Người dịch: Nguyễn Bá Long
Nhà xuất bản: NXB Văn học
Shared by: CCG –
Cái tội duy nhất mà Stephano có thể đã phạm phải chỉ là tội bắt cóc và hành hung Patrick, xem ra khó mà có thể kết án được lão. Việc đó xảy ra ở Nam Mỹ, xa ngoài vùng tài phán của Mỹ. Việc hành hung đó lại do những người khác, trong đó có những công dân Braxin, thực hiện. Luật sư của Stephano tin tưởng rằng họ sẽ thắng nếu buộc phải ra trước tòa.
Thế nhưng nó còn có liên quan tới các khách hàng, cùng chuyện tiếng tăm nữa. Tay luật sư biết quá rõ khả năng của FBI trong chuyện gây mất mặt mà không thực sự phải mang ra truy tố. Ông ta đã có lời khuyên Stephano là đi tới một thỏa thuận – đồng ý tiết lộ thông tin để đổi lấy lời hứa của chính phủ là miễn truy tố lão và các khách hàng của lão. Bởi vì không còn tội trạng nào khác thì một thỏa thuận như vậy đâu có hại gì cho ai ?
Tay luật sư đã đòi được ngồi cùng Stephano trong khi những lời khai của lão được ghi lại. Những cuộc thẩm vấn sẽ diễn ra nhiều giờ trong vài ngày, và sẽ được tiến hành trong Tòa nhà Hoover với người của Jaynes. Có cà phê và bánh ngọt. Hai chiếc máy thu hình được chĩa về phía cuối chiếc bàn, nơi Stephano bình thản ngồi, với luật sư của lão bên cạnh.
“Ông cho biết tên ?” Underhill, một người trong nhóm chuyên gia thẩm vấn nắm rõ hồ sơ về vụ Lanigan, lên tiếng.
“Jonathan Edmund Stephano. Jack.”
“Và công ty của ông là…?”
“Edmund Associates.”
“Công ty của ông làm gì ?”
“Nhiều thứ. Tư vấn an ninh. Theo dõi. Tìm kiếm nhân sự. Tìm người mất tích.”
“Ai là chủ công ty ?”
“Tôi. Toàn bộ.”
“Ông có bao nhiêu người làm công ?”
“Có nhiều loại. Hiện nay có mười một chính thức. Khoảng ba mươi gì đó là cộng tác viên.”
“Ông có được thuê để tìm kiếm Patrick Lanigan không ?”
“Có”
“Khi nào ?”
“Ngày 28 tháng Ba năm 1992.” Stephano có các hồ sơ kẹp đầy những ghi chú, nhưng lão không cần đến chúng.
“Ai thuê ông ?”
“Benny Aricia, người bị mất tiền.”
“Ông đòi giá bao nhiêu ?”
“Phần trả trước ban đầu là hai trăm nghìn.”
“Cho đến nay ông ta đã trả ông bao nhiêu ?”
“Một triệu chín.”
“Ông đã làm gì sau khi ông được Benny Aricia thuê?”
“Một số việc. Tôi lập tức bay đến Nassau ở Bahama để gặp cái nhà băng mà tại đó vụ trộm cắp đã xảy ra. Đó là một chi nhánh của Ngân hàng liên hiệp xứ Wales. Khách hàng của tôi, ông Aricia, và Hãng luật lo về vụ tố giác của ông ta, đã mở một tài khoản mới ở đó để nhận tiền, và, như giờ đây chúng ta biết, có kẻ đã đợi sẵn khoản tiền đó.”
“Ông Aricia có phải là công dân Mỹ không ?”
“Phải.”
“Tại sao ông ta lại mở tài khoản ở nước ngoài ? “
“Đó là chín mươi triệu đôla, sáu mươi cho ông ta, ba mươi cho các luật sư, và không ai muốn khoản tiền đó xuất hiện trong một nhà băng ở Biloxi. Ông Aricia sống ở đó lúc bấy giờ và tất cả đều đồng ý rằng để cho bất kỳ ai ở địa phương thấy khoản tiền này đều là không hay.”
“Phải chăng là ông Aricia muốn né tránh Cơ quan thuế Liên bang ?”
“Tôi không biết. Ông sẽ phải hỏi ông ấy. Đó không phải là việc của tôi.”
“Ông nói chuyện với ai ở Ngân hàng liên hiệp xứ Wales ?”
Tay luật sư khịt mũi vẻ không tán thành, nhưng cũng không nói gì.
“Graham Dunlap, một người Anh. Phó chủ tịch gì đó của ngân hàng.”
“Ông ta nói gì với ông ?”
“Vẫn chuyện mà ông ta đã nói với FBI. Rằng chỗ tiền đó đã biến mất.”
“Nó được chuyển từ đâu đến ?”
“Từ Oasinhtơn. Điện chuyển tiền bắt đầu lúc chín giờ ba mươi sáng ngày 26 tháng Ba năm 1992, xuất phát từ Ngân hàng quốc gia D.C. Đó là một điện ưu tiên, nghĩa là sẽ không đầy một giờ sau là tiền được chuyển đến Nassau. Vào lúc mười giờ mười lăm, tiền đuợc chuyển đến Ngân hàng liên hiệp xứ Wales, nó nằm lại đó có chín phút trước khi bị chuyển tới một nhà băng ở Manta. Từ đó, nó lại được chuyển đi Panama.”
“Chỗ tiền đó đã được chuyển khỏi tài khoản như thế nào ?”
Tay luật sư cảm thấy khó chịu. “Đây là sự lãng phí thời giờ,” ông ta cắt ngang. “Các ông đã có thông tin này từ bốn năm nay. Các ông đã gặp gỡ các chủ nhà băng còn nhiều hơn cả thân chủ của tôi nữa.”
Underhill không thay đổi nét mặt. “Chúng tôi có quyền đưa ra các câu hỏi này. Đơn giản là chúng tôi muốn kiểm chứng lại những gì chúng tôi biết. Chỗ tiền đó đã được chuyển khỏi tài khoản như thế nào, ông Stephano ?”
“Khách hàng của tôi và các luật sư của ông ấy không hề biết rằng có người, Patrick Lanigan, chúng tôi cho là vậy, đã tiếp cận được với cái tài khoản mới mở ở nước ngoài này và đã chuẩn bị sẵn những chỉ thị chuyển nó đi Manta. Những chỉ thị chuyển tiền của các luật sư của khách hàng tôi, Hãng luật của chính Lanigan, là do hắn giả mạo, và khoản tiền đó bị chuyển đi chỉ chín phút sau khi nó tới đó. Tất nhiên, họ tưởng là hắn đã chết và không có lý do để nghi ngờ bất kỳ ai về khoản tiền đó. Vụ dàn xếp đã mang lại chín mươi triệu đôla này, ngay từ đầu là cực kỳ bí mật, và không ai, ngoại trừ khách hàng của tôi, các luật sư của ông ta, và một vài người ở Bộ Tư pháp, biết chính xác là khi nào và từ đâu số tiền đó được điện chuyển đi.”
“Như tôi hiểu, có kẻ nào đó đã thật sự có mặt tại ngân hàng đó khi chỗ tiền được chuyển đến.”
“Đúng. Chúng tôi gần như chắc chắn đó là Patrick Lanigan. Vào buổi sáng cái hôm chuyển tiền, hắn đã giả danh Doug Vitrano, một trong những cổ đông của Hãng luật, hiện diện trước Graham Dunlap. Hắn có giấy tờ tùy thân hoàn hảo – hộ chiếu, bằng lái xe, vân vân — cùng với bộ quần áo sang trọng và biết rất rõ về khoản tiền sắp được chuyển từ Oasinhtơn đến. Hắn có trong tay một nghị quyết, được công chứng, của hội đồng cổ đông cho phép hắn thay mặt Hãng nhận số tiền đó, và chuyển nó tới một nhà băng ở Manta”
“Tôi biết quá rõ là các ông có các bản sao của cả cái nghị quyết đó lẫn giấy phép chuyển tiền,” tay luật sư lên tiếng.
“Chúng tôi có,” Underhill nói, lật lật đám giấy tờ và không mấy để ý đến tay luật sư. FBI đã lần theo dấu vết của số tiền đó tới Manta, rồi từ đó tới Panama, nơi tất cả các dấu vết đều biến mất. Có một bức hình nhòe nhoẹt được chụp lại từ hệ thống camêra bảo vệ của nhà băng về cái người đàn ông đã tự nhận là Doug Vitrano. FBI và các cổ đông của Hãng tin chắc rằng đó là Patrick, mặc dù hắn đã cải trang tuyệt vời. Trông hắn gầy hơn nhiều, tóc cắt ngắn và rất sẫm màu, để ria và mang một cặp kính gọng sừng rất mốt. Hắn giải thích với Graham Dunlap là tới đây để đích thân giám sát việc nhận và chuyển tiền bởi vì Hãng của hắn và khách hàng rất lo lắng về vụ giao dịch này. Điều đó chắc chắn là không có gì bất thường trong con mắt của Dunlap, và ông ta vui vẻ phục tùng. Ông ta đã bị cách chức một tuần sau đó và đã trở về Luân Đôn.
“Bởi vậy, chúng tôi đã tới Biloxi và ở đó cả tháng để tìm kiếm các dấu vết,” Stephano nói tiếp.
“Và các ông phát hiện việc hãng luật bị nghe trộm?”
“Đúng vậy. Vì những lý do dễ hiểu, chúng tôi lập tức nghi ngờ Lanigan, và vạch ra hai nhiệm vụ: thứ nhất là tìm kiếm hắn cùng chỗ tiền, thứ hai là xác định xem hắn làm vụ này như thế nào. Các cổ đông còn cho chúng tôi toàn quyền với các phòng làm việc của họ trong mấy ngày nghỉ cuối tuần, và các nhân viên kỹ thuật của chúng tôi đã lục tung tất cả. Đầy rệp, như các ông vẫn nói. Chúng tôi tìm thấy các thiết bị nghe trộm ở tất cả các máy điện thoại, tất cả các phòng làm việc, dưới mọi gầm bàn, ngoài hành lang, thậm chí cả trong phòng vệ sinh nam ở tầng trệt. Chỉ có một ngoại lệ. Phòng làm việc của Charles Bogan hoàn toàn sạch bong. Ông ta rất kỹ tính và luôn khóa cửa. Hai mươi hai thiết bị nghe trộm; đều là loại chất lượng cao. Các tín hiệu của chúng được thu lại nhờ một ăngten giấu trong một thùng đựng hồ sơ cũ để ở trên căn phòng áp mái, một nơi mà đã nhiều năm chẳng có ai động đến.”
Underhiỉl nghe mà không nghe. Dù sao thì tất cả đều đang được ghi âm lại, và các cấp trên của anh ta có thể nghiên cứu sau. Đã quá quen thuộc với những trò vấn đáp sơ bộ này, anh ta rút ra một báo cáo kỹ thuật tóm tắt về mạng nghe trộm mà Patrick đã tạo dựng. Các micrô hiện đại – nhỏ xíu, cực mạnh, đắt giá, và được sản xuất bởi một công ty đầy tai tiếng ở Malaixia. Mua bán và tàng trữ chúng là bất hợp pháp ở Mỹ, thế nhưng người ta lại có thể dễ dàng mua được những micrô này ở bất kỳ một thành phố châu Âu nào. Patrick và Trudy đã đón năm mới ở Rôm, năm tuần trước cái chết của hắn.
Bộ ăngten tìm thấy trong cái thùng trên căn phòng áp mái làm cho các chuyên gia của FBI cũng phải sửng sốt. Nó được sản xuất ra chưa đầy ba tháng khi Stephano tìm thấy nó, và FBI đã phải miễn cưỡng thừa nhận rằng nó vượt trước những kỹ thuật mới nhất của họ ít nhất là một năm. Được sản xuất tại Hungari, nó có thể nhận được tín hiệu của tất cả hai mươi con rệp giấu trong các phòng làm việc ở phía dưới, giữ chúng riêng biệt, rồi phát đi lần lượt hay tất cả một lúc, tới một chảo thu đặt ở gần đó.
“Ông có xác định được các tín hiệu đó được truyền tới đâu không ?” Underhill hỏi. Đó là một câu hỏi thành thực bởi lẽ đúng là FBI không biết.
“Không. Nó có tầm hoạt động ba dặm, về tất cả mọi hướng, bởi vậy không thể nào nói được chính xác.”
“Có nghi ngờ nào không ?”
“Có, một nghi ngờ có lý lắm. Tôi cho rằng Lanigan không ngu gì lại dựng cái chảo thu kia ở bất kỳ đâu trong vòng ba dặm tại trung tâm Biloxi. Hắn sẽ phải thuê nhà, ngụy trang cái chảo, tốn nhiều thời gian ở đó để theo dõi hàng tiếng đồng hồ các cuộc trao đổi. Hắn đã tỏ ra rất có bài bản. Tôi luôn luôn cho rằng hắn đã sử dụng một chiếc thuyền. Đơn giản và an toàn hơn nhiều. Cái văn phòng đó chỉ cách bờ biển có hơn năm trăm mét. Ngoài Vịnh có rất nhiều tàu thuyền. Người ta có thể buông neo cách bờ hai dặm và cả ngày chẳng phải nói chuyện với một ma nào cả.”
“Ông ta có sở hữu một cái thuyền nào không ?”
“Chúng tôi không tìm được.”
“Có bằng chứng nào về việc ông ta sử dụng thuyền không ?”
“Có lẽ.” Stephano ngừng lại bởi vì lão đang đi vào địa hạt mà FBI không hề biết.
Sự ngập ngừng này làm cho Underhill khó chịu ngay. “Đây không phải là một cuộc thẩm vấn thông thường đâu, ông Stephano.”
“Tôi biết. Chúng tôi đã nói chuyện với tất cả các hãng cho thuê tàu dọc bờ biển, từ Destin tới New Orleans, và chỉ thấy có một đối tượng có thể là đáng tình nghi. Một công ty nhỏ ở Orange Beach, Alabama, đã cho một người đàn ông thuê một chiếc thuyền buồm có chiều dài chừng mười hai mét vào ngày 11 tháng Hai năm 1992, cái ngày mà Lanigan được mai táng. Giá thuê là một nghìn đôla một tháng. Người đàn ông đó trả giá gấp đôi với điều kiện vụ giao dịch đó được thanh toán bằng tiền mặt và không hóa đơn chứng từ gì. Họ ngờ rằng đó là một thằng khùng, và đã từ chối. Thế rồi người kia đề nghị được đặt trước năm nghìn đôla, cùng với hai nghìn một tháng trong hai tháng. Công việc kinh doanh đang chậm. Chiếc thuyền lại đã được bảo hiểm chống trộm cắp. Vậy là họ đánh liều.”
Underhill nghe không chớp mắt. Anh ta cúi xuống ghi chép. “Họ có cho ông xem tấm ảnh nào không ?”
“Có. Nói đó có thể là Patrick. Nhưng mà không có râu, tóc sẫm, mũ bóng chày, kính trắng, to béo. Đó là trước khi hắn biết về chương trình giảm cân nhanh. Dù sao chăng nữa thì tay kia cũng không thể khẳng định về nhân dạng.”
“Người đàn ông đó dùng tên gì ?”
“Randy Austin. Có bằng lái xe của bang Georgia. Và hắn từ chốỉ cung cấp các giấy tờ khác. Hắn trả bằng tiền mặt, và xin nhớ là năm nghìn đôla. Trong khi chiếc thuyền đó có thể được bán cho hắn với giá hai mươi nghìn.”
“Chuyện gì đã xảy ra với chiếc thuyền ?”
“Sau cùng thì họ lấy lại được. Ông ta nói đã thực sự ngạc nhiên bởi lẽ Randy có vẻ không biết gì lắm về thuyền buồm. Ông ta hỏi một số câu, cũng lòng vòng thôi. Randy nói hắn đang tính chuyển xuống ở dưới miền Nam sau một cuộc hôn nhân tồi tệ ở Atlanta, chán chường với những tranh giành, có nhiều tiền bạc, đại loại cũng là thói thường. Cũng từng đã chạy thuyền buồm nhiều, và nay muốn có một chuyến đi xuống vùng Keys kết hợp luyện lại tay nghề trên đường đi. Và sẽ luôn giữ khoảng cách không thật xa bờ. Nghe cũng lọt tai và tay chủ thuyền cảm thấy dễ chịu hơn nhưng vẫn nghi ngờ. Ngày hôm sau, Randy đột nhiên xuất hiện, không xe hơi, không tăcxi gì hết cứ như thể là hắn đã cuốc bộ hay đi nhờ xe gì đó ra bến, và rồi sau một loạt những giao hẹn này khác, hắn đã ra đi với chiếc thuyền. Nó có một động cơ đi-den lớn và có thể chạy đều đều với tốc độ tám hải lý một giờ bất chấp gió máy thế nào. Hắn đi về phía đông, và thằng cha chủ tàu thì không còn gì để làm nữa, bởi vậy mới chạy tà tà dọc theo bờ biển, thỉnh thoảng ghé vào một vài cái quán quen, và vẫn để mắt được đến Randy, người đang điều khiển chiếc thuyền một cách đâu vào đấy cách bờ có chừng một phần tư hải lý. Hắn đậu thuyền vào một bến ở vịnh Perdido, và rời khỏi đó trong một chiếc Taurus thuê với biển số Alabama. Sự việc cứ thế trong vòng vài ngày. Tay kia vẫn để mắt tới chiếc thuyền. Randy rất từ tốn, thoạt đầu là một hải lý, sau thì hắn ra xa hơn. Vào ngày thứ ba hay thứ tư gì đó, Randy lái thuyền đi về phía tây, hướng tới Mobile và Biloxi, rồi mất tăm trong ba ngày.
Hắn trở về, rồi lại đi, vẫn về phía tây. Chưa bao giờ về phía đông hay nam, tức là hướng về vùng Keys cả. Tay kia thôi không còn lo ngại về chiếc thuyền nữa bởi vì Randy vẫn quanh quẩn ở đó. Hắn thường đi mỗi lần chừng một tuần, và luôn luôn trở về.”
“Và ông nghĩ đó là Patrick ?”
“Đúng. Tôi tin là thế. Với tôi thì hoàn toàn có lý. Một mình hắn trên con thuyền. Hắn có thể đi cả mấy ngày mà không hề phải nói chuyện với một ai. Hắn có thể thu thập tin tức từ mấy trăm điểm khác nhau dọc theo bờ biển từ Biloxi đến cảng Vịnh. Ngoài ra, con thuyền là nơi tuyệt vời để hắn nhịn ăn nữa.”
“Rồi chuyện diễn ra thế nào ?”
“Randy bỏ nó lại bến, và đơn giản là biến mất, không một lời. Tay chủ kia lấy lại thuyền, cùng với năm nghìn.”
“Ông có kiểm tra lại chiếc thuyền không ?”
“Bằng kính hiển vi. Không có gì cả. Tay kia nói chiếc thuyền chưa bao giờ lại sạch sẽ như vậy?”
“Người thuê thuyền biến mất khi nào ?”
“Gã chủ thuyền không chắc bởi vì ông ta đã ngừng cái việc theo dõi hàng tuần rồi. Ông ta thấy thuyền ở trong bến vào ngày 30 tháng Ba, bốn ngày sau khi chỗ tiền kia bị đánh cắp. Chúng tôi đã nói chuyện với một thằng lỏi trực ở bến, và, theo chỗ nó nhớ được thì Randy đã cập bến hôm 24 hoặc 25 tháng Ba, và không thấy hắn quay lại nữa. Bởi vậy, thời gian là khá trùng hợp.”
“Còn cái xe thuê thì sao ?”
“Chúng tôi kiểm tra sau đó. Nó được thuê của hãng Avis tại Sân bay Cơ động Khu vực vào sáng thứ hai, ngày 10 tháng Ba, khoảng mười tiếng đồng hồ sau khi đám cháy được dập tắt. Nó đã được thuê bởi một ngưòi đàn ông không để râu, mặt mũi nhẵn nhụi, tóc sẫm cắt ngắn, kính trắng, mặc áo choàng, cổ mang cavát, và nói rằng hắn mới xuống khỏi một chuyến bay từ Atlanta. Chúng tôi cho người phụ nữ trực xem ảnh và cô ta rất ngập ngừng trong việc xác định nhân dạng của Patrick Lanigan. Hiển nhiên là hắn vẫn dùng cái bằng lái xe Georgia. Hắn sử dụng một thẻ tín dụng Visa giả, với tên Randy Austin và một mã số đánh cắp từ một tài khoản hợp pháp ở Decatur, Georgia. Hắn nói hắn là một nhà kinh doanh bất động sản độc lập đến đó để tìm kiếm đất đai cho một sòng bạc. Bởi vậy hắn không có một tên công ty nào để điền vào hợp đồng thuê xe. Hắn muốn dùng chiếc xe trong một tuần. Avis không bao giờ gặp lại hắn nữa. Cũng không nhìn thấy chiếc xe đó trong suốt mười bốn tháng trời.”
“Sao ông ta không trả lại chiếc xe ?” Underhill hỏi với vẻ trầm ngâm.
“Đơn giản. Khi hắn thuê xe, cái chết kia của hắn vừa xảy ra, và còn chưa được đưa tin. Nhưng ngày hôm sau, gương mặt hắn xuất hiện trên các trang nhất của báo chí ở Biloxi và Mobile. Có thể hắn tính rằng sẽ là quá mạo hiểm để mang chiếc xe trở lại. Sau này họ tìm thấy nó ở Montgomery, bị đánh cắp và đã hoàn toàn hư hỏng.”
“Patrick đã đi đâu ?”
“Tôi đoán là hắn đã rời khu vực Orange Beach vào ngày 24 hoặc 25 tháng Ba. Hắn mạo danh Doug Vitrano, một cổ đông của hãng luật kia. Chúng tôi được biết rằng vào ngày 25 hắn bay từ Montgomery đi Atlanta, rồi từ đó bay vé hạng nhất đi Miami, rồi lại vé hạng nhất đi Nassau. Tất cả các vé này đều mang tên Doug Vitrano, và hắn đã dùng cái hộ chiếu đó khi hắn rời Miami cũng như khi vào Bahama. Chuyến bay đến Nassau lúc tám giờ ba mươi sáng ngày 26, và hắn có mặt ở nhà băng khi nó mở cửa lúc chín giờ. Hắn chìa hộ chiếu và những giấy tờ khác ra cho Graham Dunlap. Hắn chuyển tiền, chào tạm biệt, lên một chuyến bay đi New York và hạ cánh xuống La Guardia lúc hai giờ ba mươi chiều. Đến lúc đó, hắn vứt bỏ các giấy tờ mang tên Vitrano và kiếm các giấy tờ khác. Chúng tôi mất dấu vết hắn.”
oOo
Khi vụ mặc cả lên tới năm mươi nghìn đôla thì Trudy đồng ý. Đó là chương trình “Đằng sau những biên bản,” một chương trình nhảm nhí nhưng có tỉ lệ người xem khá cao và có vẻ có nhiều tiền. Họ chăng đèn đóm, bít các cửa sổ, và chăng dây rợ khắp nhà. “Nhà báo” Nancy de Angelo bay thẳng từ Los Angeles tới với cả một nhóm làm đầu và trang điểm riêng. Không chịu thua kém, Trudy cũng ngồi hai tiếng trước gương, và trông rất lộng lẫy khi bước ra. Nancy khen ả rất tuyệt. Vậy mà người ta đã nghĩ rằng ả phải cảm thấy đau đớn, tổn thương, hoảng sợ, bất lực, bị tòa còng tay, tức giận trước những gì mà người chồng đã gây ra cho mình và con gái mình. Ả đã quay vào với những giọt nước mắt và Lance đã phải an ủi ả trong nửa giờ. Khi trở ra trong chiếc quần jeans và chiếc áo cổ chui, trông ả lại đã hơn hớn như thường.
Ashley Nicole được sử dụng như một chỗ dựa. Con bé ngồi sát bên mẹ trên chiếc xôpha. “Bây giờ trông phải thật buồn vào,” Nancy bảo con bé trong khi các kỹ thuật viên điều chỉnh ánh sáng. “Chúng tôi cần những giọt nước mắt của chị,” cô ta nói với Trudy. “Những giọt nước mắt thật sự.”
Họ nói chuyện chừng một tiếng về tất cả những “điều kinh khủng” mà Patrick đã gây ra cho hai mẹ con. Trudy nức nở khi ả nhớ lại đám tang. Họ có một bức ảnh chụp chiẽc giầy tìm thấy ở hiện trường. Ả đã chịu đựng những tháng ngày sau đó. Không, ả đã không tái giá. Không, chồng ả đã không liên lạc gì kể từ khi hắn trở về. Cũng không chắc là ả có muốn hay không nữa. Không, hắn đã không hề có cố gắng nào để gặp lại con gái, và ả lại nức nở. Ả không chịu nổi cái ý nghĩ về chuyện ly hôn, nhưng biết làm gì ? Và vụ kiện tụng này, thật khủng khiếp làm sao ! Cái hãng bảo hiểm đê tiện kia đã săn đuổi ả như một con vật.
Patrick là một con người tồi tệ đến thế. Nếu như họ tìm thấy chỗ tiền kia, ả ta có hy vọng được chút nào không ? Tất nhiên là không ! Ả hoàn toàn bị bất ngờ trước gợi ý này.
Tất cả được biên tập lại còn hai mươi phút, và Patrick đã xem cuộc trò chuyện này trong căn phòng bệnh viện tối mò của hắn. Nó làm cho hắn buồn cười.