Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Quo Vadis

Chương 33

Tác giả: Henryk Sienkiewicz

Vinixius bước thẳng đến ngồi nhà bà Miriam đang ở. Trước cổng chàng gặp cậu bé Nazarius, cậu bé bối rối khi trông thấy chàng, chàng liền chào hỏi tử tế và bảo cậu đưa và nhà bà mẹ.

Trong nhà, ngoài bà Miriam, chàng còn gặp ông Piotr, ông Glaukox, ông Kryxpux và cả ông Paven xứ Tarxu, người vừa mới trở về từ vùng Fregenla. Trông thấy chàng hộ dân quan trẻ tuổi, nỗi ngạc nhiên hiện trên nét mặt tất thẩy mọi người, nhưng chàng đã cất tiếng:

– Xin chúc sức khỏe các ông bà nhân danh Chúa Crixtux được các người thờ phụng.

– Sáng danh Chúa đời đời.

– Tôi đã được biết phẩm hạnh của các vị, được hưởng lòng nhân hậu của các ông bà, tôi tới đây như một người bạn.

– Chúng tôi cũng đón tiếp ngài như một người bạn – ông Piotr đáp – mời ngài hãy ngồi xuống đây làm khách, cùng dùng bữa với chúng tôi.

– Tôi xin được ngồi và dùng bữa với các ông, nhưng trước hết, xin hãy nghe tôi thưa chuyện đã, thưa ông Piotr và cả ông nữa, thưa ông Paven xứ Tarxu, để các ông có thể hiểu cho sự chân thành của tôi. Tôi biết rõ hiện Ligia đang ở đâu, tôi vừa từ trước cổng nhà ông Linux đến đây, nhà ông ấy cũng ở gần nhà này. Tôi có quyền đến bắt nàng, quyền đó do hoàng đế ban cho. Tại nhà tôi ở trong thành có gần năm trăm tên nô lệ, tôi có thể cho vây chặt nơi nàng ẩn trốn và bắt nàng, song tôi đã không làm việc đó và sẽ không làm.

– Vậy thì ân phước của Đức Chúa sẽ được cùng ngài, trái tim ngài sẽ được thanh sạch – ông Piotr nói.

– Xin đa tạ người, nhưng xin hãy cho tôi được phép nói tiếp. Tôi đã không làm điều đó mặc dù tôi đang sống trong nỗi đớn đau và thương nhớ. Trước kia, khi chưa được sống với các ông, hẳn tôi sẽ dùng bạo lực bắt giữ nàng ngay, nhưng phẩm hạnh của các ông và giáo thuyết của các ông – dù tôi chưa được giác ngộ giáo thuyết ấy – đã khiến cho tâm hồn tôi biến đổi, tôi không thể nào sử dụng tới sức mạnh. Chính tôi cũng không tự hiểu tại sao lại như vậy, nhưng đúng như thế! Vì vậy, tôi đến gặp các ông, những người thay cho cha mẹ đẻ của nàng Ligia, để thưa rằng: Xin các ông hãy cho nàng được làm vợ tôi, tôi xin thề với các ông rằng không những tôi sẽ không ngăn cấm nàng giác ngộ Đức Chúa Crixtux mà tự tôi cũng sẽ bắt đầu xin học giáo thuyết của Người.

Chàng nói, mái đầu ngẩng cao, giọng cương quyết, song thực ra chàng rất xúc động, hai chân chàng run rẩy dưới tấm áo choàng có dải thắt lưng. Rồi khi mà sau lời chàng nói là một sự im lặng bao trùm, chàng lại nói tiếp, dường như muốn chặn trước một câu trả lời không mong muốn:

– Tôi biết rõ có những trở lực, nhưng tôi yêu quý nàng như chính đôi mắt tôi và mặc dù chưa được là một tín đồ Thiên chúa, nhưng tôi đã không còn là kẻ thù của các ông, của Chúa Crixtux nữa. Tôi muốn được thành thật hết lòng để các ông có thể tin tôi. Lúc này là lúc có can hệ đến vận mệnh của tôi, song tôi vẫn xin nói thực với các ông. Có thể một kẻ nào khác ở địa vị của tôi sẽ nói ngay với các ông: ”Xin hãy cho tôi được chịu lễ rửa tội!”. Còn tôi lại nói: ”Xin hãy khai sáng cho tôi!”. Tôi tin vào chuyện phục sinh của Chúa Crixtux, bởi vì chính những người hiện đang sống kể chuyện đó, chính họ đã được gặp Chúa sau khi Người qua đời. Tôi tin, tôi đã được thấy giáo thuyết của các ông gieo mầm đức hạnh, công lý và nhân từ, chứ không phải gieo những tội ác mà người ta gán cho các ông. Cho tới nay, tôi mới hiểu giáo thuyết đó chưa bao nhiêu, chút ít từ chính các ông, qua hành động của các ông, chút ít qua Ligia, chút ít thông qua việc trò chuyện với các ông. Ấy thế mà tôi xin nhắc lại, nó cũng đã làm thay đổi một cái gì đó trong tôi. Trước kia tôi dùng bàn tay sắt đối xử với đám đầy tớ của tôi, giờ đây – tôi không thể. Trước tôi chỉ tin vào bạo lực, giờ tôi chối bỏ nó. Các ông có biết không, chính tôi cũng không nhận ra bản thân mình nữa, tôi kinh tởm tiệc tùng, rượu nho, tiếng đàn ca, những vòng chiến thắng, kinh tởm cung đình hoàng đế, những thân thể lõa lồ, cùng tất thảy những tội ác ghê gớm. Và khi nghĩ rằng nàng Ligia trong sạch như làn tuyết trên đỉnh núi, tôi càng yêu thương nàng, khi nghĩ rằng sở dĩ nàng được như thế là nhờ giáo thuyết của các ông, tôi yêu mến giáo thuyết ấy và thèm khát nó! Nhưng tôi không hiểu nổi nó, chưa biết liệu tôi có sống nổi trong giáo thuyết ấy hay không, liệu cái bản chất của tôi có chịu đựng được nó chăng, cũng vì thế tôi đang phải sống trong thấp thỏm và dằn vặt, như đang sống dưới hầm tối vậy.

Nói đến đây đô lông mày trên trán chàng chau lại thành một nếp nhăn đau đớn, gò má chàng ửng hồng. Chàng nói tiếp, mỗi lúc lột thêm gấp gáp và xúc động:

– Các ông thấy đấy! Tôi dằn vặt bởi tình yêu và sự u mê. Người ta bảo tôi rằng, trong giáo thuyết của các ông không có cả sự sống lẫn niềm vui của con người, không có cả hạnh phúc, luật lệ, trật tự, sự độc tôn lẫn quyền thống trị La Mã. Có phải thế không? Người ta bảo tôi rằng các ông là bọn điên rồ. Xin các ông hãy nói cho tôi hay các ông mang điều gì tới? Yêu nhau có phải là tội lỗi không? Cảm nhận hạnh phúc có phải là tội lỗi không? Tín đồ Thiên chúa có nhất thiết phải là kẻ nghèo hèn không? Tôi có phải từ bỏ Ligia không đây? Chân lý của các ông là gì? Hành động và lời nói của các ông như làn nước trong vắt, nhưng đáy của làn nước ấy ra sao? Các ông chắc cũng thấy là tôi chân thành. Xin các ông hãy xua đuổi bóng tối đi! Bởi vì thậm chí có người còn bảo tôi: ”Hi Lạp sản sinh trí tuệ và cái đẹp, La Mã thì sản sinh sức mạnh, còn bọn họ sẽ mang lại cái gì đây?”. Xin các ông hãy nói đi, các ông mang lại điều gì? Nếu như bên ngoài cánh cửa của các ông là ánh sáng, xin hãy mở toang ra cho tôi!

– Chúng tôi mang lại tình yêu – ông Piotr nói.

Ông Paven xứ Tarxu nói thêm:

Nếu ta nói bằng giọng con người hay giọng thiên thần mà lòng ta không có tình yêu, ta sẽ chỉ như một cái chiêng rỗng tuếch.

Trái tim của vị sứ đồ tuổi tác xúc động trước linh hồn đang đau đớn này, linh hồn như một cánh chim bị giam chặt trong lồng cứ vùng vẫy để được thoát ra với khí trời và vầng dương, ông bèn chìa hai tay ra cho Vinixius và nói:

– Ai gõ thì cửa mở, ân huệ của Đức Chúa hằng ở cùng con, vậy nhân danh Cứu Thế, ta ban phước cho con, cho linh hồn con và tình yêu của con.

Nghe lời ban phước, Vinixius – con người vừa nói những lời nhiệt thành sôi nổi dường kia – liền bước nhanh lại sát ông Piotr và khi ấy xẩy ra một chuyện phi thường: Đó là việc một hậu duệ dòng dõi của các vị Quyrit, kẻ cách đây không lâu còn không thèm nhìn nhận người khác cũng là con người, cầm lấy đôi bàn tay của một ông lão xứ Galilei và thành kính áp vào môi mình.

Ông Piotr vui mừng, ông hiểu rằng thế là hạt giống đã được gieo xuống thêm một thửa ruộng nữa, cái lưới đánh cá của ông lại vớt thêm được một linh hồn nữa.

Những người có mặt cũng vui mừng không kém trước biểu hiện thành kính đối với vị sứ đồ của Đức Chúa, họ đồng thanh thốt lên:

– Ngợi ca Đức Chúa trên cao!

Vinixius đứng dậy, khuôn mặt bừng sáng chàng nói:

– Con thấy rằng giữa các người vẫn có hạnh phúc bởi chính lòng con đang rất sướng vui, con chắc rằng trong tất cả mọi điều các người đã thuyết phục con cũng đều được như vậy. Song con phải nói ngay rằng, chuyện ấy không diễn ra ở Roma được: Hoàng đế đi Anxium, con buộc phải đi cùng hoàng đế vì đã nhận được lệnh. Các người chắc cũng biết không tuân lệnh là chết. Song nếu như con đáng được hưởng ân huệ trong mắt các người, thì xin hãy đi cùng con để dạy cho con chân lý. Tại đó, Người sẽ được an toàn hơn chính con, giữa đám đông khổng lồ ấy, Người có thể truyền bá chân lý cho chính các triều thần của hoàng đế. Người ta đồn rằng nàng Akte là tín đồ Thiên chúa giáo, rằng ngay trong lính cấm vệ cũng có tín đồ, chính con được trông thấy binh lính quỳ trước mặt Người, thưa Piotr, cạnh cổng thành Nomentan. Tại Axium con có một biệt thự, chúng ta sẽ cùng nhau tụ họp tại đó, ngay sát nách Nerô, để lắng nghe giáo thuyết. Ông Glaukox có lần nói với con rằng, các người sẵn sàng đi tới cùng trời cuối đất để cứu một linh hồn, xin hãy làm điều ấy vì con, xin hãy thực hiện vì con những gì các người đã làm cho kẻ khác, những kẻ mà vì họ Người đã phải lặn lội từ xứ Judei đến đây, xin đừng bỏ rơi linh hồn con!

Nghe thấy thế, họ bèn cùng nhau bàn bạc, họ vui sướng nghĩ về thắng lợi của giáo thuyết của họ, về ý nghĩa đối với thế giới ngoại đạo của việc cải tạo cho một vị cận thần, lại là cháu con của một giòng họ lâu đời nhất La Mã. Quả thực, họ sẵn sàng đi đến cùng trời cuối đất vì mỗi linh hồn con người, kể từ khi Thầy qua đời họ có làm điều gì khác ngoài việc ấy đâu, họ không hề có ý định từ chối. Song, hiện nay ông Piotr đang là đấng chăn chiên của cả vùng, ông không thể bỏ mà đi được. Ngược lại ông Paven xứ Tarxu – người mới vừa ở Aryxia và Fregenlae quay về, đồng thời lại đang chuẩn bị một chuyến đi dài ngày sang Phương Đông để thăm viếng các nhà thờ tại đó, khuấy động một tinh thần mộ đạo mới – đồng ý đi cùng hộ dân quan trẻ tuổi tới Anxium, tại đó, ông sẽ dễ dàng tìm được một chiếc tàu đi tới vùng biển Hi Lạp.

Mặc dù hơi buồn vì ông Piotr, người mà chàng bao gắn bó, không thể cùng đi, nhưng Vinixius vẫn chân thành cảm ơn, rồi hướng về Sứ Đồ chàng bày tỏ nguyện vọng cuối cùng:

– Khi biết nơi ở của Ligia – chàng nói – con có thể tự mình đến đó hỏi xem nàng có thuận lấy con hay chăng, một khi linh hồn con đã trở thành linh hồn Thiên chúa giáo, nhưng con muốn cầu xin Người thưa Đức Sứ đồ, xin Người hãy cho con được gặp nàng hay dắt con đến gặp nàng. Con cũng chưa rõ sẽ phải ở lại Anxium bao lâu và xin các người cũng biết cho rằng bên cạnh Hoàng đế không một ai dám nói chắc về ngày mai của bản thân cả. Chính ông Petronius có bảo con hay rằng nơi đó con cũng không được hoàn toàn yên ổn. Xin hãy cho con được gặp nàng, để mắt con được nhìn nàng cho thỏa, con sẽ hỏi xem nàng có quên đi cho con những điều xấu đã qua, liệu nàng có muốn cùng con chia sể những tốt lành sắp tới hay chăng?

Sứ Đồ Piotr mỉm cười nhân hậu và bảo:

– Ai lại chối từ con một niềm sướng vui hợp lẽ, hở con?

Một lần nữa, Vinixius lại cúi hôn tay ông, bởi chàng hoàn toàn không thể kìm nổi trái tim đang dào dạt của mình. Đức Sứ đồ ôm lấy đầu chàng mà bảo:

– Con cũng chớ nên quá sợ Hoàng Đế, ta nói con hay: Sẽ không một sợi tóc nào của con bị rụng mất đâu.

Rồi ông phái bà Miriam đi gọi Ligia, dặn trước bà không nên nói cho nàng hay sẽ được gặp ai, để niềm vui sướng của nàng thêm phần to lớn.

Chỗ nàng cũng không xa, nên chỉ lát sau, những người có mặt trong nhà nhìn qua những khóm sim thơm của khu vườn đã thấy bà Mariam đang dắt tay Ligia đi tới.

Vinixius những muốn chạy ra đón, song vừa chợt nhìn thấy bóng dáng yêu thương, niềm hạnh phúc đã khiến chàng như kiệt sức, chàng đứng đó với trái tim đập mạnh, nín thở, cố gắng lắm mới đứng vững trên đôi chân, trăm lần xúc động hơn so với khi lần đầu tiên trong đời chàng nghe tiếng rít của những mũi tên quân Pariơ bay vút qua sát đầu.

Không hề ngờ đến điều chi, Ligia chạy ùa vào khi trông thấy chàng, nàng cũng đứng chôn chân một chỗ. Mặt nàng đỏ bừng lên rồi lại tái nhợt đi, nàng trố mắt kinh ngạc và lo lắng nhìn những người có mặt.

Nhưng khắp bốn xung quanh, nàng chỉ bắt gặp những cái nhìn nhân hậu. Đức Sứ đồ lại bên nàng và bảo:

– Ligia con, con sẽ yêu mến chàng mãi mãi chứ con?

Một giây im lặng. Đôi môi nàng run rẩy như một đứa trẻ chực khóc khi cảm thấy mình có lỗi và phải nhận lỗi.

– Trả lời đi, con – Đức Sứ đồ bảo.

Khi ấy, bằng giọng nói e lệ vừa sợ sệt, nàng quỳ xuống trước mặt ông Piotr thì thầm:

– Vâng ạ…

Cùng lúc đó, Vinixius cũng quỳ xuống bên nàng, ông Piotr đặt tay lên đầu đôi trẻ và phán:

– Các con hãy yêu mến Đức Chúa và ca ngợi Người, bởi khi yêu nhau, các con không hề có tội.

Bình luận