Chỉ vì việc tối hôm trước, Tình Văn không chịu mở cửa, Đại Ngọc ngờ rằng chủ ý của Bảo Ngọc. Hôm sau lại gặp ngay kỳ “tiễn hoa”, đương lúc tâm hồn u uất, chưa thoát ra được, lại thêm gợi lòng thương xuân, mối buồn rười rượi, vì thế cô ta nhặt lấy tất cả những cánh hoa rơi rụng, đem đi chôn cất để cám cảnh cho hoa và thương xót cho mình. Đại Ngọc khóc lên mấy tiếng, rồi ngâm luôn mấy câu thơ. Không ngờ Bảo Ngọc đứng bên kia nghe thấy, lúc đầu chỉ gật đầu than thở, sau nghe rõ bốn câu: Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ,
Sau này ta chết ai là người chôn?
…Hồng nhan thấm thoắt xuân qua,
Hoa tàn nguời vắng ai mà biết ai!
Bảo Ngọc thương cảm quá, thình lình ngã vật trên sườn núi, bao nhiêu hoa rụng nhặt được ở trong tay rơi vãi cả ra đất. Bảo Ngọc nghĩ ngay đến Đại Ngọc sắc đẹp như hoa, mặt trong như trăng, sau này ắt cũng có lúc không thể tìm thấy nữa, lẽ nào chả đứt ruột nát gan! Đại Ngọc đã có lúc không thể tìm thấy, cứ thế suy ra, những người như Bảo Thoa, Hương Lăng, Tập Nhân, cũng đều thế cả. Bọn Bảo Thoa đã vậy thì thân mình sẽ ở đâu? Thân mình còn chả biết ở đâu, đi đâu, thì nơi này, vườn này, hoa này, liễu này, biết thuộc về ai? Bảo Ngọc suy nghĩ miên man hết chuyện này sang chuyện khác, không biết đến giờ phút ấy, muốn làm vật xuẩn ngốc, không hiểu một tí gì, trốn vòng tạo hóa, thoát khỏi lưới trần, liệu có thể gỡ nổi mối đau thương ấy không. Thực là:
Bóng hoa đâu vẫn bên mình,
Tiếng chim đâu vẫn rành rành bên tai.
Đại Ngọc đương lúc thương cảm, chợt nghe sườn núi bên có tiếng than khóc, trong bụng nghĩ: “Ai cũng cười ta có bệnh si, chăng lẽ lại có người si nữa hay sao?” Ngẩng đầu nhìn thì ra Bảo Ngọc. Đại Ngọc liền phỉ thui nói:
– Hừ? Ngỡ ai, hóa ra lại là anh chàng thâm độc chết non!
Vừa nói đến hai tiếng “chết non”, Đại Ngọc bưng miệng thở dài, rồi chạy biến đi mất.
Bảo Ngọc đương khi đau xót, thấy Đại Ngọc chạy, biết cô ta trông thấy mình rồi trốn đì. Nghĩ nông nỗi thật buồn tênh, Bảo Ngọc lom khom trở dậy, xuống núi theo đường cũ trở về viện Di Hồng. May sao trông thấy Đại Ngọc chạy đằng trước, Bảo Ngọc vội vàng đuổi theo, nói:
Cô hãy đứng lại, tôi biết rằng bây giờ cô không thèm nhìn đến tôi nữa. Nhưng tôi xin nói một câu rồi chúng ta sẽ chia tay.
Đại Ngọc ngoảnh lại, thấy Bảo Ngọc, định kệ thây, nhưng lại nghe: “Chỉ xin nói một câu rồi sẽ chia tay”, Đại Ngọc đành phải đứng lại:
Câu gì xin anh cứ nói.
Xin cho vài câu, cô có thèm nghe hay không?
Đại Ngọc liền quay đầu chạy, Bảo Ngọc theo sau than:
Biết nông nỗi ngày nay, thì thà đừng gặp nhau từ trước. Đại Ngọc nghe vậy, đành phải đứng lại, hỏi:
Trước là thế nào? Mà nay là thế nào?
Ái chà! Khi cô mới đến đây, có phải ngày ngày chúng ta cùng chơi đùa với nhau không? Thứ gì tôi thích, cô cũng thích, thì cô cứ việc lấy đi; thứ gì tôi thích ăn, thấy cô cũng thích ăn, tôi cất cẩn thận để phần cô. Hai đứa ăn một bàn, ngủ một giường. Cái gì bọn a hoàn chưa nghĩ chu đáo, tôi sợ cô giận, nên đều tính trước hộ bọn họ. Tôi cho rằng: anh em ta từ nhỏ đến lớn, gần gụi nhau, thân thiết nhau, thì cũng nên hòa thuận với nhau hơn hẳn các người mới phải. Ngờ đâu cô lớn lên lòng khác hẳn, không coi tôi vào đâu, ba ngày chẳng thèm nhìn, bốn ngày chẳng thèm gặp, chỉ để ý những người xa lắc xa lơ, như chị Bảo, chị Phượng gì đó. Tôi chẳng có anh chị em ruột thịt nào cả. Tuy có đấy, nhưng cô đã chẳng biết là con khác mẹ hay sao? Tôi với cô đều là con một, chắc chúng ta cũng cùng một ý nghĩ, ngờ đâu phí cả tấm lòng, thật là có oan khôn đường bày tỏ?
Nói xong, nước mắt ròng ròng nhỏ xuống.
Đại Ngọc tai nghe mắt thấy trước câu nói và quang cảnh ấy, bất giác lòng dịu hẳn đi, nước mắt tự nhiên nhỏ xuống ròng ròng, cúi đầu không nói gì. Bảo Ngọc thấy tình thế như vậy, nói luôn:
Tôi biết rồi, giờ tôi cũng chẳng tốt gì! Nhưng dù sao, tôi cũng không dám có điều gì lầm lỗi với cô. Nếu có, cô cũng nên bảo tôi, răn tôi, hoặc mắng tôi mấy câu, đánh tôi mấy cái, tôi không dám mủi lòng. Ngờ đâu cô không thèm nhìn đến tôi, để tôi nghĩ mãi, chẳng biết đầu đuôi ra sao, lắm phen phải kinh hồn mất vía! Nếu tôi chết đi, cũng là con quỉ chết oan, dù nhờ các vị cao tăng, cao đạo đọc kinh sám hối, cũng chẳng có thể siêu sinh được; chỉ có cô, nói rõ ngành ngọn cho, may ra tôi mới được hóa kiếp!
Đại Ngọc nghe xong, câu chuyện tối qua tự nhiên bay đâu hết sạch, liền nói:
Anh đã nói thế, thì tại sao tối hôm qua tôi đến, anh lại không cho a hoàn mở cửa? Bảo Ngọc kinh ngạc nói:
Chuyện ấy ở đâu mà ra? Nếu tôi có làm thế thì tôi chết ngay!
Đại Ngọc phỉ thui:
Vừa mới sáng sớm đã nói chết với sống, không kiêng à! Có nói là nói, không nói là không, việc gì mà anh phải thề.
Bảo Ngọc nói:
Tối hôm qua, thực không thấy em đến, chỉ có chị Bảo Thoa đến một lúc rồi về thôi. Đại Ngọc nghĩ một lúc, cười nói:
Phải rồi. Chắc là bọn a hoàn lười không muốn dậy, đâm ra nói bừa, gắt bậy. Chuyện ấy cũng có thể có được.
Chắc thế, để anh về hỏi xem đứa nào, phải răn bảo chúng mới được.
Anh cũng nên răn bảo các cô ấy, cứ lẽ ra tôi không đáng nói. Nhưng lần này có lỗi với tôi là chuyện nhỏ, chứ lần sau không may có lỗi với cô Bảo, cô “Bối” nào đấy, tất xảy chuyện to.
Nói xong, nhoẻn miệng cười. Bảo Ngọc nghe xong, nghiến răng bực bội, sau lại cười phá lên.
Hai người đương nói chuyện, thấy a hoàn đến mời đi ăn cơm, họ liền đi ngay. Vương phu nhân thấy Đại Ngọc, hỏi:
Cô Lâm uống thuốc của ông lang họ Bảo có khá không?
Đại Ngọc thưa:
– Cũng vẫn thế thôi. Bà còn bảo cháu uống thuốc của thầy lang họ Vương nữa.
Bảo Ngọc thưa:
Mẹ không biết bệnh cô Lâm là chứng nội thương, tiên thiên kém lắm, không chịu nổi sương gió! Chỉ nên uống vài thang sơ tán phong hàn, rồi uống thuốc viên mới tốt. Vương phu nhân nói:
Hôm nọ thầy thuốc có nói tên một thứ thuốc viên, nhưng ta quên mất.
Con biết rồi. Thuốc ấy gọi là nhân sâm dưỡng vinh hoàn.
Không phải.
Hay là bát trân ích mẫu hoàn, tả qui, hữu qui, nếu không phải thì lại là bát vị địa hoàng hoàn.
Đều không phải cả. Ta nhớ có hai chữ “kim cương” gì ấy.
Xưa nay chưa nghe thấy có tên “kim cương hoàn” bao giờ. Nếu có kim cương hoàn tất nhiên phải có bồ tát hoàn.
Câu ấy làm cả nhà cười ầm lên. Bảo Thoa mỉm cười: Có lẽ là thiên vương bổ tâm đan thì đúng hơn. Vương phu nhân cười nói:
Chính là tên ấy đấy, bây giờ ta đâm ra hồ đồ! Bảo Ngọc nói:
Mẹ không hồ đồ đâu, chỉ tại người gọi là kim cương hay là bồ tát làm cho mẹ hồ đồ đấy thôi.
Mày định chọc cả mẹ mày à? Coi chừng cha mày lại cho mày ăn đòn đấy.
Chắc cha con cũng không vì việc ấy mà đánh con đâu!
Đã có thứ thuốc ấy, ngày mai bảo đi mua một ít về mà uống. Bảo Ngọc nói:
Thuốc ấy chẳng ăn thua gì đâu. Mẹ cứ cho con ba trăm sáu mươi lạng bạc, con sẽ làm cho cô ấy một tễ thuốc viên, chắc nhắn chưa uống hết tễ thuốc bệnh sẽ khỏi.
Mày chỉ nói bậy. Thuốc gì mà đắt đến thế?
Thật thế, thuốc ấy khác hẳn các thuốc khác. Tên thuốc này rất lạ, nói một lúc không thể hết được. Chỉ nói nhau đàn bà đẻ con so, nhân sâm có lá ba trăm sáu mươi lạng
cũng chưa đủ. Lại còn hà thủ ô lớn như con rùa, phục linh đởm ở rễ cây tùng nghìn năm; những thứ thuốc như thế cũng chưa lấy gì làm lạ, còn phải chọn thứ thuốc đầu vị nữa. Nói ra làm người ta phải rùng mình. Trước kia anh Tiết Bàn có xin con đơn thuốc ấy, hai ba năm sau con mới cho, anh ấy mang đi tìm đến hai ba năm nữa, tốn hết hơn một nghìn lạng bạc mới chế xong. Mẹ không tin, cứ hỏi chị Bảo sẽ biết. Bảo Thoa cười, xua tay nói:
Tôi không biết, tôi cũng chẳng nghe thấy ai nói chuyện ấy bao giờ. Anh đừng bảo dì hỏi tôi.
Vương phu nhân cười nói:
Con bé Bảo tốt đấy, nó không hay nói dối.
Con nói thực đấy, thế mà mẹ lại bảo con nói dối. Nói xong, Bảo Ngọc ngoảnh lại nhìn, thấy Đại Ngọc đương ngồi ở sau lưng Bảo Thoa mỉm cười, rồi lấy ngón tay vẽ vào mặt ra hiệu chế diễu Bảo Ngọc.
Phượng Thư đương ở nhà trong, trông nom người bày bàn, nghe vậy, liền chạy lại cười nói:
Việc này có thật đấy. Chú Bảo không nói dối đâu. Hôm nọ, anh Tiết có đến nhờ con tìm hộ hạt trân châu, con hỏi, anh ấy nói là để chế thuốc. Anh ấy còn phàn nàn: “Thà chẳng chế cho xong, biết đâu lại có nhiều chuyện rắc rối!” Con hỏi thuốc gì, anh ấy nói là đơn thuốc của chú Bảo cho. Anh ấy còn nói nhiều thứ nữa kia, con không nhớ hết, anh ấy lại nói: “Nếu không thì tôi mua ở đâu chả được mấy hạt trân châu, chỉ vì cần những hạt đã giắt ở trên đầu, nên phải đến đây tìm thím, không có thì lấy những hạt đính ở cành hoa cũng được. Sau này tôi sẽ đem những hạt khác tốt hơn giả lại thím”. Con đành phải lấy hai hạt đương cài trên đầu đưa cho anh ấy. Lại còn phải dùng một đoạn lụa hồng dài ba thước, rồi lấy bát sữa nghiền nhỏ, đem trộn với bột mới được.
Phượng Thư nói một câu, Bảo Ngọc niệm Phật một câu. Sau đó nói: “Có mặt trời chứng giám”. Phượng Thư nói xong, Bảo Ngọc lại nói:
Bây giờ mẹ nghĩ xem, chẳng qua là làm gượng đấy thôi, cứ theo đúng cách thức trong đơn, thì phải lấy những châu ngọc ở trong ngôi mộ của những người giàu sang
cài đầu ngày xưa khi chết đem chôn theo mới hay. Nhưng bây giờ không lẽ vì đơn thuốc lại đi đào bới người ta lên sao tiện. Vì thế chỉ dùng những thứ của người sống đeo cũng được.
Vương phu nhân nghe rồi nói:
A di đà Phật! Ai nỡ làm thế! Người ta chết mấy trăm năm rồi, lại còn đào thây bới xương lên để làm thuốc, thì còn linh nghiệm gì.
Bảo Ngọc quay lại nói với Đại Ngọc:
Em có nghe không? Lẽ nào chị Phượng cũng theo anh mà nói dối em à?
Bảo Ngọc ngoảnh mặt lại hỏi Đại Ngọc, nhưng mắt lại liếc sang bên Bảo Thoa.
Đại Ngọc liền kéo Vương phu nhân nói:
Mợ xem, chị Bảo không chịu vào hùa với anh ấy, thành ra anh ấy lại đi hỏi cháu. Vương phu nhân nói:
Bảo Ngọc cứ hay bắt nạt em mày.
Mẹ không biết nguyên do việc này. Chị Bảo khi trước ở nhà, anh Tiết làm việc gì chị ấy cũng không biết. Bây giờ lại sang ở bên này, tất nhiên càng không biết nữa. Cô Lâm ngồi ở đằng sau, cho là con bịa chuyện ra nói dối, nên cười giễu con.
Đương nói chuyện thì a hoàn ở buồng Giả mẫu đến mời Bảo Ngọc và Đại Ngọc về ăn cơm. Đại Ngọc không đợi Bảo Ngọc, liền đứng dậy kéo a hoàn đi. A hoàn nói:
Hãy chờ cậu Bảo cùng đi một thể.
Anh ấy không ăn đâu. Chúng ta đi thôi. Tôi đi trước đây.
Hôm nay con ăn cơm với mẹ. Vương phu nhân nói:
Thôi, thôi, hôm nay ta ăn chay, con về bên ấy mà ăn.
Con cũng ăn chay.
Nói xong Bảo Ngọc bảo a hoàn đi về rồi chạy đến ngồi vào bàn ăn. Vương phu nhân cười bảo bọn Bảo Thoa:
– Các cháu cứ đi ăn, mặc kệ nó.
Bảo Thoa cười nói:
Ăn hay không, anh cũng nên đi với cô Lâm mới phải; bụng cô ta đang khó chịu đấy. Bảo Ngọc nói:
Mặc kệ cô ta, chốc nữa là xong hết.
Ăn xong, Bảo Ngọc phần thì sợ Giả mẫu mong, phần cũng nhớ Đại Ngọc, vội vàng bảo lấy nước súc miệng. Thám Xuân, Tích Xuân đều cười:
Anh Hai sao lúc nào cũng vội vã thế? Ăn uống mà cũng lật đật như vậy. Bảo Thoa cười nói:
Anh ấy ăn xong rồi còn phải đi thăm cô Lâm, chứ ở đây làm gì?
Bảo Ngọc uống nước xong, sang ngay nhà phía tây. Đi đến phòng Phượng Thư, thấy Phượng Thư đang đứng ghếch chân trên ngưỡng cửa cầm cái ngoáy tai gợi răng và trông mười đứa hầu nhỏ vần mấy chậu hoa. Thấy Bảo Ngọc đến, Phượng Thư cười nói:
– May quá, chú lại viết hộ chị mấy chữ.
Bảo Ngọc đành phải theo vào buồng. Phượng Thư sai người đem bút giấy ra nói:
Chú viết: Bốn mươi tấm đoạn trơn màu đỏ, bốn mươi tấm đoạn thêu rồng, một trăm tấm the hạng tốt đủ các màu, vòng cổ bằng vàng bốn chiếc.
Thế nào? Không phải sổ mua bán, cũng không phải là giấy kê đồ lễ, viết thế này để làm gì?
Chú cứ viết, miễn sao chị hiểu là được.
Còn điều này nữa, không biết chú có bằng lòng không? Bên nhà chú có con a hoàn tên là Hồng Ngọc, tôi muốn lấy nó sang đây, ngày mai tôi sẽ cho đứa khác sang thay nó, liệu có được không?
Bên nhà tôi nhiều người lắm, chị thích đứa nào, cứ việc lấy, cần gì phải hỏi tôi.
Nếu thế thì tôi gọi nó về nhé.
Được, chị cứ việc gọi.
Nói xong, Bảo Ngọc chực đi ngay. Phượng Thư nói:
– Chú hãy đứng lại, tôi còn nói câu này nữa.
– Bà đang gọi tôi, có việc gì khi về sẽ hay.
Bảo Ngọc sang bên phòng Giả mẫu, đã thấy ăn xong cả rồi. Giả mẫu hỏi:
Ăn cơm bên mẹ cháu có gì ngon không?
Chả có gì ngon cả, nhưng cháu lại ăn thêm được một bát. Rồi hỏi:
Cô Lâm ở đâu?
Giả mẫu nói:
– Ở trong nhà kia kìa.
Bảo Ngọc đi vào, thấy một a hoàn đương ngồi dưới đất quạt bàn là, hai a hoàn ngồi trên giường xe chỉ, Đại Ngọc đang cúi xuống cầm kéo cắt cái gì. Bảo Ngọc chạy đến cười nói:
Ái chà! Em làm gì đấy, vừa ăn xong đã cúi gằm đầu xuống, khéo lại nhức đầu thôi. Đại Ngọc không trả lời, cứ ngồi may. Bỗng có một a hoàn nói:
Góc miếng lụa này còn nhăn, phải là lại mới được.
Đại Ngọc vứt kéo xuống nói:
– Mặc kệ nó, một chốc nữa là xong.
Bảo Ngọc nghe nói, sinh ra buồn rầu. Bỗng bọn Bảo thoa, Thám Xuân đến, nói chuyện với Giả mẫu. Một lúc, Bảo Thoa vào nhà trong, hỏi: “Em làm gì đấy?”. Thấy Đại Ngọc đương cắt may, Bảo Thoa cười nói:
Giỏi quá nhỉ. Em biết cả việc may cắt rồi đấy. Đại Ngọc cười nói:
Đó chẳng qua là câu chuyện lừa dối người thôi. Bảo Thoa cười nói:
Tôi kể cho cô nghe câu chuyện buồn cười: Vừa rồi chỉ vì tôi bảo không biết gì đến việc thuốc, nên anh Bảo cũng lấy làm khó chịu đấy.
Đại Ngọc nói:
Mặc kệ anh ấy, một chốc là xong hết.
Bà muốn đánh xúc xắc, không có ai, chị ra mà đánh vậy.
Thế ra tôi chỉ vì đánh xúc xắc mà đến đây à?
Nói xong Bảo Thoa đi ngay.
Đại Ngọc nói:
– Thôi anh cũng đi đi, ở đây có con hùm, khéo nó cắn cho đấy.
Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc vẫn cúi xuống cắt, không để ý đến mình, đành phải cười nói:
– Em nên ra đi dạo chơi, rồi về khâu cũng chưa muộn.
Đại Ngọc vẫn không trả lời. Bảo Ngọc liền hỏi đám a hoàn:
– Ai bảo cô ấy khâu thế?
Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc hỏi bọn a hoàn, liền nói:
– Ai bảo tôi khâu thì mặc tôi, việc gì đến cậu Hai!
Bảo Ngọc muốn nói nữa, thấy có người đến báo: “Bên ngoài có người mời cậu”, liền đứng dậy ra ngay.
Đại Ngọc ngoảnh ra ngoài nói:
A di đà Phật! Khi anh trở về, tôi có chết cũng xong.
Bảo Ngọc ra ngoài, thấy Bồi Dính chạy lại nói:
– Người nhà cậu Phùng đến mời.
Bảo Ngọc biết ngay là câu chuyện hôm nọ, liền bảo: “Mang quần áo ra đây”. Rồi quay vào thư phòng.
Bồi Dính vào ngay cửa thứ hai đứng đợi người hầu. Thấy một bà già đi ra. Bồi Dính nói:
Cậu Bảo đương ở thư phòng, chờ lấy quần áo đi chơi, bà về đưa tin ngay cho họ biết.
Con mẹ mày! Cậu Bảo đứng ở ngoài vườn, những người hầu đều theo ra đó cả, mày lại vào đây đưa tin à?
Bà mắng là phải, tôi thực là hồ đồ.
Bồi Dính chạy vào cửa thứ hai phía đông, gặp bọn hầu nhỏ đương đá cầu ở con đường trước cửa. Bồi Dính báo cho chúng biết. Một đứa chạy ngay đi, một chốc mang bọc quần áo đến, đưa cho Bồi Dính đem về thư phòng.
Bảo Ngọc thay quần áo xong, sai người thắng ngựa và cho bốn đứa tiểu đồng là Bồi Dính, Sừ Dược, Song Thụy, Song Thọ theo hầu. Họ đi thẳng đến nhà Phùng Tử Anh. Có người vào báo, Tử Anh ra cửa mời vào. Tiết Bàn cũng đã đến đấy từ lâu Lại có cả
bọn con hát nhỏ và người hay đóng vai nữ là Tưởng Ngọc Hàm cùng kỹ nữ ở viện Cẩm Hương là Vân Nhi nữa. Chào nhau xong, mọi người ngồi uống nước. Bảo Ngọc cầm chén nước trà cười nói:
Hôm nọ anh nói việc “may trong không may” làm cho tôi ngày đêm nghĩ ngợi, không biết là việc gì? Hôm nay cho gọi, tôi phải đến ngay.
Phùng Tử Anh cười nói:
Các anh thực thà quá. Chẳng qua tôi đặt lời ra đấy thôi. Nguyên tôi thành tâm sửa một tiệc rượu mời các anh, nhưng sợ các anh từ chối, nên tôi bịa ra như thế, ngờ đâu các anh lại tin là thực.
Mọi người nghe xong cười ầm lên. Tiệc bày ra theo thứ tự mời ngồi. Phùng Tử Anh trước hết bảo bọn con hát trẻ đến rót rượu, rồi bảo Vân Nhi mời ba chén.
Tiết Bàn mới uống mấy chén, bụng đã xiêu xiêu, cầm tay Vân Nhi nói:
Cô có khúc nào mới lạ, hát cho tôi nghe, tôi sẽ uống hết một vò rượu, thế có được không?
Vân Nhi nghe nói, gẩy đàn tì bà rồi hát:
Oan nghiệt đôi nhà, khó mà gỡ ra, nhớ khi đi khỏi, vẫn áy náy đến người xa. Trai lơ sắc sảo, ai mà vẽ hệt được dáng điệu đôi ta. Nhớ đêm trước thì thào ở dưới rặng hoa trà, chị thì lấm lét, anh cố lân la, trước tam tào đem ra tra, thôi chối sao được mà!
Hát xong cười nói:
Tôi hát xong rồi, cậu uống cả vò đi.
Chưa đáng uống. Hát bài nào hay hơn kia! Bảo Ngọc cười nói:
Hãy nghe tôi nói đã: cứ uống bừa đi như thế, dễ say mà chẳng có thú gì. Tôi uống trước một chén lớn, rồi ra một cái lệnh mới, hễ ai không theo, phải phạt mười chén lớn, đuổi ra ngoài tiệc, bắt rót rượu mời mọi người.
Phùng Tử Anh và Tưởng Ngọc Hàm đều nói:
Phải đấy, phải đấy!
Bảo Ngọc cầm ngay chén lớn uống một hơi hết, rồi nói:
– Bây giờ phải nói bốn chữ: “bi”, “sầu”, “hỉ”, “lạc”(1), nhưng phải tả ra thân phận
người con gái, và nói rõ cớ gì mà có bốn chữ ấy. Xong rồi uống một chén rượu. Khi uống, phải hát một bài mới, đến cuối, phải tức khắc đọc một câu gì, hoặc là câu sẵn có
trong tứ thư, ngũ kinh, hoặc là câu thơ câu đối cũ. Tiết Bàn không chờ nói hết, đứng ngay dậy, gạt đi:
– Tôi không dự cuộc ấy đâu, đừng có tính vào đấy. Các anh định đùa tôi chứ gì! Vân Nhi đứng dậy đẩy hắn ngồi xuống, cười nói:
– Sợ cái gì? Ngày ngày cậu chỉ biết rượu chè thôi, chẳng lẽ lại thua cả tôi nữa à? Tôi cứ việc nói. Nói phải thì thôi, không phải, chịu phạt mấy chén là cùng, có say đã chết ai? Bây giờ cậu trái lệnh, phải uống mười chén lớn rồi đành chịu đi rót rượu mời người ta à?
Mọi người đều vỗ tay khen hay quá! Tiết Bàn không làm thế nào được, đành phải ngồi xuống, nghe Bảo Ngọc nói:
Gái này thương, buổi đương xuân, trơ trọi trong buồng; Gái này buồn, tham hầu, chàng phải xa vắng luôn!
Gái này mừng, buổi sớm soi gương đẹp quá chừng; Gái này vui, áo xuân mỏng mảnh đánh đu chơi.
Mọi người nghe đều khen “hay”! Chỉ có Tiết Bàn vênh mặt lắc đầu: – Không hay, đáng phạt!
Mọi người hỏi:
– Sao lại đáng phạt? Tiết Bàn nói:
– Anh ấy nói tôi chẳng hiểu gì cả, sao lại không đáng phạt? Vân Nhi liền dúi Tiết Bàn một cái, cười nói:
– Cứ ngồi yên, nghĩ sẵn câu của mình đi. Đến lượt mà không nói được thì phải phạt đấy.
Rồi Vân Nhi gẩy đàn theo, Bảo Ngọc hát: Bao giờ hết, giọt lệ tương tư rơi đỏ ngòm, Bao giờ nở, xuân về hoa liễu trước lầu son, Nằm trằn trọc, song the, mưa gió buổi hoàng hôn. Nghĩ vẩn vơ, mối sầu mới cũ cùng đổ dồn!
Nuốt không trôi, rượu vàng gạo ngọc nào biết ngon,
Soi không rõ, đứng trước gương lăng mặt héo hon!
Nét ngài cau cau lại, giọt đồng hồ dồn dập hơn.
Chao ôi! Nào khác gì: trôi đi, nước biếc dòng man mác, Dừng lại, non xanh bóng chập chờn.
Hát xong, mọi người khen hay, chỉ có Tiết Bàn nói:
– Chẳng hay gì cả.
Bảo Ngọc uống chén rượu đầu, rồi cầm miếng lê và đọc một câu: Hoa lẽ mưa đẫm cửa
cài then. Thế là xong một lệnh.
Đến lượt Phùng Tử Anh nói:
Gái này thương, chàng mắc bệnh nặng nằm trên giường, Gái này sầu, gió thổi lầu tranh sập đổ nhào.
Gái này mừng, đầu lòng sinh đôi sướng quá chừng,
Gái này vui, lẻn bước ra vườn đào để chơi.
Nói xong cầm chén rượn hát:
Mình là hạng thông minh,
Mình là kẻ đa tình,
Mình là giống ma quỉ kỳ quái yêu tinh.
Mình là bậc thần tiên, nhưng phép không linh.
Đây bảo mình, mình cứ làm thinh,
Thấy nói đến nơi nào vắng vẻ, dò xét cho rành. Mới biết là đây thương hay không thương mình!
Hát xong, uống chén rượn, rồi đọc câu: “Trăng tỏ lều tranh nhộn tiếng gà”. Thế là xong lệnh.
Rồi đến lượt Vân Nhi nói:
Gái này thương, sau này nào biết chốn tựa nương?
Tiết Bàn cười nói:
Con ơi! Đã có bố Tiết mày đây, sợ gì? Mọi người đều nói:
Đừng phá đám! Đừng phá đám!
Vân Nhi lại nói:
Gái này buồn, cái mụ dầu kia đánh mắng luôn!
Tiết Bàn nói:
Hôm nọ tao gặp mẹ mày, tao đã bảo mụ ấy không được đánh mắng mày kia mà. Mọi người đều nói:
Còn nói nữa, sẽ phạt mười chén rượu.
Không có tai à! Cấm không được nói nữa! Vân Nhi lại nói:
Gái này mừng, trong nhà ở với bạn tình chung, Gái này vui, buông tay tiêu sáo gảy đàn chơi. Nói xong liền hát:
Tháng ba đậu mới trồi hoa, Sâu kia đâu đã lân la đục rồi. Đục vào cũng uổng công thôi, Trên hoa tấp tểnh lên ngồi đánh đu. Khen cho mi cũng gan to,
Ta không nở nữa, đục rau được nào?
Hát xong uống chén rượu, rồi đọc câu: “Hoa đào mơn mởn”. Thế là xong lệnh. Đến lượt Tiết Bàn. Hắn nói:
Giờ tôi nói này: Gái này thương…
Thương cái gì? Nói nhanh lên. Tiết Bàn mắt trợn tròn nói:
Gái này thương…
Gái này thương, thân này lấy phải anh chàng “rùa đen”(2). Mọi người nghe xong, cười ầm lên. Tiết Bàn nói:
Cười cái gì? Tôi nói thế không phải à? Người con gái lấy phải thằng chồng mất dạy, thì chả đau ruột hay sao?
Mọi người cười rũ rượi:
Anh nói phải đấy, thôi đọc câu dưới đi. Tiết Bàn lại trợn mắt nói:
Gái này buồn… – rồi tắc tị, không nói được. Mọi người hỏi:
Buồn cái gì?
Gái này buồn, phòng thêu gấu ngựa nó luồn chạy ra. Mọi người cười ầm lên:
Đáng phạt, đáng phạt! Câu trước còn có thể tha được, câu này không thông một tí nào.
Nói xong toan rót rượu phạt. Bảo Ngọc nói:
Nhưng mà ghép vần cũng khá đấy.
Quan giữ lệnh đã cho được rồi, các anh còn nhắng lên gì! Mọi người nghe thấy mới thôi.
Vân Nhi cười nói:
Đến hai câu dưới càng khó đấy, tôi nói hộ cậu nhé.
Bậy nào! Thế ra ta không mở miệng được à? Nghe này: Gái này mừng, đuốc hoa trời đã sáng trưng còn nằm.
Mọi người nghe đọc, đều lấy làm lạ hỏi nhau:
Sao câu này lại nhã thế?
Gái này vui, con cu nghí ngoáy định chui ngay vào. Mọi người nghe xong, đều quay đầu nói:
Đáng chết, đáng chết! Thôi hát đi!
Tiết Bàn liền hát:
– Một con muỗi kêu vo vo vo.
Mọi người đều ngơ ngác nói:
Khúc hát gì đấy? Tiết Bàn lại hát:
Hai con nhặng kêu vù vù vù. Mọi người đều nói:
Thôi, thôi đi!
Các anh thích nghe không, đó là khúc mới đấy, gọi là khúc hát vo vo. Nếu các anh không buồn nghe thì cả lượt cuối cũng xin miễn.
Mọi người đều nói:
Thôi tha cho, đừng làm nhỡ cả người khác.
Phượng loan tìm bạn, trăm phần khéo khôn. Ối chà! Sông Ngân dọi, trống canh dồn, Khêu đèn ta khẽ màn loan cùng vào.
Thơ từ tôi không biết mấy, may hóm nọ thấy đôi câu đối, tôi chỉ nhớ được một vế, nay gặp trên bàn tiệc này cũng có vật ấy.
Nói xong, uống cạn chén rượn, cầm cái hoa quế lên đọc: Mùi hoa buổi sớm ấm ran cả người(3).
Mọi người đều cho là được. Thế là xong lệnh. Tiết Bàn nhảy lên la hét ầm ĩ:
Không được, không được! Phải phạt! Phải phạt! Trong tiệc này làm gì có bảo bối, sao lại nói đến bảo bối?
Tưởng Ngọc Hàm ngơ ngác nói:
Có bảo bối nào đâu?
– Anh còn chối à! Thử nói lại xem.
Hai chữ “tập nhân” không phải “bảo bối” là gì? Các anh không tin, thử hỏi anh ấy xem.
Nói xong giơ tay trỏ vào Bảo Ngọc. Bảo Ngọc rất khó chịu, đứng dậy nói:
Anh Tiết đáng phạt bao nhiêu?
Tiết Bàn nói “đáng phạt, đáng phạt!”. Sau đó cầm chén rượu uống một hơi hết.
Phùng Tử Anh và Tưởng Ngọc Hàm hỏi duyên cớ vì sao. Vân Nhi liền nói cho họ biết. Tưởng Ngọc Hàm vội đứng dậy nhận lỗi. Mọi người đều nói: – Người không biết thì không bắt lỗi.
Một chốc, Bảo Ngọc ra ngoài đi giải, Tưởng Ngọc Hàm theo ra. Hai người đứng ở dưới thềm, Tưởng Ngọc Hàm lại xin lỗi một lần nữa. Bảo Ngọc thấy hắn mềm mại nhu mì, liền nắm chặt lấy tay nói:
Lúc nào rỗi sang chơi tôi nhé. Tôi muốn hỏi một điều, trong ban hát ta có một người tên là Kỳ Quan, nổi tiếng nhất thiên hạ, tiếc tôi vô duyên, không được gặp.
Ngọc Hàm cười đáp:
Đó là tên tục của tôi đấy.
Thực là may, thực là may! Quả nhiên tiếng đồn không sai. Giờ mới gặp lần đầu, biết làm thế nào đây.
Nghĩ một lúc rồi lấy cái quạt ở trong tay áo ra, cởi viên ngọc ở dây quạt đưa cho Kỳ Quan và nói:
Vật nhỏ này không đáng bao nhiêu, gọi là tỏ mối tình ngày hôm nay.
Kỳ Quan cầm lấy, cười nói:
– Tôi không có công gì, đâu đáng nhận đồ tặng. Nhưng thôi, tôi cũng có một vật lạ,
sáng hôm nay mới thắt vào người, hãy còn mới nguyên, xin tặng lại cậu, để tỏ lòng quý mến của tôi.
Nói xong hắn vén áo lên, cởi cái thắt lưng lụa màu hồng, thắt trong áo lót, đưa tặng
Bảo Ngọc và nói:
Cái thắt lưng này là đồ cống của nữ quốc vương nước Phiến Hương, mùa hè thắt vào, da thịt thơm nức, không có mồ hôi. Hôm nọ Bắc Tĩnh vương cho, tôi vừa mới thắt vào người. Tôi không bao giờ định tặng ai. Xin cậu cởi cái thắt lưng của cậu ra cho tôi.
Bảo Ngọc nghe nói mừng quá, vội nhận ngay, và cởi thắt lưng màu hoa tùng của mình đưa cho Kỳ Quan. Hai người vừa thắt xong, nghe thấy tiếng kêu to: “Ta bắt được rồi”. Tiết Bàn ở đâu nhảy ra kéo hai người lại nói:
Hai người này bỏ rượu không uống, trốn tiệc ra ngoài, định làm trò gì đây? Đưa ngay ra đây cho ta xem!.
Hai người đều chối không có cái gì cả. Tiết Bàn không nghe. Phùng Tử Anh thấy vậy ra can mới thôi. Mọi người về chỗ, uống rượu đến chiều mới tan.
Bảo Ngọc về đến trong vườn, cởi áo, uống nước. Tập Nhân thấy mất viên ngọc đeo ở quạt, liền hỏi:
Vứt đâu mất rồi?
Đi ngựa đánh rơi mất.
Tập Nhân cũng không hỏi lại nữa. Đến lúc đi ngủ, thấy Bảo Ngọc thắt cái thắt lưng đỏ như máu, Tập Nhân đã đoán ra được tám chín phần, bèn nói:
– Cậu có cái thắt lưng đẹp nhỉ. Thôi, giả cái thắt lưng của tôi đây.
Bảo Ngọc nghe nói mới nhớ ngay cái thắt lưng trước là của Tập Nhân, đáng ra không nên đem cho người khác mới phải, bụng rất hối hận, nhưng không tiện nói ra, đành phải tươi cười:
Thôi tôi xin đền chị cái khác vậy. Tập Nhân nghe nói, cúi đầu than thở:
Tôi biết cậu vẫn hay giở trò ấy. Từ nay, cậu không nên lấy cái của tôi đem cho bọn đốn mạt nào. Cậu thật chẳng suy nghĩ gì cả.
Tập Nhân muốn nói mấy câu nữa, nhưng lại sợ Bảo Ngọc đương say phát cáu, nên
đành phải đi ngủ.
Hôm sau dậy, Bảo Ngọc cười nói:
– Đêm qua chị mất trộm mà không biết, thử nhìn xuống quần xem.
Tập Nhân cúi đầu, thấy cái thắt lưng của Bảo Ngọc tự nhiên lại thắt vào mình. Tập Nhân biết rằng ban đêm Bảo Ngọc đánh tráo, vội vàng cởi ngay ra và nói: – Tôi không thèm cái này, vứt ngay nó đi.
Bảo Ngọc thấy thế, liền dịu dàng khuyên giải. Tập Nhân không biết làm thế nào, đành phải thắt vậy. Sau đó Bảo Ngọc đi ra ngoài, Tập Nhân mới cởi ra, vứt vào cái hòm không, rồi lại thắt cái thắt lưng của mình.
Bảo Ngọc cũng không để ý đến việc ấy nữa. Nhân hỏi:
Hôm qua ở nhà có việc gì không? Tập Nhân nói:
Mợ Hai sai người đến gọi Hồng Ngọc sang bên ấy. Nó muốn chờ cậu về, nhưng tôi nghĩ việc này cũng không quan trọng, nên đã cho nó sang rồi.
Thôi cũng được. Việc ấy tôi đã biết rồi, không cần phải chờ tôi nữa.
Hôm qua Quý phi cho Hạ thái giám đem một trăm hai mươi lạng bạc về, bảo phải đến quán Thanh Hư làm lễ cầu an trong ba ngày, từ mồng một đến mồng ba và bảo ông Trân dẫn cả nhà ra đấy dâng hương lễ Phật. Lại còn đồ thưởng về tết Đoan ngọ nữa.
Nói xong, sai đứa hầu bé đem các đồ vật ra; một đôi quạt hạng nhất trong cung, hai chuỗi hạt châu xạ hương, hai tấm là, một bức mành phù dung.
Bảo Ngọc thấy những vật ấy thích lắm, hỏi Tập Nhân:
Những người khác cũng được thế này chứ?
Cụ được thêm một cây như ý thơm, một cái gối mã não. Bà và dì Tiết mỗi người được thêm một cây như ý. Cậu với cô Bảo bằng nhau. Cô Lâm và cô Hai, cô Ba, cô Tư mỗi cô được một cái quạt và vài hạt châu, không có gì nữa. Mợ Cả, mợ Hai mỗi người hai tấm the, hai tấm lụa, hai cái túi thơm, hai thoi thuốc.
Thế là nghĩa làm sao? Sao lại không cho cô Lâm mà cho cô Bảo bằng tôi? Hay là nghe nhầm đấy?
Hôm qua mang ra xem, phần nào phần nấy có biên thẻ cả, sao lại nhầm được? Phần
cậu gởi ở phòng cụ, để tôi đến lấy. Cụ dặn đến sớm mai, trống canh năm, cậu phải vào tạ ơn.
– Phải vào mới được chứ.
Nói xong Bảo Ngọc bảo Tử Quyên:
Chị mang những cái này đưa cho cô lâm, bảo là phần của tôi đấy, cô ấy thích cái gì, cứ để lại mà dùng.
Tử Quyên đem đi, một chốc về nói:
Cô Lâm bảo hôm qua cô ấy cũng đã có phần rồi, cậu cứ để lại mà dùng.
Bảo Ngọc nghe nói, sai người cất những thứ ấy đi. Rửa mặt xong, Bảo Ngọc sang chào
Giả mẫu, thấy Đại Ngọc từ đầu kia đi lại. Bảo Ngọc chạy ngay lại cười nói:
– Anh bảo em chọn lấy những thứ của anh mà dùng, sao em không lấy?
Đại Ngọc quên hết những chuyện hờn giận Bảo Ngọc hôm nọ, chỉ nghĩ đến việc lúc này thôi, liền nói:
Nhà em ít phúc, không đáng dùng những thứ ấy. Chúng em chẳng qua chỉ là hạng cỏ rác thôi, so đâu được với cô Bảo là người “vàng” người “ngọc”.
Nghe thấy Đại Ngọc nhắc đến hai chữ “vàng”, “ngọc”, Bảo Ngọc đâm ra ngờ, liền nói:
Người ngoài nói “vàng, “ngọc” thế nào mặc họ, chứ bụng anh mà nghĩ đến điều ấy, thì trời tru đất diệt, muôn kiếp không được làm người!
Đại Ngọc nghe vậy, biết ngay là Bảo Ngọc có ý nghi ngờ, vội cười nói:
Thật chán chưa! Cứ thề với bồi? Ai để ý đến “vàng”, “ngọc” làm gì?
Khó nói cho em biết tâm sự của anh, sau này em sẽ hiểu. Anh xin thề rằng, trừ bà và cha mẹ anh ra, thì em là người thứ tư của anh đấy. Không còn có người thứ năm nảo nữa.
Anh không cần phải thề, em biết bụng anh vẫn nghĩ đến “cô em”, nhưng khi nào gặp “cô chị” lại quên khuấy “cô em” đi.
Em hay đa nghi, anh không phải hạng người thế đâu.
Hôm nọ cô Bảo không hùa theo những câu nói dối của anh, vì cớ gì anh lại quay sang hỏi em? Nếu phải là em, thì không biết anh đối xử như thế nào?
Đương nói chuyện thì Bảo Thoa từ phía trước đi đến, hai người mới rời nhau ra, Bảo Thoa trông thấy rõ ràng, nhưng giả lờ như không, cứ cúi đầu đi qua. Bảo Thoa sang
bên Vương phu nhân ngồi một lúc, rồi sang bên Giả mẫu, đã thấy Bảo Ngọc ngồi đấy rồi.
Bảo Thoa nhớ lại trước kia mẹ mình nói chuyện với Vương phu nhân về việc vị sư cho cái khóa vàng, bảo chờ ngày sau ai có ngọc mới kết hôn, vì thế chỉ muốn tìm cách tránh xa Bảo Ngọc. Hôm nọ Nguyên Xuân lại cho các thứ cũng như Bảo Ngọc, trong lòng càng thêm áy náy khó nghĩ. May sao Bảo Ngọc lại hay quấn quít với Đại Ngọc, lúc nảo cũng tâm tâm niệm niệm đến Đại Ngọc, nên Bảo Thoa cũng không để ý đến việc ấy Chợt đâu Bảo Ngọc cười nói: “Chị Bảo cho tôi xem cái chuỗi hột thơm của chị nào?” Lúc này Bảo Thoa đang đeo chuỗi hột thơm ở cánh tay bên trái, thấy Bảo Ngọc hỏi, đành phải tháo ra.
Nhưng vì Bảo Thoa da thịt nõn nà, mập mạp, tháo mãi không được. Bảo Ngọc đứng bên cạnh thấy bắp thịt trắng muốt, đâm ra thèm muốn, nghĩ thầm: “Nếu cái bắp tay này mà ở vào người cô Lâm, may ra có lúc được mó một cái; nhưng lại ở vào tay cô Bảo thì ta thực là kém phúc”. Chợt nghĩ đến chuyện vàng và ngọc, Bảo Ngọc ngắm nghía đến dáng điệu Bảo Thoa, thấy da mặt nõn nà, khóe mắt long lanh, không đánh sáp mà làn môi vẫn đỏ, không kẻ mày mà nét ngài vẫn xanh, so với Đại Ngọc lại có vẻ phong lưu thùy mị riêng, Bảo Ngọc bất giác đứng ngẩn người ra. Đến khi Bảo Thoa đưa chuỗi hạt, Bảo Ngọc quên đi không buồn cầm lấy.
Bảo Thoa thấy thế, cảm thấy ngượng ngùng, liền vứt chuỗi hạt xuống, toan quay người đi, thấy Đại Ngọc đứng ở bực cửa, ngậm cái khăn lụa cười. Bảo Thoa nói:
Chị không chịu được gió, sao lại ra đứng trước ngọn gió làm gì? Đại Ngọc cười nói:
Tôi mới ở trong buồng ra đấy, chỉ vì nghe thấy trên trời có tiếng chim kêu, chạy ra nhìn, thì ra là “con nhạn ngớ ngẩn”(4).
Bảo Thoa nói:
“Con nhạn ngớ ngẩn” ở đâu? Cho tôi xem với.
Đại Ngọc nới:
– Tôi vừa đến nơi, nó vụt bay mất.
Nói xong cầm cái khăn ném thẳng vào mặt Bảo Ngọc. Bảo Ngọc không biết, tự nhiên thấy khăn tay tạt vào mặt, liền kêu “ái chà” một tiếng.
—————————-
(1). Thương, buồn, mừng, vui.
(2). Dùng để chế anh chồng cho vợ đi ngoại tình.
(3). Nguyên văn là “hoa khí tập nhân tri trú noãn”. Hai chữ “tập nhân” trùng với tên Tập Nhân, a hoàn của Bảo Ngọc, nên Tiết Bàn mới lấy đó để chế nhạo Bảo Ngọc.
(4). Dùng để chế giễu người ngốc.
Chỉ vì việc tối hôm trước, Tình Văn không chịu mở cửa, Đại Ngọc ngờ rằng chủ ý của Bảo Ngọc. Hôm sau lại gặp ngay kỳ “tiễn hoa”, đương lúc tâm hồn u uất, chưa thoát ra được, lại thêm gợi lòng thương xuân, mối buồn rười rượi, vì thế cô ta nhặt lấy tất cả những cánh hoa rơi rụng, đem đi chôn cất để cám cảnh cho hoa và thương xót cho mình. Đại Ngọc khóc lên mấy tiếng, rồi ngâm luôn mấy câu thơ. Không ngờ Bảo Ngọc đứng bên kia nghe thấy, lúc đầu chỉ gật đầu than thở, sau nghe rõ bốn câu: Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ,
Sau này ta chết ai là người chôn?
…Hồng nhan thấm thoắt xuân qua,
Hoa tàn nguời vắng ai mà biết ai!
Bảo Ngọc thương cảm quá, thình lình ngã vật trên sườn núi, bao nhiêu hoa rụng nhặt được ở trong tay rơi vãi cả ra đất. Bảo Ngọc nghĩ ngay đến Đại Ngọc sắc đẹp như hoa, mặt trong như trăng, sau này ắt cũng có lúc không thể tìm thấy nữa, lẽ nào chả đứt ruột nát gan! Đại Ngọc đã có lúc không thể tìm thấy, cứ thế suy ra, những người như Bảo Thoa, Hương Lăng, Tập Nhân, cũng đều thế cả. Bọn Bảo Thoa đã vậy thì thân mình sẽ ở đâu? Thân mình còn chả biết ở đâu, đi đâu, thì nơi này, vườn này, hoa này, liễu này, biết thuộc về ai? Bảo Ngọc suy nghĩ miên man hết chuyện này sang chuyện khác, không biết đến giờ phút ấy, muốn làm vật xuẩn ngốc, không hiểu một tí gì, trốn vòng tạo hóa, thoát khỏi lưới trần, liệu có thể gỡ nổi mối đau thương ấy không. Thực là:
Bóng hoa đâu vẫn bên mình,
Tiếng chim đâu vẫn rành rành bên tai.
Đại Ngọc đương lúc thương cảm, chợt nghe sườn núi bên có tiếng than khóc, trong bụng nghĩ: “Ai cũng cười ta có bệnh si, chăng lẽ lại có người si nữa hay sao?” Ngẩng đầu nhìn thì ra Bảo Ngọc. Đại Ngọc liền phỉ thui nói:
– Hừ? Ngỡ ai, hóa ra lại là anh chàng thâm độc chết non!
Vừa nói đến hai tiếng “chết non”, Đại Ngọc bưng miệng thở dài, rồi chạy biến đi mất.
Bảo Ngọc đương khi đau xót, thấy Đại Ngọc chạy, biết cô ta trông thấy mình rồi trốn đì. Nghĩ nông nỗi thật buồn tênh, Bảo Ngọc lom khom trở dậy, xuống núi theo đường cũ trở về viện Di Hồng. May sao trông thấy Đại Ngọc chạy đằng trước, Bảo Ngọc vội vàng đuổi theo, nói:
Cô hãy đứng lại, tôi biết rằng bây giờ cô không thèm nhìn đến tôi nữa. Nhưng tôi xin nói một câu rồi chúng ta sẽ chia tay.
Đại Ngọc ngoảnh lại, thấy Bảo Ngọc, định kệ thây, nhưng lại nghe: “Chỉ xin nói một câu rồi sẽ chia tay”, Đại Ngọc đành phải đứng lại:
Câu gì xin anh cứ nói.
Xin cho vài câu, cô có thèm nghe hay không?
Đại Ngọc liền quay đầu chạy, Bảo Ngọc theo sau than:
Biết nông nỗi ngày nay, thì thà đừng gặp nhau từ trước. Đại Ngọc nghe vậy, đành phải đứng lại, hỏi:
Trước là thế nào? Mà nay là thế nào?
Ái chà! Khi cô mới đến đây, có phải ngày ngày chúng ta cùng chơi đùa với nhau không? Thứ gì tôi thích, cô cũng thích, thì cô cứ việc lấy đi; thứ gì tôi thích ăn, thấy cô cũng thích ăn, tôi cất cẩn thận để phần cô. Hai đứa ăn một bàn, ngủ một giường. Cái gì bọn a hoàn chưa nghĩ chu đáo, tôi sợ cô giận, nên đều tính trước hộ bọn họ. Tôi cho rằng: anh em ta từ nhỏ đến lớn, gần gụi nhau, thân thiết nhau, thì cũng nên hòa thuận với nhau hơn hẳn các người mới phải. Ngờ đâu cô lớn lên lòng khác hẳn, không coi tôi vào đâu, ba ngày chẳng thèm nhìn, bốn ngày chẳng thèm gặp, chỉ để ý những người xa lắc xa lơ, như chị Bảo, chị Phượng gì đó. Tôi chẳng có anh chị em ruột thịt nào cả. Tuy có đấy, nhưng cô đã chẳng biết là con khác mẹ hay sao? Tôi với cô đều là con một, chắc chúng ta cũng cùng một ý nghĩ, ngờ đâu phí cả tấm lòng, thật là có oan khôn đường bày tỏ?
Nói xong, nước mắt ròng ròng nhỏ xuống.
Đại Ngọc tai nghe mắt thấy trước câu nói và quang cảnh ấy, bất giác lòng dịu hẳn đi, nước mắt tự nhiên nhỏ xuống ròng ròng, cúi đầu không nói gì. Bảo Ngọc thấy tình thế như vậy, nói luôn:
Tôi biết rồi, giờ tôi cũng chẳng tốt gì! Nhưng dù sao, tôi cũng không dám có điều gì lầm lỗi với cô. Nếu có, cô cũng nên bảo tôi, răn tôi, hoặc mắng tôi mấy câu, đánh tôi mấy cái, tôi không dám mủi lòng. Ngờ đâu cô không thèm nhìn đến tôi, để tôi nghĩ mãi, chẳng biết đầu đuôi ra sao, lắm phen phải kinh hồn mất vía! Nếu tôi chết đi, cũng là con quỉ chết oan, dù nhờ các vị cao tăng, cao đạo đọc kinh sám hối, cũng chẳng có thể siêu sinh được; chỉ có cô, nói rõ ngành ngọn cho, may ra tôi mới được hóa kiếp!
Đại Ngọc nghe xong, câu chuyện tối qua tự nhiên bay đâu hết sạch, liền nói:
Anh đã nói thế, thì tại sao tối hôm qua tôi đến, anh lại không cho a hoàn mở cửa? Bảo Ngọc kinh ngạc nói:
Chuyện ấy ở đâu mà ra? Nếu tôi có làm thế thì tôi chết ngay!
Đại Ngọc phỉ thui:
Vừa mới sáng sớm đã nói chết với sống, không kiêng à! Có nói là nói, không nói là không, việc gì mà anh phải thề.
Bảo Ngọc nói:
Tối hôm qua, thực không thấy em đến, chỉ có chị Bảo Thoa đến một lúc rồi về thôi. Đại Ngọc nghĩ một lúc, cười nói:
Phải rồi. Chắc là bọn a hoàn lười không muốn dậy, đâm ra nói bừa, gắt bậy. Chuyện ấy cũng có thể có được.
Chắc thế, để anh về hỏi xem đứa nào, phải răn bảo chúng mới được.
Anh cũng nên răn bảo các cô ấy, cứ lẽ ra tôi không đáng nói. Nhưng lần này có lỗi với tôi là chuyện nhỏ, chứ lần sau không may có lỗi với cô Bảo, cô “Bối” nào đấy, tất xảy chuyện to.
Nói xong, nhoẻn miệng cười. Bảo Ngọc nghe xong, nghiến răng bực bội, sau lại cười phá lên.
Hai người đương nói chuyện, thấy a hoàn đến mời đi ăn cơm, họ liền đi ngay. Vương phu nhân thấy Đại Ngọc, hỏi:
Cô Lâm uống thuốc của ông lang họ Bảo có khá không?
Đại Ngọc thưa:
– Cũng vẫn thế thôi. Bà còn bảo cháu uống thuốc của thầy lang họ Vương nữa.
Bảo Ngọc thưa:
Mẹ không biết bệnh cô Lâm là chứng nội thương, tiên thiên kém lắm, không chịu nổi sương gió! Chỉ nên uống vài thang sơ tán phong hàn, rồi uống thuốc viên mới tốt. Vương phu nhân nói:
Hôm nọ thầy thuốc có nói tên một thứ thuốc viên, nhưng ta quên mất.
Con biết rồi. Thuốc ấy gọi là nhân sâm dưỡng vinh hoàn.
Không phải.
Hay là bát trân ích mẫu hoàn, tả qui, hữu qui, nếu không phải thì lại là bát vị địa hoàng hoàn.
Đều không phải cả. Ta nhớ có hai chữ “kim cương” gì ấy.
Xưa nay chưa nghe thấy có tên “kim cương hoàn” bao giờ. Nếu có kim cương hoàn tất nhiên phải có bồ tát hoàn.
Câu ấy làm cả nhà cười ầm lên. Bảo Thoa mỉm cười: Có lẽ là thiên vương bổ tâm đan thì đúng hơn. Vương phu nhân cười nói:
Chính là tên ấy đấy, bây giờ ta đâm ra hồ đồ! Bảo Ngọc nói:
Mẹ không hồ đồ đâu, chỉ tại người gọi là kim cương hay là bồ tát làm cho mẹ hồ đồ đấy thôi.
Mày định chọc cả mẹ mày à? Coi chừng cha mày lại cho mày ăn đòn đấy.
Chắc cha con cũng không vì việc ấy mà đánh con đâu!
Đã có thứ thuốc ấy, ngày mai bảo đi mua một ít về mà uống. Bảo Ngọc nói:
Thuốc ấy chẳng ăn thua gì đâu. Mẹ cứ cho con ba trăm sáu mươi lạng bạc, con sẽ làm cho cô ấy một tễ thuốc viên, chắc nhắn chưa uống hết tễ thuốc bệnh sẽ khỏi.
Mày chỉ nói bậy. Thuốc gì mà đắt đến thế?
Thật thế, thuốc ấy khác hẳn các thuốc khác. Tên thuốc này rất lạ, nói một lúc không thể hết được. Chỉ nói nhau đàn bà đẻ con so, nhân sâm có lá ba trăm sáu mươi lạng
cũng chưa đủ. Lại còn hà thủ ô lớn như con rùa, phục linh đởm ở rễ cây tùng nghìn năm; những thứ thuốc như thế cũng chưa lấy gì làm lạ, còn phải chọn thứ thuốc đầu vị nữa. Nói ra làm người ta phải rùng mình. Trước kia anh Tiết Bàn có xin con đơn thuốc ấy, hai ba năm sau con mới cho, anh ấy mang đi tìm đến hai ba năm nữa, tốn hết hơn một nghìn lạng bạc mới chế xong. Mẹ không tin, cứ hỏi chị Bảo sẽ biết. Bảo Thoa cười, xua tay nói:
Tôi không biết, tôi cũng chẳng nghe thấy ai nói chuyện ấy bao giờ. Anh đừng bảo dì hỏi tôi.
Vương phu nhân cười nói:
Con bé Bảo tốt đấy, nó không hay nói dối.
Con nói thực đấy, thế mà mẹ lại bảo con nói dối. Nói xong, Bảo Ngọc ngoảnh lại nhìn, thấy Đại Ngọc đương ngồi ở sau lưng Bảo Thoa mỉm cười, rồi lấy ngón tay vẽ vào mặt ra hiệu chế diễu Bảo Ngọc.
Phượng Thư đương ở nhà trong, trông nom người bày bàn, nghe vậy, liền chạy lại cười nói:
Việc này có thật đấy. Chú Bảo không nói dối đâu. Hôm nọ, anh Tiết có đến nhờ con tìm hộ hạt trân châu, con hỏi, anh ấy nói là để chế thuốc. Anh ấy còn phàn nàn: “Thà chẳng chế cho xong, biết đâu lại có nhiều chuyện rắc rối!” Con hỏi thuốc gì, anh ấy nói là đơn thuốc của chú Bảo cho. Anh ấy còn nói nhiều thứ nữa kia, con không nhớ hết, anh ấy lại nói: “Nếu không thì tôi mua ở đâu chả được mấy hạt trân châu, chỉ vì cần những hạt đã giắt ở trên đầu, nên phải đến đây tìm thím, không có thì lấy những hạt đính ở cành hoa cũng được. Sau này tôi sẽ đem những hạt khác tốt hơn giả lại thím”. Con đành phải lấy hai hạt đương cài trên đầu đưa cho anh ấy. Lại còn phải dùng một đoạn lụa hồng dài ba thước, rồi lấy bát sữa nghiền nhỏ, đem trộn với bột mới được.
Phượng Thư nói một câu, Bảo Ngọc niệm Phật một câu. Sau đó nói: “Có mặt trời chứng giám”. Phượng Thư nói xong, Bảo Ngọc lại nói:
Bây giờ mẹ nghĩ xem, chẳng qua là làm gượng đấy thôi, cứ theo đúng cách thức trong đơn, thì phải lấy những châu ngọc ở trong ngôi mộ của những người giàu sang
cài đầu ngày xưa khi chết đem chôn theo mới hay. Nhưng bây giờ không lẽ vì đơn thuốc lại đi đào bới người ta lên sao tiện. Vì thế chỉ dùng những thứ của người sống đeo cũng được.
Vương phu nhân nghe rồi nói:
A di đà Phật! Ai nỡ làm thế! Người ta chết mấy trăm năm rồi, lại còn đào thây bới xương lên để làm thuốc, thì còn linh nghiệm gì.
Bảo Ngọc quay lại nói với Đại Ngọc:
Em có nghe không? Lẽ nào chị Phượng cũng theo anh mà nói dối em à?
Bảo Ngọc ngoảnh mặt lại hỏi Đại Ngọc, nhưng mắt lại liếc sang bên Bảo Thoa.
Đại Ngọc liền kéo Vương phu nhân nói:
Mợ xem, chị Bảo không chịu vào hùa với anh ấy, thành ra anh ấy lại đi hỏi cháu. Vương phu nhân nói:
Bảo Ngọc cứ hay bắt nạt em mày.
Mẹ không biết nguyên do việc này. Chị Bảo khi trước ở nhà, anh Tiết làm việc gì chị ấy cũng không biết. Bây giờ lại sang ở bên này, tất nhiên càng không biết nữa. Cô Lâm ngồi ở đằng sau, cho là con bịa chuyện ra nói dối, nên cười giễu con.
Đương nói chuyện thì a hoàn ở buồng Giả mẫu đến mời Bảo Ngọc và Đại Ngọc về ăn cơm. Đại Ngọc không đợi Bảo Ngọc, liền đứng dậy kéo a hoàn đi. A hoàn nói:
Hãy chờ cậu Bảo cùng đi một thể.
Anh ấy không ăn đâu. Chúng ta đi thôi. Tôi đi trước đây.
Hôm nay con ăn cơm với mẹ. Vương phu nhân nói:
Thôi, thôi, hôm nay ta ăn chay, con về bên ấy mà ăn.
Con cũng ăn chay.
Nói xong Bảo Ngọc bảo a hoàn đi về rồi chạy đến ngồi vào bàn ăn. Vương phu nhân cười bảo bọn Bảo Thoa:
– Các cháu cứ đi ăn, mặc kệ nó.
Bảo Thoa cười nói:
Ăn hay không, anh cũng nên đi với cô Lâm mới phải; bụng cô ta đang khó chịu đấy. Bảo Ngọc nói:
Mặc kệ cô ta, chốc nữa là xong hết.
Ăn xong, Bảo Ngọc phần thì sợ Giả mẫu mong, phần cũng nhớ Đại Ngọc, vội vàng bảo lấy nước súc miệng. Thám Xuân, Tích Xuân đều cười:
Anh Hai sao lúc nào cũng vội vã thế? Ăn uống mà cũng lật đật như vậy. Bảo Thoa cười nói:
Anh ấy ăn xong rồi còn phải đi thăm cô Lâm, chứ ở đây làm gì?
Bảo Ngọc uống nước xong, sang ngay nhà phía tây. Đi đến phòng Phượng Thư, thấy Phượng Thư đang đứng ghếch chân trên ngưỡng cửa cầm cái ngoáy tai gợi răng và trông mười đứa hầu nhỏ vần mấy chậu hoa. Thấy Bảo Ngọc đến, Phượng Thư cười nói:
– May quá, chú lại viết hộ chị mấy chữ.
Bảo Ngọc đành phải theo vào buồng. Phượng Thư sai người đem bút giấy ra nói:
Chú viết: Bốn mươi tấm đoạn trơn màu đỏ, bốn mươi tấm đoạn thêu rồng, một trăm tấm the hạng tốt đủ các màu, vòng cổ bằng vàng bốn chiếc.
Thế nào? Không phải sổ mua bán, cũng không phải là giấy kê đồ lễ, viết thế này để làm gì?
Chú cứ viết, miễn sao chị hiểu là được.
Còn điều này nữa, không biết chú có bằng lòng không? Bên nhà chú có con a hoàn tên là Hồng Ngọc, tôi muốn lấy nó sang đây, ngày mai tôi sẽ cho đứa khác sang thay nó, liệu có được không?
Bên nhà tôi nhiều người lắm, chị thích đứa nào, cứ việc lấy, cần gì phải hỏi tôi.
Nếu thế thì tôi gọi nó về nhé.
Được, chị cứ việc gọi.
Nói xong, Bảo Ngọc chực đi ngay. Phượng Thư nói:
– Chú hãy đứng lại, tôi còn nói câu này nữa.
– Bà đang gọi tôi, có việc gì khi về sẽ hay.
Bảo Ngọc sang bên phòng Giả mẫu, đã thấy ăn xong cả rồi. Giả mẫu hỏi:
Ăn cơm bên mẹ cháu có gì ngon không?
Chả có gì ngon cả, nhưng cháu lại ăn thêm được một bát. Rồi hỏi:
Cô Lâm ở đâu?
Giả mẫu nói:
– Ở trong nhà kia kìa.
Bảo Ngọc đi vào, thấy một a hoàn đương ngồi dưới đất quạt bàn là, hai a hoàn ngồi trên giường xe chỉ, Đại Ngọc đang cúi xuống cầm kéo cắt cái gì. Bảo Ngọc chạy đến cười nói:
Ái chà! Em làm gì đấy, vừa ăn xong đã cúi gằm đầu xuống, khéo lại nhức đầu thôi. Đại Ngọc không trả lời, cứ ngồi may. Bỗng có một a hoàn nói:
Góc miếng lụa này còn nhăn, phải là lại mới được.
Đại Ngọc vứt kéo xuống nói:
– Mặc kệ nó, một chốc nữa là xong.
Bảo Ngọc nghe nói, sinh ra buồn rầu. Bỗng bọn Bảo thoa, Thám Xuân đến, nói chuyện với Giả mẫu. Một lúc, Bảo Thoa vào nhà trong, hỏi: “Em làm gì đấy?”. Thấy Đại Ngọc đương cắt may, Bảo Thoa cười nói:
Giỏi quá nhỉ. Em biết cả việc may cắt rồi đấy. Đại Ngọc cười nói:
Đó chẳng qua là câu chuyện lừa dối người thôi. Bảo Thoa cười nói:
Tôi kể cho cô nghe câu chuyện buồn cười: Vừa rồi chỉ vì tôi bảo không biết gì đến việc thuốc, nên anh Bảo cũng lấy làm khó chịu đấy.
Đại Ngọc nói:
Mặc kệ anh ấy, một chốc là xong hết.
Bà muốn đánh xúc xắc, không có ai, chị ra mà đánh vậy.
Thế ra tôi chỉ vì đánh xúc xắc mà đến đây à?
Nói xong Bảo Thoa đi ngay.
Đại Ngọc nói:
– Thôi anh cũng đi đi, ở đây có con hùm, khéo nó cắn cho đấy.
Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc vẫn cúi xuống cắt, không để ý đến mình, đành phải cười nói:
– Em nên ra đi dạo chơi, rồi về khâu cũng chưa muộn.
Đại Ngọc vẫn không trả lời. Bảo Ngọc liền hỏi đám a hoàn:
– Ai bảo cô ấy khâu thế?
Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc hỏi bọn a hoàn, liền nói:
– Ai bảo tôi khâu thì mặc tôi, việc gì đến cậu Hai!
Bảo Ngọc muốn nói nữa, thấy có người đến báo: “Bên ngoài có người mời cậu”, liền đứng dậy ra ngay.
Đại Ngọc ngoảnh ra ngoài nói:
A di đà Phật! Khi anh trở về, tôi có chết cũng xong.
Bảo Ngọc ra ngoài, thấy Bồi Dính chạy lại nói:
– Người nhà cậu Phùng đến mời.
Bảo Ngọc biết ngay là câu chuyện hôm nọ, liền bảo: “Mang quần áo ra đây”. Rồi quay vào thư phòng.
Bồi Dính vào ngay cửa thứ hai đứng đợi người hầu. Thấy một bà già đi ra. Bồi Dính nói:
Cậu Bảo đương ở thư phòng, chờ lấy quần áo đi chơi, bà về đưa tin ngay cho họ biết.
Con mẹ mày! Cậu Bảo đứng ở ngoài vườn, những người hầu đều theo ra đó cả, mày lại vào đây đưa tin à?
Bà mắng là phải, tôi thực là hồ đồ.
Bồi Dính chạy vào cửa thứ hai phía đông, gặp bọn hầu nhỏ đương đá cầu ở con đường trước cửa. Bồi Dính báo cho chúng biết. Một đứa chạy ngay đi, một chốc mang bọc quần áo đến, đưa cho Bồi Dính đem về thư phòng.
Bảo Ngọc thay quần áo xong, sai người thắng ngựa và cho bốn đứa tiểu đồng là Bồi Dính, Sừ Dược, Song Thụy, Song Thọ theo hầu. Họ đi thẳng đến nhà Phùng Tử Anh. Có người vào báo, Tử Anh ra cửa mời vào. Tiết Bàn cũng đã đến đấy từ lâu Lại có cả
bọn con hát nhỏ và người hay đóng vai nữ là Tưởng Ngọc Hàm cùng kỹ nữ ở viện Cẩm Hương là Vân Nhi nữa. Chào nhau xong, mọi người ngồi uống nước. Bảo Ngọc cầm chén nước trà cười nói:
Hôm nọ anh nói việc “may trong không may” làm cho tôi ngày đêm nghĩ ngợi, không biết là việc gì? Hôm nay cho gọi, tôi phải đến ngay.
Phùng Tử Anh cười nói:
Các anh thực thà quá. Chẳng qua tôi đặt lời ra đấy thôi. Nguyên tôi thành tâm sửa một tiệc rượu mời các anh, nhưng sợ các anh từ chối, nên tôi bịa ra như thế, ngờ đâu các anh lại tin là thực.
Mọi người nghe xong cười ầm lên. Tiệc bày ra theo thứ tự mời ngồi. Phùng Tử Anh trước hết bảo bọn con hát trẻ đến rót rượu, rồi bảo Vân Nhi mời ba chén.
Tiết Bàn mới uống mấy chén, bụng đã xiêu xiêu, cầm tay Vân Nhi nói:
Cô có khúc nào mới lạ, hát cho tôi nghe, tôi sẽ uống hết một vò rượu, thế có được không?
Vân Nhi nghe nói, gẩy đàn tì bà rồi hát:
Oan nghiệt đôi nhà, khó mà gỡ ra, nhớ khi đi khỏi, vẫn áy náy đến người xa. Trai lơ sắc sảo, ai mà vẽ hệt được dáng điệu đôi ta. Nhớ đêm trước thì thào ở dưới rặng hoa trà, chị thì lấm lét, anh cố lân la, trước tam tào đem ra tra, thôi chối sao được mà!
Hát xong cười nói:
Tôi hát xong rồi, cậu uống cả vò đi.
Chưa đáng uống. Hát bài nào hay hơn kia! Bảo Ngọc cười nói:
Hãy nghe tôi nói đã: cứ uống bừa đi như thế, dễ say mà chẳng có thú gì. Tôi uống trước một chén lớn, rồi ra một cái lệnh mới, hễ ai không theo, phải phạt mười chén lớn, đuổi ra ngoài tiệc, bắt rót rượu mời mọi người.
Phùng Tử Anh và Tưởng Ngọc Hàm đều nói:
Phải đấy, phải đấy!
Bảo Ngọc cầm ngay chén lớn uống một hơi hết, rồi nói:
– Bây giờ phải nói bốn chữ: “bi”, “sầu”, “hỉ”, “lạc”(1), nhưng phải tả ra thân phận
người con gái, và nói rõ cớ gì mà có bốn chữ ấy. Xong rồi uống một chén rượu. Khi uống, phải hát một bài mới, đến cuối, phải tức khắc đọc một câu gì, hoặc là câu sẵn có
trong tứ thư, ngũ kinh, hoặc là câu thơ câu đối cũ. Tiết Bàn không chờ nói hết, đứng ngay dậy, gạt đi:
– Tôi không dự cuộc ấy đâu, đừng có tính vào đấy. Các anh định đùa tôi chứ gì! Vân Nhi đứng dậy đẩy hắn ngồi xuống, cười nói:
– Sợ cái gì? Ngày ngày cậu chỉ biết rượu chè thôi, chẳng lẽ lại thua cả tôi nữa à? Tôi cứ việc nói. Nói phải thì thôi, không phải, chịu phạt mấy chén là cùng, có say đã chết ai? Bây giờ cậu trái lệnh, phải uống mười chén lớn rồi đành chịu đi rót rượu mời người ta à?
Mọi người đều vỗ tay khen hay quá! Tiết Bàn không làm thế nào được, đành phải ngồi xuống, nghe Bảo Ngọc nói:
Gái này thương, buổi đương xuân, trơ trọi trong buồng; Gái này buồn, tham hầu, chàng phải xa vắng luôn!
Gái này mừng, buổi sớm soi gương đẹp quá chừng; Gái này vui, áo xuân mỏng mảnh đánh đu chơi.
Mọi người nghe đều khen “hay”! Chỉ có Tiết Bàn vênh mặt lắc đầu: – Không hay, đáng phạt!
Mọi người hỏi:
– Sao lại đáng phạt? Tiết Bàn nói:
– Anh ấy nói tôi chẳng hiểu gì cả, sao lại không đáng phạt? Vân Nhi liền dúi Tiết Bàn một cái, cười nói:
– Cứ ngồi yên, nghĩ sẵn câu của mình đi. Đến lượt mà không nói được thì phải phạt đấy.
Rồi Vân Nhi gẩy đàn theo, Bảo Ngọc hát: Bao giờ hết, giọt lệ tương tư rơi đỏ ngòm, Bao giờ nở, xuân về hoa liễu trước lầu son, Nằm trằn trọc, song the, mưa gió buổi hoàng hôn. Nghĩ vẩn vơ, mối sầu mới cũ cùng đổ dồn!
Nuốt không trôi, rượu vàng gạo ngọc nào biết ngon,
Soi không rõ, đứng trước gương lăng mặt héo hon!
Nét ngài cau cau lại, giọt đồng hồ dồn dập hơn.
Chao ôi! Nào khác gì: trôi đi, nước biếc dòng man mác, Dừng lại, non xanh bóng chập chờn.
Hát xong, mọi người khen hay, chỉ có Tiết Bàn nói:
– Chẳng hay gì cả.
Bảo Ngọc uống chén rượu đầu, rồi cầm miếng lê và đọc một câu: Hoa lẽ mưa đẫm cửa
cài then. Thế là xong một lệnh.
Đến lượt Phùng Tử Anh nói:
Gái này thương, chàng mắc bệnh nặng nằm trên giường, Gái này sầu, gió thổi lầu tranh sập đổ nhào.
Gái này mừng, đầu lòng sinh đôi sướng quá chừng,
Gái này vui, lẻn bước ra vườn đào để chơi.
Nói xong cầm chén rượn hát:
Mình là hạng thông minh,
Mình là kẻ đa tình,
Mình là giống ma quỉ kỳ quái yêu tinh.
Mình là bậc thần tiên, nhưng phép không linh.
Đây bảo mình, mình cứ làm thinh,
Thấy nói đến nơi nào vắng vẻ, dò xét cho rành. Mới biết là đây thương hay không thương mình!
Hát xong, uống chén rượn, rồi đọc câu: “Trăng tỏ lều tranh nhộn tiếng gà”. Thế là xong lệnh.
Rồi đến lượt Vân Nhi nói:
Gái này thương, sau này nào biết chốn tựa nương?
Tiết Bàn cười nói:
Con ơi! Đã có bố Tiết mày đây, sợ gì? Mọi người đều nói:
Đừng phá đám! Đừng phá đám!
Vân Nhi lại nói:
Gái này buồn, cái mụ dầu kia đánh mắng luôn!
Tiết Bàn nói:
Hôm nọ tao gặp mẹ mày, tao đã bảo mụ ấy không được đánh mắng mày kia mà. Mọi người đều nói:
Còn nói nữa, sẽ phạt mười chén rượu.
Không có tai à! Cấm không được nói nữa! Vân Nhi lại nói:
Gái này mừng, trong nhà ở với bạn tình chung, Gái này vui, buông tay tiêu sáo gảy đàn chơi. Nói xong liền hát:
Tháng ba đậu mới trồi hoa, Sâu kia đâu đã lân la đục rồi. Đục vào cũng uổng công thôi, Trên hoa tấp tểnh lên ngồi đánh đu. Khen cho mi cũng gan to,
Ta không nở nữa, đục rau được nào?
Hát xong uống chén rượu, rồi đọc câu: “Hoa đào mơn mởn”. Thế là xong lệnh. Đến lượt Tiết Bàn. Hắn nói:
Giờ tôi nói này: Gái này thương…
Thương cái gì? Nói nhanh lên. Tiết Bàn mắt trợn tròn nói:
Gái này thương…
Gái này thương, thân này lấy phải anh chàng “rùa đen”(2). Mọi người nghe xong, cười ầm lên. Tiết Bàn nói:
Cười cái gì? Tôi nói thế không phải à? Người con gái lấy phải thằng chồng mất dạy, thì chả đau ruột hay sao?
Mọi người cười rũ rượi:
Anh nói phải đấy, thôi đọc câu dưới đi. Tiết Bàn lại trợn mắt nói:
Gái này buồn… – rồi tắc tị, không nói được. Mọi người hỏi:
Buồn cái gì?
Gái này buồn, phòng thêu gấu ngựa nó luồn chạy ra. Mọi người cười ầm lên:
Đáng phạt, đáng phạt! Câu trước còn có thể tha được, câu này không thông một tí nào.
Nói xong toan rót rượu phạt. Bảo Ngọc nói:
Nhưng mà ghép vần cũng khá đấy.
Quan giữ lệnh đã cho được rồi, các anh còn nhắng lên gì! Mọi người nghe thấy mới thôi.
Vân Nhi cười nói:
Đến hai câu dưới càng khó đấy, tôi nói hộ cậu nhé.
Bậy nào! Thế ra ta không mở miệng được à? Nghe này: Gái này mừng, đuốc hoa trời đã sáng trưng còn nằm.
Mọi người nghe đọc, đều lấy làm lạ hỏi nhau:
Sao câu này lại nhã thế?
Gái này vui, con cu nghí ngoáy định chui ngay vào. Mọi người nghe xong, đều quay đầu nói:
Đáng chết, đáng chết! Thôi hát đi!
Tiết Bàn liền hát:
– Một con muỗi kêu vo vo vo.
Mọi người đều ngơ ngác nói:
Khúc hát gì đấy? Tiết Bàn lại hát:
Hai con nhặng kêu vù vù vù. Mọi người đều nói:
Thôi, thôi đi!
Các anh thích nghe không, đó là khúc mới đấy, gọi là khúc hát vo vo. Nếu các anh không buồn nghe thì cả lượt cuối cũng xin miễn.
Mọi người đều nói:
Thôi tha cho, đừng làm nhỡ cả người khác.
Phượng loan tìm bạn, trăm phần khéo khôn. Ối chà! Sông Ngân dọi, trống canh dồn, Khêu đèn ta khẽ màn loan cùng vào.
Thơ từ tôi không biết mấy, may hóm nọ thấy đôi câu đối, tôi chỉ nhớ được một vế, nay gặp trên bàn tiệc này cũng có vật ấy.
Nói xong, uống cạn chén rượn, cầm cái hoa quế lên đọc: Mùi hoa buổi sớm ấm ran cả người(3).
Mọi người đều cho là được. Thế là xong lệnh. Tiết Bàn nhảy lên la hét ầm ĩ:
Không được, không được! Phải phạt! Phải phạt! Trong tiệc này làm gì có bảo bối, sao lại nói đến bảo bối?
Tưởng Ngọc Hàm ngơ ngác nói:
Có bảo bối nào đâu?
– Anh còn chối à! Thử nói lại xem.
Hai chữ “tập nhân” không phải “bảo bối” là gì? Các anh không tin, thử hỏi anh ấy xem.
Nói xong giơ tay trỏ vào Bảo Ngọc. Bảo Ngọc rất khó chịu, đứng dậy nói:
Anh Tiết đáng phạt bao nhiêu?
Tiết Bàn nói “đáng phạt, đáng phạt!”. Sau đó cầm chén rượu uống một hơi hết.
Phùng Tử Anh và Tưởng Ngọc Hàm hỏi duyên cớ vì sao. Vân Nhi liền nói cho họ biết. Tưởng Ngọc Hàm vội đứng dậy nhận lỗi. Mọi người đều nói: – Người không biết thì không bắt lỗi.
Một chốc, Bảo Ngọc ra ngoài đi giải, Tưởng Ngọc Hàm theo ra. Hai người đứng ở dưới thềm, Tưởng Ngọc Hàm lại xin lỗi một lần nữa. Bảo Ngọc thấy hắn mềm mại nhu mì, liền nắm chặt lấy tay nói:
Lúc nào rỗi sang chơi tôi nhé. Tôi muốn hỏi một điều, trong ban hát ta có một người tên là Kỳ Quan, nổi tiếng nhất thiên hạ, tiếc tôi vô duyên, không được gặp.
Ngọc Hàm cười đáp:
Đó là tên tục của tôi đấy.
Thực là may, thực là may! Quả nhiên tiếng đồn không sai. Giờ mới gặp lần đầu, biết làm thế nào đây.
Nghĩ một lúc rồi lấy cái quạt ở trong tay áo ra, cởi viên ngọc ở dây quạt đưa cho Kỳ Quan và nói:
Vật nhỏ này không đáng bao nhiêu, gọi là tỏ mối tình ngày hôm nay.
Kỳ Quan cầm lấy, cười nói:
– Tôi không có công gì, đâu đáng nhận đồ tặng. Nhưng thôi, tôi cũng có một vật lạ,
sáng hôm nay mới thắt vào người, hãy còn mới nguyên, xin tặng lại cậu, để tỏ lòng quý mến của tôi.
Nói xong hắn vén áo lên, cởi cái thắt lưng lụa màu hồng, thắt trong áo lót, đưa tặng
Bảo Ngọc và nói:
Cái thắt lưng này là đồ cống của nữ quốc vương nước Phiến Hương, mùa hè thắt vào, da thịt thơm nức, không có mồ hôi. Hôm nọ Bắc Tĩnh vương cho, tôi vừa mới thắt vào người. Tôi không bao giờ định tặng ai. Xin cậu cởi cái thắt lưng của cậu ra cho tôi.
Bảo Ngọc nghe nói mừng quá, vội nhận ngay, và cởi thắt lưng màu hoa tùng của mình đưa cho Kỳ Quan. Hai người vừa thắt xong, nghe thấy tiếng kêu to: “Ta bắt được rồi”. Tiết Bàn ở đâu nhảy ra kéo hai người lại nói:
Hai người này bỏ rượu không uống, trốn tiệc ra ngoài, định làm trò gì đây? Đưa ngay ra đây cho ta xem!.
Hai người đều chối không có cái gì cả. Tiết Bàn không nghe. Phùng Tử Anh thấy vậy ra can mới thôi. Mọi người về chỗ, uống rượu đến chiều mới tan.
Bảo Ngọc về đến trong vườn, cởi áo, uống nước. Tập Nhân thấy mất viên ngọc đeo ở quạt, liền hỏi:
Vứt đâu mất rồi?
Đi ngựa đánh rơi mất.
Tập Nhân cũng không hỏi lại nữa. Đến lúc đi ngủ, thấy Bảo Ngọc thắt cái thắt lưng đỏ như máu, Tập Nhân đã đoán ra được tám chín phần, bèn nói:
– Cậu có cái thắt lưng đẹp nhỉ. Thôi, giả cái thắt lưng của tôi đây.
Bảo Ngọc nghe nói mới nhớ ngay cái thắt lưng trước là của Tập Nhân, đáng ra không nên đem cho người khác mới phải, bụng rất hối hận, nhưng không tiện nói ra, đành phải tươi cười:
Thôi tôi xin đền chị cái khác vậy. Tập Nhân nghe nói, cúi đầu than thở:
Tôi biết cậu vẫn hay giở trò ấy. Từ nay, cậu không nên lấy cái của tôi đem cho bọn đốn mạt nào. Cậu thật chẳng suy nghĩ gì cả.
Tập Nhân muốn nói mấy câu nữa, nhưng lại sợ Bảo Ngọc đương say phát cáu, nên
đành phải đi ngủ.
Hôm sau dậy, Bảo Ngọc cười nói:
– Đêm qua chị mất trộm mà không biết, thử nhìn xuống quần xem.
Tập Nhân cúi đầu, thấy cái thắt lưng của Bảo Ngọc tự nhiên lại thắt vào mình. Tập Nhân biết rằng ban đêm Bảo Ngọc đánh tráo, vội vàng cởi ngay ra và nói: – Tôi không thèm cái này, vứt ngay nó đi.
Bảo Ngọc thấy thế, liền dịu dàng khuyên giải. Tập Nhân không biết làm thế nào, đành phải thắt vậy. Sau đó Bảo Ngọc đi ra ngoài, Tập Nhân mới cởi ra, vứt vào cái hòm không, rồi lại thắt cái thắt lưng của mình.
Bảo Ngọc cũng không để ý đến việc ấy nữa. Nhân hỏi:
Hôm qua ở nhà có việc gì không? Tập Nhân nói:
Mợ Hai sai người đến gọi Hồng Ngọc sang bên ấy. Nó muốn chờ cậu về, nhưng tôi nghĩ việc này cũng không quan trọng, nên đã cho nó sang rồi.
Thôi cũng được. Việc ấy tôi đã biết rồi, không cần phải chờ tôi nữa.
Hôm qua Quý phi cho Hạ thái giám đem một trăm hai mươi lạng bạc về, bảo phải đến quán Thanh Hư làm lễ cầu an trong ba ngày, từ mồng một đến mồng ba và bảo ông Trân dẫn cả nhà ra đấy dâng hương lễ Phật. Lại còn đồ thưởng về tết Đoan ngọ nữa.
Nói xong, sai đứa hầu bé đem các đồ vật ra; một đôi quạt hạng nhất trong cung, hai chuỗi hạt châu xạ hương, hai tấm là, một bức mành phù dung.
Bảo Ngọc thấy những vật ấy thích lắm, hỏi Tập Nhân:
Những người khác cũng được thế này chứ?
Cụ được thêm một cây như ý thơm, một cái gối mã não. Bà và dì Tiết mỗi người được thêm một cây như ý. Cậu với cô Bảo bằng nhau. Cô Lâm và cô Hai, cô Ba, cô Tư mỗi cô được một cái quạt và vài hạt châu, không có gì nữa. Mợ Cả, mợ Hai mỗi người hai tấm the, hai tấm lụa, hai cái túi thơm, hai thoi thuốc.
Thế là nghĩa làm sao? Sao lại không cho cô Lâm mà cho cô Bảo bằng tôi? Hay là nghe nhầm đấy?
Hôm qua mang ra xem, phần nào phần nấy có biên thẻ cả, sao lại nhầm được? Phần
cậu gởi ở phòng cụ, để tôi đến lấy. Cụ dặn đến sớm mai, trống canh năm, cậu phải vào tạ ơn.
– Phải vào mới được chứ.
Nói xong Bảo Ngọc bảo Tử Quyên:
Chị mang những cái này đưa cho cô lâm, bảo là phần của tôi đấy, cô ấy thích cái gì, cứ để lại mà dùng.
Tử Quyên đem đi, một chốc về nói:
Cô Lâm bảo hôm qua cô ấy cũng đã có phần rồi, cậu cứ để lại mà dùng.
Bảo Ngọc nghe nói, sai người cất những thứ ấy đi. Rửa mặt xong, Bảo Ngọc sang chào
Giả mẫu, thấy Đại Ngọc từ đầu kia đi lại. Bảo Ngọc chạy ngay lại cười nói:
– Anh bảo em chọn lấy những thứ của anh mà dùng, sao em không lấy?
Đại Ngọc quên hết những chuyện hờn giận Bảo Ngọc hôm nọ, chỉ nghĩ đến việc lúc này thôi, liền nói:
Nhà em ít phúc, không đáng dùng những thứ ấy. Chúng em chẳng qua chỉ là hạng cỏ rác thôi, so đâu được với cô Bảo là người “vàng” người “ngọc”.
Nghe thấy Đại Ngọc nhắc đến hai chữ “vàng”, “ngọc”, Bảo Ngọc đâm ra ngờ, liền nói:
Người ngoài nói “vàng, “ngọc” thế nào mặc họ, chứ bụng anh mà nghĩ đến điều ấy, thì trời tru đất diệt, muôn kiếp không được làm người!
Đại Ngọc nghe vậy, biết ngay là Bảo Ngọc có ý nghi ngờ, vội cười nói:
Thật chán chưa! Cứ thề với bồi? Ai để ý đến “vàng”, “ngọc” làm gì?
Khó nói cho em biết tâm sự của anh, sau này em sẽ hiểu. Anh xin thề rằng, trừ bà và cha mẹ anh ra, thì em là người thứ tư của anh đấy. Không còn có người thứ năm nảo nữa.
Anh không cần phải thề, em biết bụng anh vẫn nghĩ đến “cô em”, nhưng khi nào gặp “cô chị” lại quên khuấy “cô em” đi.
Em hay đa nghi, anh không phải hạng người thế đâu.
Hôm nọ cô Bảo không hùa theo những câu nói dối của anh, vì cớ gì anh lại quay sang hỏi em? Nếu phải là em, thì không biết anh đối xử như thế nào?
Đương nói chuyện thì Bảo Thoa từ phía trước đi đến, hai người mới rời nhau ra, Bảo Thoa trông thấy rõ ràng, nhưng giả lờ như không, cứ cúi đầu đi qua. Bảo Thoa sang
bên Vương phu nhân ngồi một lúc, rồi sang bên Giả mẫu, đã thấy Bảo Ngọc ngồi đấy rồi.
Bảo Thoa nhớ lại trước kia mẹ mình nói chuyện với Vương phu nhân về việc vị sư cho cái khóa vàng, bảo chờ ngày sau ai có ngọc mới kết hôn, vì thế chỉ muốn tìm cách tránh xa Bảo Ngọc. Hôm nọ Nguyên Xuân lại cho các thứ cũng như Bảo Ngọc, trong lòng càng thêm áy náy khó nghĩ. May sao Bảo Ngọc lại hay quấn quít với Đại Ngọc, lúc nảo cũng tâm tâm niệm niệm đến Đại Ngọc, nên Bảo Thoa cũng không để ý đến việc ấy Chợt đâu Bảo Ngọc cười nói: “Chị Bảo cho tôi xem cái chuỗi hột thơm của chị nào?” Lúc này Bảo Thoa đang đeo chuỗi hột thơm ở cánh tay bên trái, thấy Bảo Ngọc hỏi, đành phải tháo ra.
Nhưng vì Bảo Thoa da thịt nõn nà, mập mạp, tháo mãi không được. Bảo Ngọc đứng bên cạnh thấy bắp thịt trắng muốt, đâm ra thèm muốn, nghĩ thầm: “Nếu cái bắp tay này mà ở vào người cô Lâm, may ra có lúc được mó một cái; nhưng lại ở vào tay cô Bảo thì ta thực là kém phúc”. Chợt nghĩ đến chuyện vàng và ngọc, Bảo Ngọc ngắm nghía đến dáng điệu Bảo Thoa, thấy da mặt nõn nà, khóe mắt long lanh, không đánh sáp mà làn môi vẫn đỏ, không kẻ mày mà nét ngài vẫn xanh, so với Đại Ngọc lại có vẻ phong lưu thùy mị riêng, Bảo Ngọc bất giác đứng ngẩn người ra. Đến khi Bảo Thoa đưa chuỗi hạt, Bảo Ngọc quên đi không buồn cầm lấy.
Bảo Thoa thấy thế, cảm thấy ngượng ngùng, liền vứt chuỗi hạt xuống, toan quay người đi, thấy Đại Ngọc đứng ở bực cửa, ngậm cái khăn lụa cười. Bảo Thoa nói:
Chị không chịu được gió, sao lại ra đứng trước ngọn gió làm gì? Đại Ngọc cười nói:
Tôi mới ở trong buồng ra đấy, chỉ vì nghe thấy trên trời có tiếng chim kêu, chạy ra nhìn, thì ra là “con nhạn ngớ ngẩn”(4).
Bảo Thoa nói:
“Con nhạn ngớ ngẩn” ở đâu? Cho tôi xem với.
Đại Ngọc nới:
– Tôi vừa đến nơi, nó vụt bay mất.
Nói xong cầm cái khăn ném thẳng vào mặt Bảo Ngọc. Bảo Ngọc không biết, tự nhiên thấy khăn tay tạt vào mặt, liền kêu “ái chà” một tiếng.
—————————-
(1). Thương, buồn, mừng, vui.
(2). Dùng để chế anh chồng cho vợ đi ngoại tình.
(3). Nguyên văn là “hoa khí tập nhân tri trú noãn”. Hai chữ “tập nhân” trùng với tên Tập Nhân, a hoàn của Bảo Ngọc, nên Tiết Bàn mới lấy đó để chế nhạo Bảo Ngọc.
(4). Dùng để chế giễu người ngốc.