỡ bác, song ngài cũng không cho phép sát sinh, còn bác, bác đã giết người mặc dù không muốn thế. Thượng đế đã bắt bác phải có một sức mạnh hơn người…Giờ đây bác đang ăn năn sám hối một cách nặng nề…Những người khác ca hát trong khi xay bột, còn bác như một kẻ bất hạnh cứ ăn năn hoài về tội lỗi của mình, về việc mình đã xúc phạm tới con chiên…Bác đã cầu nguyện, đã than khóc biết bao lâu nay rồi! Bác đã cầu xin con chiên tha thứ cho bác bao lần rồi! Cho tới nay bác vẫn cảm thấy mình sám hối hãy còn chưa đủ…Ấy vậy mà giờ đây bác lại hứa sẽ đi giết một tên phản bội…Cũng được thôi! Chỉ có những điều xúc phạm tới bản thân thì mới cần phải tha thứ, bác sẽ giết hắn ngày mai ở Oxtrianum, ngay trước mắt tất cả các anh chị em đồng đạo. Nhưng trước hết, tên Glaukox nọ cần phải được xét xử bởi những bậc cao đạo nhất trong số những người an hem bởi đức giám mục hay bởi chính sứ đồ. Giết hắn chỉ là chuyện vặt, thậm chiết giết một kẻ phản bội còn là điều sung sướng như giết một con chó hay một con gấu mà thôi, nhưng nếu như tên Glaukox chết một cách vô tội thì sao? Làm sao bác có thể gánh thêm một tội giết người mới, thêm một tội lỗi mới, một điều xúc phạm mới đối với con chuên trong linh hồn mình?
– Không có thù giờ để lập tòa án, con ạ – Khilon đáp – vì kẻ phản bội sẽ đi thẳng từ Oxtrianum đến Anxium gặp hoàng đế, hoặc sẽ trốn tránh trong nhà một vị quý tộc mà hắn đang phục vụ, nhưng đây, ra cho con cái dấu hiệu này, sau khi giết chết Glaulox con hãy trình đức giám, thì cả đức giám lẫn đại sứ đồ sẽ ban phước cho hành động của con.
Vừa nói thế lão vừa lấy ra một đồng tiền, lục tìm con dao trong thắt lưng, lão dùng lưỡi dao khắc lên đồng xexieccxi một dấu chữ thập, rồi đưa cho người thợ.
– Đây là bản ánh dành cho Glaukox đồng thời cũng là dấu hiệu cho con. Sau khi trừ khử Glaukox, nếu như con trình cái này lên đức giám thì người sẽ xá tội cho con ngay cả vụ giết người mà con đã làm một cách không hề cố ý kia.
Người thợ bất giác chìa tay nhận đồng tiền, nhưng trí óc bác hẳn còn nhớ quá rõ nét vụ giết người đầu tiên kia nên bác chợt cảm thấy sợ hãi.
– Thưa cha – bác nói như giọng van lơn – thế có nghĩa là người sẽ gánh chịu trên lương tâm mình hành động này cà chính người đã nghe tên Glaukox bán đứng anh em chúng ta?
Lão Khilon hiểu rằng cần phải đưa ra một bằng chứng nào đó, nêu ra một cái tên họ nào đó, nếu không trái tim người khổng lồ này sẽ bị nỗi ngờ vực len vào. Bỗng một ý nghĩ hay ho nảy ra trong đầu lão.
– Con hãy nghe đây. Urban – lão bảo – Ta sinh sống tại Koryntơ nhưng xuất thân từ đảo Kox và tại Roma đây ta truyền bá giáo thuyết của Đấng Crixtux cho một người thiếu nữ cùng quê với ra tên là Eunixe. Cô ta là nô tỳ chuyên lo trang phục ở nhà một người bạn của hoàng đế, gã Petronius nào đó. Đó, chính trong ngôi nhà ấy ra đã được nghe lão Glaukox nhận ra việc bán rẻ tất thẩy những người an hem Thiên Chúa giáo, ngoài ra hắn còn hứa với một tên đồng bọn khác của hoàng đế là Vinixius rằng sẽ tìm bằng được cô gái trong đám tín đồ Thiên Chúa…
Nói tới đây lão ngừng lại và ngạc nhiên nhìn người thợ vì mắt bác chợt long lên như mắt thú dữ, mặt bác bỗng đổi thành nét giận dữ và đáng sợ.
– Con là sao thế? – Lão hỏi như sợ hãi.
– Không, thưa cha. Ngày mai con sẽ giết chết Glaukox…
Song lão Hi Lạp im lặng, lát sau lão ôm lấy vai người thợ, quay mặt bác cho ánh trăng chiếu thẳng vào mặt rồi nhìn bác chăm chú. Rõ ràng là trong một tâm khảm lão chần chừ không hiểu nên hỏi tiếp để lôi ra ánh sáng hay tạm thời cứ hẵng tạm bằng lòng với những gì lão đã biết được hoặc đoán ra được.
Cuối cùng cái tính cẩn thận bẩm sinh vẫn thắng.
Lão thở dài một lần, hai lần, rồi đặt lại bàn tay lên đầu người thợ, lão hỏi bằng một giọng trang trọng và nghiêm trang:
– Vậy khi rửa tội con được đặt tên là Urban?
– Vâng thưa cha.
– Cầu cho con bằng an, Urban con!