Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Đồng Đạo

Chương 33

Tác giả: John Grisham

Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG –

Các phóng viên tòa án đến đúng vào lúc tám giờ, cả hai đều có tên là Linda — một mang chữ i và một mang chữ y. Họ chìa danh thiếp ra và theo Sandy vào trong căn phòng làm việc, nơi mà đồ đạc đều đã được đẩy vào sát tường và những cái ghế đã được đặt thêm vào. Anh ta mời Y ngồi ở một đầu phòng, lưng quay ra cửa sổ có tấm rèm khép kín, và để I ngồi ở đầu phòng kia, trong cái xó cạnh quầy bar với một góc quan sát rất rộng. Cả hai đều muốn được làm một hơi thuốc sau cùng, và anh ta chỉ cho họ đi vào căn phòng ngủ đằng xa nhất.

Jaynes đến sau đó, cùng đi có một người lái xe, một nhân viên đặc biệt đã luống tuổi làm nhiệm vụ vừa bảo vệ, vừa canh chừng, vừa lo việc vặt; ông ta còn mang theo một luật sư của FBI; cùng với Cutter và viên cấp trên trực tiếp của Cutter nữa. Đại diện cho Văn phòng Bộ trưởng Tư pháp là Sprawling, một tay kỳ cựu với cặp mắt màu tối, nói ít nhưng nghe nhiều, cả sáu người đều mặc complê màu đen hoặc xanh đen; họ đều chìa danh thiếp ra, và anh chàng phụ tá của Sandy tiếp nhận tất cả. Cô thư ký hỏi họ muốn uống cà phê như thế nào trong lúc họ từ tốn kéo nhau đi ngang qua phòng khách nhỏ để cùng vào phòng làm việc.

Tiếp đó là Maurice Mast, công tố viên Liên bang của khu vực miền Tây Mississippi, cùng đi chỉ có một trợ lý. Sau ông ta là T.L.Parrish, đến có một mình, và cuộc họp này đã sẵn sàng để bắt đầu.

Đâu cũng có những thứ tôn ti trật tự nhất định. Người lái xe của Jaynes và tay trợ lý của Mast ở lại trong gian phòng khách, nơi đã để sẵn một khay bánh ngọt và báo buổi sáng.

Sandy đóng cửa lại, nói lời “chào buổi sáng” nhã nhặn và cảm ơn tất cả về sự hiện diện của họ. Họ được mời ngồi xung quanh phòng. Không một nụ cười nào, nhưng không phải là họ không hài lòng khi có mặt ở đây. Tất cả đều cảm thấy tò mò.

Sandy giới thiệu hai phóng viên tòa án, và giải thích rằng biên bản cuộc họp sẽ do chính anh giữ và được coi là tuyệt đốỉ bí mật. Điều này có vẻ làm cho tất cả đều bằng lòng. Chưa có câu hỏi hay nhận xét nào lúc này bởi lẽ họ còn chưa biết cuộc họp sẽ diễn ra thế nào.

Sandy cầm một tập giấy tờ được sắp xếp cẩn thận, phần trình bày của anh được gói gọn trong khoảng hơn một chục trang gì đó. Anh thậm chí đã có thể đối mặt với một hội thẩm đoàn. Lời chào từ thân chủ của anh ta, Patrick, được chuyển lại cùng với lời thông báo rằng các vết bỏng đang lành lại nhanh chóng. Thế rồi, anh tóm tắt lại những cáo buộc hiện có đối với Patrick; tiểu bang buộc tội cố sát; Liên bang buộc tội trộm cắp, lừa đảo và chạy trốn. Tội cố sát có thể dẫn tới án tử hình. Những tội khác có thể dẫn tới tổng cộng ba mươi năm tù giam.

“Các cáo buộc của Liên bang là nghiêm trọng,” Sandy trịnh trọng nói. “Nhưng chúng lại không đáng gì so với những cáo buộc về tội cố sát. Nói thẳng ra, và với tất cả sự tôn trọng thích đáng, chúng tôi muốn được giải quyết dứt điểm với các giới chức Liên bang để có thể tập trung vào những cáo buộc về tội cố sát.”

“Ông tính giải quyết dứt điểm với chúng tôi như thế nào ?” Jaynes hỏi.

“Chúng tôi có một đề nghị.”

“Có liên quan tới chỗ tiền đó không ?”

“Quả thực là có.”

“Chúng tôi không có yêu cầu gì về chỗ tiền đó. Chính phủ Liên bang không bị mất cắp.”

“Đó chính là chỗ ông nhầm.”

Sprawling ngứa ngáy. “Ông có thực sự nghĩ là ông có thể dàn xếp ổn được vụ này không hả ?” Đó là một lời thách thức nhiều hơn là một câu hỏi. Giọng nói cộc cằn của ông ta thẳng băng, lời lẽ đầy ấn tượng.

Cái “hội thẩm đoàn” này đang phản công, nhưng Sandy quyết tâm theo đúng kịch bản của mình. “Gượm đã,” anh ta nói. “Xin quý vị cho phép tôi trình bày lập luận của mình, rồi thì chúng ta sẽ bàn tới các khả năng. Bây giờ, tôi giả thiết rằng tất cả chúng ta đều biết về sự tố cáo hồi năm 1991 của ông Aricia đối với Hãng của ông ta theo đạo luật quy định về những tố cáo như vậy. Tố cáo đó đã được chuẩn bị và trình tòa bởi Hãng luật Bogan ở Biloxi này, một Hãng mà vào lúc đó gồm cả một cổ đông mới có tên là Patrick Lanigan. Vụ tố cáo đó là lừa lọc. Thân chủ của tôi đã phát hiện ra điều đó, rồi lại biết rằng Hãng chuẩn bị hất anh ta ra, sau khi Bộ Tư pháp chấp thuận sự tố cáo, nhưng trước khi tiền được chuyển đến. Trong nhiều tháng trời, thân chủ của tôi đã ngầm thu thập các bằng chứng chứng tỏ, một cách rõ ràng và thuyết phục, rằng ông Aricia và các luật sư của ông ta đã đồng lõa để lừa gạt của chính phủ chín mươi triệu đôla. Các bằng chứng này là những tài liệu và những cuộc đối thoại được ghi âm lại.”

“Các bằng chứng đó đâu ?” Jaynes hỏi.

“Chúng đang do thân chủ của tôi kiểm soát.”

“ Ông biết là chúng tôi có thể thu giữ chúng. Chúng tôi có thể xin lệnh khám và thu lại những bằng chứng đó bất kỳ lúc nào chúng tôi muốn.”

“Thế nếu thân chủ của tôi không tôn trọng cái lệnh khám của ông thì sao ? Nếu như anh ta thủ tiêu chúng, hay đơn giản là lại giấu chúng đi thì sao ? Lúc đó thì ông sẽ làm gì ? Giam anh ta lại ư ? Truy tố anh ta thêm một tội gì đó nữa sao ? Nói thẳng ra là anh ta sẽ không sợ các ông và những lệnh khám của các ông.”

“Còn ông thì sao ?” Jaynes hỏi. “Nếu ông đang giữ chúng thì chúng tôi có thể xin một lệnh khám đối với ông đấy.”

“Tôi sẽ không đưa ra đâu. Bất kỳ những gì thân chủ của tôi trao cho tôi đều được pháp luật bảo đảm và phải được giữ bí mật, ông biết mà. Cái đó được gọi là kết quả lao động của một luật sư. Chớ quên rằng ông Aricia đã kiện thân chủ của tôi. Tất cả các tài liệu trong tay tôi là có đặc quyền pháp lý. Dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, tôi cũng sẽ không trao ra các tài liệu đó, cho tới khi thân chủ của tôi yêu cầu làm như vậy.”

“Nếu chúng tôi có lệnh của tòa án thì sao ?” Sprawling hỏi.

“Tôi sẽ không chấp nhận, rồi sẽ kháng nghị. Các ông không thể thắng được trong chuyện này đâu, thưa các quý ông.” Và với tuyên bố đó của Sandy, họ có vẻ đã chấp nhận thất bại. Không có ai phản đối gì.

“Có bao nhiêu người liên quan ?” Jaynes hỏi.

“Bốn cổ đông ở Hãng luật và ông Aricia.”

Có một khoảng im lặng nặng nề trong khi họ chờ đợi Sandy nêu tên của vị Thượng nghị sĩ kia, thế nhưng anh đã không nói gì. Thay vì đó, anh nhìn vào những giấy tờ của mình và tiếp tục. “Thỏa thuận hoàn toàn đơn giản. Chúng tôi sẽ trao những tài liệu và những cuộn băng kia. Patrick sẽ trả lại tiền, tất cả. Đổi lại, các cáo buộc của Liên bang phải được từ bỏ để chúng tôi có thể tập trung vào cáo buộc của bang. Cơ quan thuế Liên bang đồng ý không động gì đến anh ta. Cô luật sư người Braxin của anh ta, Eva Miranda, được thả ra ngay lập tức.” Sanđy nói những điều kiện này một cách rất rành mạch bởi lẽ chúng đã được tính toán kỹ càng, và cái “hội thẩm đoàn” kia nghe không lọt chữ nào. Sprawling ghi chép lại cẩn thận. Jaynes đưa mắt nhìn xuống sàn nhà, không cười, cũng không cau mày. Số còn lại đều bình thản, nhưng mỗi người đều bị ám ảnh bởi nhiều câu hỏi trong đầu.

“Và phải được thỏa thuận trong ngày hôm nay,” Sandy nói thêm. “Có lẽ là cần phải khẩn cấp.”

“Vì sao ?” Jaynes hỏi.

“Bởi vì cô ấy đang bị giam. Bởi vì tất cả các ông đều đang có mặt ở đây, và các ông có thẩm quyền để ra quyết định. Bởi vì thân chủ của tôi đã lấy năm giờ chiều nay làm thời hạn cho một thỏa thuận, nếu không thì anh ta sẽ giữ lại tiền, thủ tiêu các bằng chứng, chấp nhận ngồi tù, và hy vọng sẽ được tự do vào một ngày nào đó.”

Với Patrick thì họ không dám nghi ngờ gì. Cho tới lúc này, hắn đã làm được cái việc là ngồi tù trong một căn phòng khá riêng tư với cả một bộ máy giúp việc luôn sẵn sàng trước mỗi cái gật đầu hay mỗi cú điện thoại của hắn.

“Chúng ta hãy nói về ông Thượng nghị sĩ kia,” Sprawling nói.

“Một ý kiến hay lắm,” Sandy nói. Anh ta mở cánh cửa thông sang căn phòng khách và nói gì đó với một phụ tá. Một cái bàn trên có đặt một dàn máy ghi âm và loa được đẩy vào giữa phòng. Sandy nhìn xuống xấp giấy tờ và nói, “Đó là ngày 14 tháng Giêng năm 1992, chừng ba tuần lễ trước khi Patrick biến mất. Cuộc nói chuyện này diễn ra trong Hãng luật, ở tầng trệt, tại một căn phòng được gọi là phòng để đồ, một cái phòng có thể dùng cho mọi việc và đôi khi có thể được dùng cho những cuộc họp rất ít thành phần tham dự. Giọng nói đầu tiên mà quý vị sẽ nghe thấy là của Charlie Bogan, tiếp đó là Benny Aricia, rồi sau là Doug Vitrano. Aricia đến Hãng mà không báo trước, và như quý vị sẽ thấy, đang ở trong một tâm trạng không được vui vẻ cho lắm.”

Sandy bước đến bên bàn và nhìn các nút bấm. Cái dàn máy này mới tinh và được nối với hai chiếc loa loại đắt tiền. Họ chăm chăm nhìn anh ta, hầu hết đều hơi nhỏm người lên một chút.

Sandy nói, “Xin nhắc lại, Bogan đầu tiên, rồi Aricia, rồi Vitrano.” Anh ta nhấn một cái nút. Có khoảng mười giây hoàn toàn im ắng, rồi những tiếng nói phát ra rõ ràng từ những chiếc loa. Những giọng nói gay gắt.

Bogan: Chúng ta đã thỏa thuận về khoản thù lao một phần ba, đó là chuẩn mực của chúng tôi. Ông đã ký hợp đồng. Từ cả một năm rưỡi nay ông đã biết khoản thù lao của chúng tôi là một phần ba.

Aricia: Các ông không đáng được hưởng tới ba mươi triệu đôla.

Vitrano: Còn ông thì không đáng được hưởng sáu mươi triệu.

Aricia: Tôi muốn biết tiền sẽ được chia như thế nào.

Bogan: Hai phần ba, một phần ba. Sáu mươi, ba mươi.

Aricia: Không, không. Khoản ba mươi triệu sẽ chạy vào đây cơ. Bao nhiêu cho những ai ?

Vitrano: Đó không phải là việc của ông.

Aricia: Mẹ kiếp, sao lại không. Đó là tiền do tôi trả thù lao. Tôi có quyền biết ai được bao nhiêu.

Bogan: Không, ông không có quyền.

Aricia: Ông Thượng nghị sĩ được bao nhiêu ?

Bogan: Không phải việc của ông.

Aricia: (La hét) Đó là việc của tôi. Thằng cha đó đã vận động suốt cả năm ngoái ở Oasinhtơn, dựa vào những người ở Hải quân, Lầu Năm góc và Bộ Tư pháp. Mẹ kiếp, ông ta đã dành nhiều thời gian cho vụ của tôi còn hơn cả thời gian cho các khu vực cử tri của ông ta đấy.

Vitrano: Đừng có hét lên, được chứ, Benny.

Aricia: Tôi muốn biết thằng cha xảo quyệt nhầy nhụa đó sẽ được bao nhiêu. Tôi có quyền biết các ông ngầm chia chác thế nào, bởi vì đó là tiền của tôi.

Vitrano: Tất cả đều là ngầm cả mà, Benny.

Aricia: Bao nhiêu ?

Bogan: Ông ấy sẽ được chăm sóc tử tế, Benny. Sao ông cứ bám mãi vào chuyện này thế? Chuyện này đâu có gì là mới.

Vitrano: Tôi nghĩ rằng ông đã lựa chọn Hãng này, cụ thể là do những mối liên hệ của chúng tôi ở Oasinhtơn.

Aricia: Năm triệu hay mười triệu hả ? Giá của ông ta là bao nhiêu ?

Bogan: Không bao giờ ông biết được điều đó đâu.

Aricia: Không à, mẹ kiếp. Tôi sẽ gọi cho thằng cha chó đẻ đó và đích thân hỏi cho mà xem.

Bogan: Xin cứ việc.

Vitrano: Ông sao vậy hả, Benny ? Ông sắp kiếm được sáu mươi triệu đôla, và bây giờ ông đang trở nên tham lam đấy.

Aricia: Đừng có lên mặt dạy đời, nhất là về lòng tham. Khi tôi tới đây, các ông đang làm việc với giá hai trăm đôla một giờ. Bây giờ thử nhìn lại xem, các ông đang cố bao biện cho một khoản thù lao ba mươi triệu đôla. Đã đang sửa sang trụ sở. Đã đang đặt mua những chiếc xe mới. Rồi thì sẽ tàu thuyền, máy bay và tất cả những thứ đồ chơi khác của giới giàu có. Và tất cả đều là bằng tiền của tôi.

Bogan: Tiền của ông à ? Chúng ta đã quên mất chuyện gì ở đây chăng, Benny ? Giúp tôi chút xem nào. Sự tố cáo của ông là giả dối như một tờ ba đôla vậy.

Aricia: Phải, nhưng mà tôi đã làm nên chuyện. Tôi, chứ không phải các ông, đã làm cho Platt & Rockland sa bẫy.

Bogan: Vậy sao ông lại thuê chúng tôi ?

Aricia: Hỏi vớ hỏi vẩn.

Vitrano: Ông có một trí nhớ tồi, Benny. Ông đã tìm đến đây là vì thế mạnh của chúng tôi. Ông đã cần sự giúp đỡ. Chúng tôi sắp xếp sự tố cáo đó đâu vào đấy, phải làm việc bốn nghìn giờ với nó, và chúng tôi đã có những tác động đúng chỗ ở Oasinhtơn. Tất cả đều được ông biết rõ, tôi có thể nói thêm như vậy.

Aricia: Gạt thằng cha Thượng nghị sĩ ra. Điều đó sẽ làm cho chúng ta đỡ tốn được mười triệu. Cắt bớt đi mười triệu nữa, vậy là các ông còn lại cho bản thân mười triệu. Theo ý tôi thì đó là một khoản thù lao công bằng hơn nhiều đấy.

Vitrano: (Cười ầm lên) Tuyệt lắm, Benny. Ông được tám mươi, bọn tôi mười.

Aricia: Phải, và chúng ta cùng chơi bọn chính trị gia kia.

Bogan: Không thể được, Benny. Ông đang quên một điều rất quan trọng. Nếu không có chúng tôi và các chính trị gia kia thì ông cũng sẽ chẳng kiếm được một đồng xu nào đâu.

Sandy nhấn nút. Cuộn băng dừng lại, nhưng những tiếng nói đó còn như văng vẳng quanh phòng hồi lâu. Những người trong cuộc nguời thì nhìn xuống sàn, người thì nhìn lên trần, lên tường, mỗi người đều đang cố nhớ những gì mà họ đã nghe thấy.

Vói một nụ cười thoải mái, Sandy nói, “Thưa quý vị, đây mới chỉ là một mẩu bằng chứng.”

“Khi nào thì chúng tôi có nốt những gì còn lại ?” Jaynes hỏi.

“Có thể là chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ.”

“Thân chủ của ông sẽ cung khai trước một đoàn đại bồi thẩm Liên bang chứ ?” Sprawling hỏi.

“Anh ta sẽ đồng ý. Nhưng anh ta không hứa là sẽ cung khai trước tòa.”

“Vì sao ?”

“Anh ta không phải giải thích. Đó là lập trường của anh ta, thế thôi.” Sandy đẩy cái bàn ra cửa, gõ cửa, và trao nó lại cho người phụ tá, rồi quay lại nói tiếp, “Quý vị nên bàn bạc. Tôi sẽ ra ngoài. Xin cứ thoải mái cho.”

“Chúng tôi sẽ không bàn bạc gì ở đây cả,” Jaynes nhảy dựng lên. Có quá nhiều dây rợ lằng nhằng, và với những gì Patrick đã làm thì không có căn phòng nào an toàn cả. “Chúng tôi sẽ tới phòng của chúng tôi.”

“Xin tùy ý,” Sandy nói. Họ đứng cả dậy, tay vớ cặp. Họ kéo nhau qua cửa, qua căn phòng khách và ra khỏi căn hộ. Lynda và Linda chạy vội tới căn phòng ngủ lúc nãy để đi vệ sinh và hút thuốc.

Sandy pha một ly cà phê và ngồi chờ.

oOo

Họ tập hợp lại ở cách đó hai tầng về phía dưới, trong một căn phòng đôi mà ngay lập tức đã trở nên chật chội. Những chiếc áo khoác được cởi ra và ném lên đống chăn gối trên cả hai chiếc giường. Jaynes bảo người lái xe của ông ta chờ ngoài hành lang cùng với tay trợ lý của Mast. Những vấn đề sắp được bàn tới là quá nhạy cảm đối với những đôi tai của họ.

Bên mất lớn nhất trong thỏa thuận này sẽ là Maurice Mast. Nếu như phải từ bỏ các cáo buộc của Liên bang thì ông ta sẽ không còn gì để mà truy tố nữa. Một phiên tòa khá lớn sẽ biến mất, và ông ta cảm thấv ít nhất thì cũng phải đưa ra lời phản đối trước khi những người khác lên tiếng. “Ta sẽ trở thành ngớ ngẩn nếu để hắn chuồn êm được với vụ này,” ông ta nói, chủ yếu là hướng vào Sprawling, người đang cố xoay sở lấy một tư thế thoải mái trên một chiếc ghế gỗ mỏng manh.

Sprawling chỉ ở cương vị thấp hơn chính ông Bộ trưởng Tư pháp có một cấp, và cao hơn Mast tới mấy cấp. Ông ta sẽ lịch sự lắng nghe trong ít phút ý kiến của đám cấp dưới và rồi sẽ cùng Jaynes đưa ra một quyết định.

Hamilton Jaynes đưa mắt nhìn T.L.Parrish, và hỏi, “ Ông có lý do để tin rằng ông có thể khép được Lanigan vào tội cố sát không hả ?”

Parrish thuộc loại người thận trọng, và ông ta hoàn toàn biết rằng bất kỳ lời hứa nào trước nhóm người này đều cũng sẽ được nhớ rất lâu. “Cố sát thì có thể có một vài rắc rối. Ngộ sát thì chắc chắn.”

“Ngộ sát thì bao nhiêu năm ?”

“Hai mươi năm.”

“Hắn sẽ phải ngồi tù bao lâu ?”

“Năm năm, hơn hoặc kém một chút ”

Kỳ cục là điều này dường như làm cho Jaynes, một tay nhà nghề luôn nghĩ rằng những kẻ vi phạm cần phải bị ngồi tù, lại cảm thấy hài lòng. “Ông đồng ý chứ, Cutter?” Ông ta vừa hỏi vừa đi lại dọc theo chiếc giường.

“Không có nhiều bằng chứng,” Cutter nói. “Trong vụ giết người này, chúng ta không thể chứng minh những yếu tố như ai, bằng cách nào, khi nào hay ở đâu. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi biết nguyên nhân vì sao, nhưng phiên tòa đó có thể là cả một cơn ác mộng. Ngộ sát thì dễ dàng hơn nhiều.”

Jaynes hỏi Parrish, “Ông Thẩm phán thì sao ? Liệu ông ấy có tuyên khung hình phạt cao nhất không ?”

“Nếu hắn bị kết tội ngộ sát, tôi cho rằng ông Thẩm phán sẽ tuyên án hai mươi năm. Việc ân xá là do bên nhà tù quyết định.”

“Chúng ta có thể yên tâm cho rằng trong năm năm tới Lanigan sẽ ngồi tù được không?” Jaynes hỏi và nhìn quanh phòng.

“Vâng, chắc chắn,” Parrish nói vẻ thụ động. “Và chúng tôi cũng sẽ không lùi bước trước vấn đề cố sát. Chúng tôi có ý định kiên quyết lập luận rằng Lanigan đã giết một người khác để hắn có thể đánh cắp được chỗ tiền kia. Án tử hình thì không chắc, nhưng nếu hắn bị khép vào tội giết người bình thường thôi thì cũng đủ lãnh án chung thân rồi.”

“Với chúng ta thì có gì khác biệt không trong việc hắn phải ngồi tù ở Parchman hay trong một nhà tù của Liên bang ?” Jaynes hỏi. Với ông ta thì rõ ràng là chẳng có gì khác.

“Tôi tin chắc là Patrick hiểu rõ sự khác biệt này,” Parrish nói, và nhận được một vài tiếng cười khẽ.

Parrish đặc biệt thích thỏa thuận này bởi lẽ ông ta sẽ trở thành công tố viên còn lại duy nhất. Mast và FBI sẽ nhanh chóng rút ra khỏi vụ này. Còn một khoảng trống, và ông ta quyết định đẩy Mast gần lại bờ vực thêm chút nữa. “Tôi không nghi ngờ gì là Patrick sẽ phải ngồi tù, ở Parchman,” ông ta nói.

Mast không chịu im. Ông ta lắc đầu và cau mày. “Tôi không chắc chuyện đó,” ông ta nói. “Tôi cho rằng chúng ta sẽ mất uy tín nếu chấp nhận thỏa thuận này. Người ta không thể đi cướp nhà băng, rồi khi bị bắt thì đề nghị đem trả lại tiền nếu không bị buộc tội nữa. Công lý không thể rao bán được.”

“Chuyện hơi phức tạp hơn thế một chút,” Sprawling nói. “Đột nhiên chúng ta có khả năng tóm được con cá lớn hơn, và Patrick là chiếc chìa khóa. Tiền mà hắn đánh cắp là thứ tiền bẩn thỉu. Đơn giản là chúng ta thu hồi và trả lại cho những người đóng thuế.”

Mast không dám tranh cãi với Sprawling.

Jaynes nhìn T.L.Parrish và nói. “Mặc dù rất tôn trọng ông, ông Parrish, tôi xin ông ra ngoài một lát. Bên Liên bang chúng tôi cần thảo luận chút xíu.”

“Được thôi,” Parrish đáp.

Bàn cãi thế là đủ. Đã đến lúc để Sprawling kết luận vấn đề. “Thưa quý vị, chuyện rất đơn giản. Có những người rất quan trọng ở Nhà Trắng đang theo dõi vụ này sát sao. Thượng nghị sĩ Nye chưa bao giờ là một người bạn của Tổng thống, và nói thẳng ra thì một vụ bê bối lớn ở đây sẽ làm cho chính quyền vui mừng. Cái ghế của Nye sẽ được bầu lại trong hai năm nữa. Nhũng tố cáo này sẽ làm cho ông ta phải bận bịu. Và nếu đúng thì ông ta coi như chết rồi.”

“Chúng tôi sẽ tiến hành điều tra,” Jaynes nói với Mast. “Và ông sẽ tiến hành việc truy tố.”

Đột nhiên, mọi thứ trở nên rõ ràng với Mast là cuộc họp này chỉ vì ông ta. Quyết định đi tới chỗ thỏa thuận với Patrick đã được sắp xếp từ trước cuộc họp này bởi những người có thế lực hơn Sprawling và Jaynes nhiều. Họ chỉ cố làm cho ông ta được hài lòng mà thôi, bởi lẽ rốt cuộc thì ông ta cũng là công tố viên Liên bang của khu vực này.

Cái ý nghĩ về việc được buộc tội và truy tố một Thượng nghị sĩ Mỹ có tác động rất lớn và Mast ngay lập tức đã mơ màng với nó. Ông ta đã có thể hình dung thấy mình giữa một phiên tòa chật ních, phát lại cuộn băng của Patrick và hội thẩm đoàn cùng những người dự phiên tòa nghe chăm chú từng chữ. “Vậy chúng ta sẽ chấp nhận thỏa thuận này hả ?” Ông ta vừa nói vừa nhún vai như thể không còn biết nói gì hơn.

“Phải.” Sprawling nói. “Một vụ tuyệt lắm. Uy tín của chúng ta sẽ tăng lên với việc lấy lại được chỗ tiền. Patrick vẫn phải ngồi tù một thời gian dài. Chúng ta lại còn găm đuợc những con mồi lớn hơn.”

“Cộng với việc Tổng thống cũng muốn thế nữa chứ,” Mast vừa nói vừa cười, mặc dù chẳng có ai khác cười theo.

“Tôi không có nói như vậy,” Sprawling lên tiếng, “ Tôi chưa hề nói chuyện với Tổng thống về vụ nàv. Các sếp của tôi nói chuyện với người của Tổng thống. Đó là tất cả những gì tôi biết.”

Jaynes lôi T.L Parrish từ ngoài hành lang vào, và họ mất gần một giờ để rà lại đề nghị của Patrick, xem xét lại từng phần trong đề nghị đó. Cô gái kia có thể được thả ra trong vòng một tiếng đồng hồ. Patrick cũng sẽ phải trả lãi cho chỗ tiền đó, họ quyết định. Còn vụ kiện mà hắn đã đệ ra tòa đối với FBI thì sao ? Jaynes lập một danh mục các vấn đề để nêu lại với Sandy.

Tại Miami, Mark Birck đích thân chuyển đến Eva cái tin tuyệt vời là cha nàng đã được trả lại tự do. Ông không bị làm hại gì cả; mà trên thực tế là còn được đối xử khá tốt nữa.

Ông ta nói với nàng rằng với một chút may mắn thì bản thân nàng cũng sẽ được trả lại tự do trong một hoặc hai ngày nữa.

Bình luận
× sticky