Song chàng cũng bắt đầu lo ngại rằng, một sự tiếp viện quá sớm từ bên ngoài có thể sẽ phá hỏng niềm vui của chàng. Sau khi chàng biến mất, lão Khilon có thể đã báo cho viên đô trưởng hoặc cho những nô lệ giải phóng ở nhà chàng biết – và khi ấy rất có thể bọn vigin sẽ xộc vào đây. Quả tình cái ý nghĩ: lúc ấy chàng có thể ra lệnh bắt lấy Ligia và giam nàng tại nhà chàng – có thoáng qua đầu chàng, song chàng cảm thấy không nên làm chuyện ấy, và chàng không thể làm nổi. Chàng là một kẻ phóng túng, táo tợn và khá hư hỏng, khi cần thiết chàng có thể là kẻ chẳng ai hòng van xin nổi, song chàng không phải là Tygelin, cũng chẳng phải là Nerô. Cuộc đời quân ngũ vẫn còn lưu lại trong chàng một ý thức nhất định về công lý, lòng tin và chút lương tri đủ để chàng hiểu được, rằng một hành động như thế quả là vô cùng đồi bại. Cũng có thể trong cơn tức giận bất thần và nếu hoàn toàn khoẻ mạnh chàng dám làm việc ấy, nhưng lúc này chàng vừa mẫn cảm lại vừa đau yếu, nên chàng chỉ mong sao đừng có kẻ nào đứng chắn giữa chàng và Ligia.
Chàng cũng ngạc nhiên nhận thấy kể từ khi Ligia đứng về phía chàng thì cả nàng lẫn ông Kryxpux hoàn toàn không đòi hỏi chàng phải hứa hẹn điều gì, dường như họ tin chắc rằng, nếu cần, sẽ có một sức mạnh siêu nhiên nào đó che chở cho họ vậy. Kể từ khi được nghe ở Oxtrianum về cái giáo thuyết nọ cùng lời rao giảng của Đức Sứ đồ, trong đầu óc Vinixius, sự khác biệt giữa những cái có thể và không thể bắt đầu bị đảo lộn và xoá nhoà đi, bởi vậy chàng không xa lạ lắm với ý nghĩ rằng mọi điều ấy rất có thể sẽ diễn ra. Song khi suy nghĩ về mọi việc một cách tỉnh táo hơn, chính chàng nhắc lại cho họ những gì chàng nói về lão Hi Lạp và yêu cầu họ đưa lão Khilon đến cho chàng.
Ông Kryxpux đồng ý và quyết định cử bác Urxux đi, Vinixius, thời gian trước khi đến Oxtrianum vẫn thường phái những nô lệ của mình đến nhà lão Khilon (mặc dù không có kết quả gì), giờ đây chỉ cho người đàn ông Ligi tỉ mỉ chỗ ở của lão, sau đó viết mấy chữ lên tấm bảng, rồi quay sang nói với ông Kryxpux:
– Tôi phải gửi theo tấm bảng này, vì đây là một kẻ đa nghi và khôn ranh. Khi bị tôi gọi tới, lão thường bảo với người của tôi về thưa lại rằng lão không có nhà, những lúc lão sợ tôi tức giận vì không có tin tức gì mới cho tôi.
– Chỉ cần tìm ra hắn ta thôi, tôi sẽ lôi được hắn về đây, dù hắn muốn hay không, – bác Urxux đáp.
Rồi bác cầm tấm áo khoác và vội vã bước ra.
Tìm được một ai trong thành Roma không phải là chuyện dễ, dù được chỉ dẫn rất tỉ mỉ; song bác Urxux được cái linh tính của con người vùng rừng núi giúp đỡ hơn nữa bác rất quen thuộc với thành phố này nên một lúc sau bác đã có mặt trong nhà lão Khilon.
Song bác không nhận ra lão. Trước đây bác mới chỉ gặp lão có mỗi một lần, hơn nữa lại vào ban đêm. Vả chăng cái cụ già tự tin và cao đạo kia, kẻ đã xúi bác giết thầy thuốc Glaukox chẳng giống chút gì với lão già Hi Lạp đang gập đôi người vì sợ hãi này, nên không ai có thể ngờ rằng cả hai chỉ là một người mà thôi. Còn lão Khilon, khi hiểu ra rằng bác Urxux nhìn lão như một người xa lạ, liền định thần lại. Tấm bảng và chữ viết của Vinixius càng khiến lão an tâm hơn nữa. Ít nhất lão cũng không bị ngờ là đã cố tình đưa chàng vào bẫy. Lão nghĩ thầm rằng những người Thiên chúa giáo đã không giết chàng Vinixius rõ ràng là vì họ không dám động thủ trước một con người danh tiếng như chàng.
“Thế thì Vinixius sẽ che chở cho mình khi cần – lão bụng bảo dạ – vì chắc là chàng không đòi mình đến để người ta thịt mình đâu”.
Lấy lại tinh thần chút ít, lão hỏi:
– Hỡi con người tốt bụng, thế ra người bạn tôi, chàng Vinixius tôn quý, không gửi kiệu đến cho tôi sao? Chân tôi sưng vù cả lên, tôi đâu có thể đi xa được.
– Không! – bác Urxux đáp – chúng ta phải đi bộ thôi.
– Thế nếu tôi từ chối thì sao?
– Ông chớ làm việc ấy, bởi ông sẽ phải đi.
– Đi chứ, nhưng là do ý muốn của bản thân tôi. Nếu không thì chẳng một ai có thể bắt tôi đi nổi, tôi là người tự do, và lại là bạn thân của ngài đô trưởng. Là một nhà hiền triết, tôi có nhiều phương sách để chống bạo lực, tôi biết cả cách biến con người thành cây cối và súc vật. Nhưng tôi sẽ đi, sẽ đi! Tôi chỉ mặc thêm cái áo choàng ấm hơn chút xíu, đội cái mũ, để cho đám nô lệ của khu phố này khỏi nhận ra tôi, nếu không người ta sẽ giữ chúng ta lại liên tục để hôn tay tôi đấy.
Vừa nói thế, lão vừa mặc tấm áo khoác khác, đầu chùm một cái mũ chụp kiểu xứ Gan rộng lùng thùng vì sợ bác Urxux nhận diện được lão khi ra chỗ sáng hơn chăng.
– Bác đưa tôi đi đâu thế này? – dọc đường lão hỏi bác Urxux.
– Đến khu Zatybre.
– Tôi mới đến Roma chưa lâu, tôi chưa từng tới đó. Nhưng chắc khu đó toàn những người chuộng đức hạnh sinh sống thôi phải không?
Song bác Urxux lại là một người ngây thơ, bác vừa được nghe Vinixius nói rằng lão Hi Lạp có mặt cùng với chàng trong nghĩa địa Oxtrianum, sau đó lão đã trông thấy chàng cùng Kroton bước vào ngôi nhà mà Ligia đang ở, bác bèn dừng chân mà nói:
– Đừng nói dối, hỡi người già, bởi vì chính ngày hôm nay lão vừa có mặt cùng với ngài Vinixius tại Oxtrianum và trước cửa nhà chúng tôi đấy thôi.
– A! – lão Khilon kêu lên, – thế ra nhà của các bác ở khu vực Zatybre đấy ư? Tôi mới tới Roma nên chưa thật rõ tên những khu phố khác nhau. Phải, ông bạn ạ. Tôi đã dừng trước cổng nhà các bác và đã khuyên chàng Vinixius chớ có bước vào. Tôi cũng đã có mặt tại Oxtrianum, nhưng bác biết để làm gì không? Bởi vì thời gian gần đây tôi đang muốn cải đạo cho Vinixius và tôi muốn chàng được nghe lời rao giảng của người cao tuổi nhất trong các vị Sứ đồ. Cầu sao ánh sáng xuyên thấu tâm hồn của chàng cũng như tâm hồn của bác. Chắc bác cũng là tín đồ Thiên chúa và chắc bác hằng muốn rằng chân lý chiến thắng điều man trá?
– Chính thế! – bác Urxux đáp với vẻ tuân phục.
Lão Khilon đã hoàn toàn lấy lại can đảm.
– Vinixius là một ông chủ giàu có, – lão bảo, – và là bạn của Hoàng đế. Chàng hãy còn quen nghe những tiếng thì thầm của ma quỷ, nhưng dù cho chỉ một sợi tóc của chàng bị rơi xuống, Hoàng đế cũng sẽ trả thù tất cả những người Thiên chúa giáo.
– Đã có một sức mạnh to lớn hơn bảo vệ cho chúng tôi.
– Đúng lắm! Đúng lắm! Nhưng thế các bác định làm gì với chàng Vinixius? – lão Khilon lại lo lắng hỏi
– Không rõ. Đấng Crixtux dạy phải nhân từ.
– Bác dạy đúng tuyệt! Bác cứ nhớ cho như thế nhé, nếu không bác sẽ bị nướng trong hoả ngục như một khúc dồi rán trên chảo đấy.
Bác Urxux thở dài. Lão Khilon nghĩ rằng chắc lúc nào lão cũng có thể sai khiến được con người khủng khiếp khi nổi nóng này.
Muốn biết việc gì đã xảy ra khi bắt cóc Ligia nên lão hỏi tiếp với giọng của một vị quan toà nghiêm khắc:
– Thế các bác đã làm gì với Kroton rồi?hãy nói thật, chớ có bịa đặt!
Bác Urxux lại thở dài lần nữa:
– Ngài Vinixius sẽ nói cho ông biết điều đó.
– Có nghĩa là bác đã đâm anh ta bằng dao hoặc đánh chết anh ta bằng gậy?
– Tôi không hề có khí giới.
Lão già Hi Lạp không ngăn nổi sự kinh ngạc đối với sức khoẻ siêu nhân của con người dã man này.
– Cầu Diêm vương Pluton!… A, đó là tôi muốn nói: cầu Đức Crixtux tha tội cho bác!
Họ đi im lặng một lúc lâu, rồi lão Khilon hỏi:
– Không phải tôi phản bác đâu, nhưng hãy coi chừng bọn vigin đấy.
– Tôi chỉ sợ đấng Crixtux chứ không sợ bọn vigin.
– Đúng lắm! Bác không có tội nào lớn hơn tội giết người. Tôi sẽ cầu nguyện cho bác, nhưng không hiểu những lời cầu nguyện của tôi thậm chí có mang lại điều chi chăng – trừ phi bác thề rằng không bao giờ trong đời bác còn động chạm tới một ai khác nữa.
– Nhưng tôi có cố ý giết ai đâu cơ chứ, – bác Urxux đáp.
Nhưng lão Khilon cứ muốn phòng trước mọi chuyện, nên lão không ngừng lên án hành động giết người của bác Urxux và khuyến khích bác thề thốt. Lão cũng dò hỏi thêm về Vinixius, song người đàn ông Ligi trả lời gióng một những câu hỏi của lão và cứ nhắc đi nhắc lại rằng lão sẽ được nghe chính Vinixius nói những điều lão cần nghe. Cứ trò chuyện như thế, họ đi hết quãng đường xa xôi nằm giữa nhà lão Hi Lạp với khu Zatybre và đến trước cổng nhà. Tim lão Khilon một lần nữa lại đập nhịp lo ngại. Vì sợ hãi, lão thấy như bác Urxux bắt đầu nhìn lão với vẻ hau háu kỳ lạ. “Mình cũng chẳng lấy gì làm vui, – lão nghĩ thầm, – nếu như hắn giết mình một cách bất đắc dĩ, mình muốn sao cho hắn bị bại liệt đi, và cùng với hắn, tất cả bọn dân Ligi nữa; cầu thần Zeux hãy làm giúp; nếu như thần có thể làm nổi chuyện này”. Vừa nghĩ miên man như thế, lão vừa quấn chặt hơn nữa chiếc áo choàng kiểu Gan của lão, mồm lặp đi lặp lại rằng lão sợ lạnh. Cuối cùng, khi đã đi qua hàng hiên cùng cái sân thứ nhất, bước vào hành lang dẫn đến ngôi nhà nhỏ ngoài vườn, lão bỗng đột ngột dừng lại và bảo:
– Hãy cho tôi lấy hơi chút đã, nếu không tôi không thể nào trò chuyện với chàng Vinixius và cung cấp cho chàng những lời khuyên cứu rỗi được đâu.
Nói thế, lão đứng dừng lại – vì dầu cho lão cứ tự nhủ rằng không hề có nỗi nguy hiểm nào đe doạ, song cứ nghĩ tới chuyện phải đứng với những con người đầy bí ẩn mà lão đã trông thấy ở Oxtrianum, là chân lão đã muốn khuỵu xuống rồi.
Lúc đó, từ trong ngôi nhà có tiếng hát vang tới tai lão.
– Cái gì thế? – lão hỏi.
– Ông bảo rằng ông là tín đồ Thiên chúa mà ông không biết rằng chúng tôi thường có thói quen hát ngợi ca Đấng cứu thế của chúng tôi trong mỗi bữa cơm, – bác Urxux đáp, – chắc bà Miriam và con trai bà đã về rồi, có thể cả Đức Sứ đồ cũng về cùng với họ vì hàng ngày Người vẫn thường đến thăm bà quả phụ và cha Kryxpux.
– Bác hãy đưa tôi vào gặp thẳng chàng Vinixius thôi!
– Chàng Vinixius cũng ở trong gian nhà mọi người đang tụ tập, vì chỉ có gian này là lớn hơn cả, còn lại chỉ toàn là phòng ngủ tối tăm, nơi chúng tôi chỉ vào để ngủ. Nào, ta vào thôi, vào đó ông sẽ nghỉ sau.
Họ bước vào, trong nhà tối mờ mờ, buổi chiều mùa đông nhiều mây, và ánh sáng của vài ngọn đèn không hoàn toàn xua tan bóng tối. Vinixius đoán ra hơn là nhận ra được Khilon ở cái con người đội mũ trùm đầu, còn lão, khi trông thấy cái giường trong góc nhà và trên đó là chàng Vinixius, lão liền tiến thẳng lại phía chàng, không để ý gì tới những người khác, dường như lão tin rằng ở bên cạnh chàng lão sẽ được an toàn hơn.
– Ôi, ông chủ! Sao ngài không chịu nghe những lời khuyên của tôi cơ chứ? – lão chìa hai tay ra và kêu lên.
– Câm đi! – Vinixius bảo – và hãy nghe đây!
Nói tới đây, chàng nhìn chăm chú vào mắt lão Khilon mà nói chậm rãi, nhấn giọng, dường như chàng muốn mỗi lời mình nói ra đều được hiểu là mệnh lệnh và ăn sâu mãi và trí nhớ của lão.
– Tên Kroton lao vào ta để giết ta và cướp của – ngươi hiểu chưa? Khi ấy ta đã giết chết hắn, còn những người này đã băng bó những vết thương mà ta đã bị trong khi đánh nhau với hắn.
Lão Khilon hiểu ngay lập tức rằng nếu Vinixius đã nói thế có nghĩa chàng nói theo thoả thuận với những người Thiên chúa giáo, và khi ấy chàng muốn được người ta tin. Lão cũng đọc thấy điều đó trên nét mặt chàng, nên ngay lập tức – không hề tỏ ra nghi ngờ hay ngạc nhiên, – lão ngửa mặt lên trời kêu lên:
– Hắn thật là đồ khốn kiếp, thưa ngài! Tôi đã nói trước để ngài chớ tin hắn kia mà! Tất cả các khoa học của tôi bật khỏi đầu óc hắn hệt như hạt đậu bật khỏi tường vậy. Cả hoả ngục Hadex cũng không đủ cực hình trừng trị hắn đâu. Kẻ nào không thể làm một con người lương thiện, kẻ đó chắc chắn phải là thằng đểu, mà ai có thể khó trở thành người lương thiện hơn đồ đểu cáng nữa? Nhưng nhẩy xổ vào người làm ơn cho mình, một ông chủ danh giá như ngài? Ôi, các thần ôi!…
Đến đây lão chợt nhớ ra là trong lúc đi đường lão đã tự giới thiệu với bác Urxux là tín đồ Thiên chúa giáo – và lão chợt nín lặng.
Vinixius nói:
– Giá như không có cái dao găm mà ta mang sẵn bên mình, chắc hắn đã giết chết ta rồi.
– Phúc đức thay cái giây phút tôi khuyên ngài mang theo dù chỉ một chiêc dao găm!
Song Vinixius nhìn lão Hi Lạp vẻ thăm dò rồi hỏi:
– Hôm nay nhà ngươi làm những gì rồi?
– Sao cơ ạ? Tôi đã chẳng thưa cùng ngài rằng tôi làm lễ cầu chúc sức khoẻ của ngài hay sao?
– Không còn gì khác nữa chứ?
– Và tôi đang sửa soạn đến thăm ngài thì con người tốt bụng kia đến bảo tôi rằng ngài đang gọi tôi.
– Đây là cái bảng. Ngươi sẽ mang nó đến nhà ta, tìm người nô lệ giải phóng của ta và đưa cho anh ta. Trên bảng viết rằng ta đã đi Beneventơ. Ngươi hãy nói với Đemax rằng ta đã làm việc đó vào sáng hôm nay, sau khi nhận được thư khẩn của ngài Petronius gọi ta tới đó.
Rồi chàng nhấn mạnh lần nữa:
– Ta đã đi Beneventơ – ngươi hiểu chưa?
– Ngài đã đi rồi, thưa ông chủ! Sáng nay tôi vừa từ biệt ngài tại Porta Capena – và kể từ lúc ngài ra đi, một nỗi nhớ nhung khôn tả cứ dày vò tôi, đến nỗi nếu như sự hào phóng của ngài không vỗ về nó thì tôi sẽ khóc than cho đến chết, giống như người vợ bất hạnh của Zethox(1) khóc thương Ityl vậy.
Mặc dù đang đau yếu và đã quá quen với sự lươn lẹo của lão Hi Lạp, song Vinixius không thể giấu nổi nụ cười. Chàng cũng vui vì lão Khilon đã hiểu ngay lập tức, chàng bèn bảo:
– Vậy thì để ta viết thêm, bảo người ta lau nước mắt cho ngươi. Đưa ta cây đèn!
Lão Khilon đã hoàn toàn bình tĩnh lại bèn đứng dậy, bước mấy bước về phía lò sưởi, cầm lấy một trong những chiếc đèn đang cháy trên bức vách.
Song trong lúc lão làm việc đó, chiếc mũ trùm đầu tụt xuống, ánh sáng chiếu thẳng vào mặt lão, thì bỗng ông Glaukox bật dậy khỏi ghế, bước nhanh tới đứng trước mặt lão.
– Người không nhận ra ta sao, Xefax? – ông hỏi.
Trong giọng nói của ông có cái gì thật rùng rợn, khiến cho tất thẩy những người có mặt đều rùng mình.
Lão Khilon vừa cầm chiếc đèn lên đã để rơi tuột ngay xuống đất, gập đôi người lại và bắt đầu rên rỉ:
– Không phải tôi … không phải tôi đâu… thương tôi với!
Ông Glaukox quay sang phía những người đang dùng bữa và nói:
– Đây chính là kẻ đã bán đứng tôi và làm tan nát gia đình tôi!
Chuyện của ông thì tất thảy tín đồ Thiên chúa đều biết, Vinixius cũng vậy, sở dĩ chàng chưa nghĩ ra ông Glaukox này là ai, chỉ vì chàng bị ngất đi trong khi băng bó nên đã không nghe thấy tên ông. Còn đối với bác Urxux, cái giây phút ngắn ngủi ấy cộng với những lời của ông Glaukox giống như một tia chớp loé lên trong bóng tối. Nhận ra lão Khilon,chỉ bằng một bước, bác nhảy vọt ngay tới cạnh lão, túm lấy hai tay lão, bẻ quặt ra sau mà kêu lên:
– Chính hắn đã xui tôi giết ông Glaukox!
– Hãy thương tôi với! – lão Khilon rên lên, – tôi sẽ trả cho các ngài… Ông chủ ơi – lão quay đầu về phía Vinixius kêu lên, – cứu tôi với! Tôi tin ngài mà, hãy bảo lãnh tôi đi! Bức thư của ngài… tôi sẽ mang đi! Ông chủ! Ông chủ ơi!
Song Vinixius là kẻ thản nhiên nhất trong tất cả những người nhìn những gì đang diễn ra, trước hết vì chàng biết rõ tất cả mọi vụ việc của lão Hi Lạp, sau nữa, trái tim chàng đâu có biết thế nào là tình thương, chàng nói:
– Hãy đào mộ chôn hắn ngoài vườn, người khác sẽ mang thư đi.
Lão Khilon tưởng như những lời này là bản án đã được phán quyết. Xương cốt lão kêu rắc rắc trong đôi cánh tay khủng khiếp của bác Urxux, mắt lão túa nước mắt vì đau đớn.
– Cầu Đức Chúa của các ngài! Hãy rủ lòng thương! – lão kêu lên. – Tôi là người Thiên chúa giáo!… Paxvobiscum! Tôi là người Thiên chúa giáo đây mà, nếu các ngài không tin thì xin hãy rửa tội cho tôi một lần, hai lần, mười lần nữa cũng được! Ông Glaukox ơi, đó chỉ là sự nhầm lẫn. Hãy cho tôi nói! Các người hãy bắt tôi làm nô lệ… đừng giết tôi! Hãy thương tôi với!
Giọng lão nghẹn lại vì đau đớn, mỗi lúc một yếu hơn khi thấy đức Piotr Sứ đồ đứng dậy khỏi bàn, mái đầu bạc lắc lư lúc lâu, hạ thấp dần xuống ngực, mắt nhắm nghiền, rồi sau đó ông mới mở mắt ra và nói trong lặng im:
– Đấng Cứu thế đã bảo chúng ta: “Nếu như người anh em của mày phạm tội chống mày, hãy nhắc nhở hắn; nếu hắn hối hận – xá tội cho hắn. Còn nếu như một ngày bảy lần hắn phạm tội chống mày và bảy lần hướng về mày mà nói: – thương tôi với – hãy xá tội cho hắn!”
Sau lời ông nói, sự im lặng càng sâu thẳm hơn.
Ông lão Glaukox đứng yên một hồi lâu, che mặt bằng hai bàn tay, mãi sau ông bỏ tay ra và bảo:
– Này Xefax, cầu Chúa xá tội cho ngươi như ta vì danh Chúa Crixtux tha thứ cho ngươi.
Còn bác Urxux buông tay lão Hi Lạp ra mà nói thêm:
– Đấng Cứu thế sẽ thương tình tôi như tôi đã tha tội cho ông.
Lão Hi Lạp ngã sụp xuống đất, chống hai tay, đầu quay hết bên này sang bên khác, hệt như một con thú bị mắc bẫy thòng lọng, nhìn chung quanh chờ xem cái chết đến từ phía nào. Lão hãy còn chưa dám tin vào tai và mắt mình và không dám ngờ là người ta sẽ tha cho lão.
Song lão dần dần tỉnh lại, chỉ có đôi môi tím tái vì hoảng sợ hãy còn run lẩy bẩy. Đức Sứ đồ bèn bảo:
– Ngươi hãy bình tâm mà đi!
Lão Khilon đứng dậy song vẫn không thốt nổi lời nào. Bất giác lão dịch lại gần giường Vinixius như muốn tìm ở chàng sự che chở, vì cho tới nay lão vẫn chưa có thì giờ để nghĩ ra rằng, con người ấy, mặc dù sử dụng lão và đồng loã với lão, vẫn lên án lão, trong khi chính những người mà lão chống lại thì đã tha thứ cho lão. Ý nghĩ này mãi sau mới đến với lão. Còn lúc này, trong cái nhìn của lão chỉ thấy có sự kinh ngạc, nữa tin nữa ngờ. Mặc dù lão đã hiểu được rằng người ta tha cho lão, song lão vẫn muốn mau mau mang thân tránh khỏi những con người không thể hiểu nổi, những người mà lòng tốt cũng khiến lão kinh sợ chẳng kém gì sự dữ tợn. Lão sợ rằng nếu nán lại lâu hơn chút nữa lại có thể xảy ra điều gì không ngờ chăng, nên đứng trước mặt Vinixius lão lập cập nói:
– Hãy đưa, ngài ơi, cái thư! Hãy đưa cái thư!
Và lão giật vội tấm bảng mà Vinixius đưa cho, cúi chào những người Thiên chúa giáo một cái, người ốm một cái, rồi cứ lom khom như thế, lần dọc sát tường, lão nhào ra cửa.
Ra ngoài vườn, bị bóng tối bao quanh, nỗi sợ hãi lại khiến lão dựng tóc gáy, bởi lão chắc rằng bác Urxux sẽ lao ra theo và hạ sát lão trong bóng đêm. Lão muốn chạy thục mạng nhưng đôi chân không chịu vâng lời, mà lát sau chúng hoàn toàn đờ ra, bởi quả thực bác Urxux đã đứng ngay sát bên lão.
Lão Khilon gục mặt sát đất kêu rên:
– Bác Urxux ơi… Nhân danh đấng Crixtux…
Song bác Urxux nói:
– Đừng sợ. Đức Sứ đồ ra lệnh cho tôi đưa ông ra ngoài cổng để ông khỏi lạc trong bóng tối, nhưng nếu ông yếu thì để tôi đưa ông vào nhà vậy.
Lão Khilon ngửng mặt lên:
– Bác bảo sao? Gì cơ?… Bác không giết tôi chứ?
– Không, tôi không giết ông đâu, còn nếu tôi nắm ông quá mạnh và làm đau xương cốt ông, xin hãy bỏ quá cho tôi.
– Bác đỡ tôi dậy với, – lão Hi Lạp nói – Bác không giết tôi thật đấy chứ? Hả? Đưa tôi ra phố, tôi sẽ tự đi được.
Bác Urxux dựng lão dậy khỏi mặt đất như một chiếc lông, để lão đứng trên hai chân, rồi dẫn qua lối đi tối mở sang chiếc sân thứ hai, nơi thông ra hàng hiên và đường phố. Trong hành lang, lão Khilon lại bụng bảo dạ: “Mình toi đời rồi này”, mãi cho tới khi ra đến ngoài phố, lão mới hoàn hồn và nói:
– Tôi đi một mình được rồi.
– Cầu cho ông được hằng bình an!
– Cả bác nữa, cả bác nữa!… Để tôi thở một lát.
Sau khi bác Urxux quay đi, lão hít thật căng lồng ngực. Tay lão sờ soạng quanh thắt lưng và hai đùi dường như lão muốn kiểm tra lại cho thật tin là vẫn còn sống, rồi lão hối hả bước đi.
Song chỉ được vài mươi bước lão chợt dừng lại và hỏi:
– Sao họ không giết ta nhỉ?
Và mặc dù đã cùng ông lão Euryxius trò chuyện về khoa học Thiên chúa giáo, mặc dù đã nói chuyện với bác Urxux bên sông, mặc dù tất cả những gì lão được nghe ở Oxtrianum, lão vẫn không sao tìm ra lời đáp cho câu hỏi ấy.
Chú thích:
(1) Tức Aedon, người hoá thân thành chim hoạ mi (chú thích của tác giả)