Người dịch: Nguyễn Bá Long
Nhà xuất bản: NXB Văn học
Shared by: CCG –
Chưa có vụ thả người nào lại diễn ra êm ả đến thế. Eva bước ra khỏi trung tâm giam giữ của Liên bang, và trở thành người tự do, vào lúc tám rưỡi sáng, cũng vẫn trong bộ quần áo mà nàng đã mặc khi bị đưa vào đó. Những người gác có thái độ nhã nhặn; các nhân viên văn phòng làm việc chóng vánh đến ngạc nhiên; và tay giám thị thậm chí còn chúc nàng khỏe. Mark Birck đưa nàng ra xe của ông ta, một chiếc Jaguar cũ song còn khá đẹp mà ông ta đã cho cọ rửa tử tế nhân dịp này, và gật đầu chào hai người hộ tống của họ. “Đó là các nhân viên FBI,” ông ta nói với nàng, hất hàm về phía hai người đàn ông đang chờ trong chiếc xe đậu gần đó.
“Tôi nghĩ là chúng ta đã xong việc với họ rồi đấy,” nàng nói.
“Không hẳn thế.”
“Tôi phải vẫy chào hay làm gì chăng ?”
“Không. Cứ vào xe thôi.” Ông ta mở cửa xe cho nàng, nhẹ nhàng đóng lại, và trong một giây ngẩn người trước cái mui xe bóng loáng, rồi bước nhanh vòng sang bên ghế lái.
“Đây có một bức thư của Sandy McDermott gửi bằng fax đến cho tôi,” ông ta nói trong khi cho xe nổ máy và chuyển bánh. “Hãy xem đi.”
“Chúng ta đi đâu thế này ?” Nàng hỏi.
“Ra sân bay, nhà ga chính. Có một chiếc phản lực nhỏ đang chờ cô ở đó.”
“Để đưa tôi đi đâu ?”
“New York.”
“Và rồi đi đâu ?”
“Luân Đôn, trên một chuyến Concorde.”
Họ đang trên một đường phố đông đúc, với các nhân viên FBI bám theo đằng sau. “Sao họ lại đi theo chúng ta hả ?” Nàng hỏi.
“Để bảo vệ.”
Nàng nhắm mắt lại và đưa tay lên trán, nghĩ tới Patrick đang ở trong căn phòng nhỏ bé của hắn ở bệnh viện, chán chường, chẳng còn biết làm gì ngoài việc nghĩ tới những nơi phải đưa nàng đến. Thế rồi, nàng chợt nhìn thấy chiếc điện thoại gắn trong xe. “Tôi có thể dùng được không ?” Nàng hỏi và đưa tay nhấc máy.
“Tất nhiên.” Birck chạy rất thận trọng, quan sát các gương tử tế như thể đang lái xe cho Tổng thống.
Eva gọi về Braxin, dùng tiếng mẹ đẻ, và có một cuộc tái đoàn tụ cảm động với cha nàng, qua vệ tinh. Ông hoàn toàn khỏe mạnh, và nàng cũng vậy. Cả hai đều được tự do, tuy rằng nàng không nói với ông về việc nàng ở đâu trong mấy ngày qua. Ông thậm chí còn nói đùa rằng sau cùng thì trò bắt cóc cũng không đến nỗi khủng khiếp lắm. Ông đã được đối xử tử tế; mình mẩy không có một vết thâm tím nào. Nàng hứa là sẽ sớm trở về. Công việc của nàng ở Mỹ đã gần xong, và nàng rất nhớ nhà.
Birck nghe thấy hết, mặc dù không muốn, nhưng lại chẳng hiểu nổi một từ nào. Khi nàng gác máy và lau nước mắt, ông ta nói, “Trong bức thư đó có mấy số máy điện thoại, ngừa trường hợp cô lại bị nhân viên hải quan giữ lại. FBI đã rút lệnh tìm kiếm của họ, và họ cũng đã đồng ý để cô đi lại với tấm hộ chiếu đó trong bảy ngày tới.”
Nàng nghe nhưng không nói gì.
‘“Cũng còn có một số máy ở Luân Đôn, nếu như có chuyện gì đó xảy ra ở sân bay Heathrow.”
Sau cùng thì nàng mở bức thư ra. Đó là thư của Sandy, trên giấy có tiêu đề của anh. Mọi việc đang diễn ra tốt đẹp, và nhanh chóng, ở Biloxi. Gọi cho anh ta ở căn hộ tại khách sạn khi nàng tới sân bay JFK. Anh sẽ có những chỉ dẫn thêm. Nói cách khác, anh sẽ nói với nàng những điều mà ông Birck đây không nên biết.
Họ đã đến cái nhà ga chính rất bận rộn ở mặt bắc của sân bay quốc tế Miami. Hai nhân viên FBI ở lại xe của họ trong khi Birck đưa nàng vào bên trong. Các phi công đã chờ sẵn. Họ chỉ tay về phía một chiếc máy bay phản lực nhỏ, rất đẹp, đậu ngay bên ngoài, sẵn sàng đưa nàng tới bất kỳ đâu mà nàng muốn. “Đưa tôi tới Rio,” nàng đã suýt buột miệng.
Nàng bắt tay Birck, cảm ơn ông ta về tất cả, và lên máy bay. Không có hành lý gì. Không cả một cái áo để thay. Patrick sẽ phải trả giá đắt về việc này. Cứ để tới Luân Đôn đã; để nàng có một ngày ở Bond và Oxford. Nàng sẽ có một số lượng quần áo mà cái máy bay này cũng không chở nổi cho mà xem.
oOo
Vào lúc còn sớm như thế này mà trông J.Murray đã rất mệt mỏi và nhếch nhác. Ông ta cố gượng chào cô thư ký ra mở cửa và nhận lời dùng một ]y cà phê đen, đặc. Sandy chào hỏi, giúp ông ta cởi cái áo khoác nhầu nhĩ và mời ông ta vào trong phòng khách, nơi họ cùng ngồi xem lại văn bản thỏa thuận về tài sản.
“Như thế này tốt hơn nhiều,” Sandy nói sau khi đọc xong. Trudy đã ký thỏa thuận. J.Murray không thể chịu nổi một chuyến viếng thăm nữa của ả và cái gã đĩ đực kia. Ngày hôm trước, ả và Lance đã cãi lộn tại văn phòng của ông ta. J.Murray đã lo những vụ ly hôn bẩn thỉu trong nhiều năm, và ông ta dám đánh cá rằng Lance không còn lại được mấy ngày nữa bên Trudy. Sự căng thẳng về tài chính đang giày vò ả.
“Chúng tôi sẽ ký,” Sandy nói.
“Lại còn không sao ? Các ông đã được mọi điều các ông muốn.”
“Đó là một giải pháp công bằng, với hoàn cảnh cụ thể.”
“Phải, phải.”
“Này, Murray, có một diễn biến quan trọng liên quan đến thân chủ của ông và vụ kiện của cô ta với Northern Case Mutual.”
“Nói đi.”
“Đuợc rồi, có nhiều chuyện xung quanh nhưng không thật sự liên quan tới thân chủ của ông, nhưng điểm mấu chốt là thế này: Northern Case Mutual đã đồng ý bãi nại đối với Trudy.”
J.Murray ngồi lặng mất mấy giây, rồi mới mấp máy môi. “Chuyện đùa chăng ?”
Sandy với lấy một bản sao văn bản thỏa thuận với Northern Case Mutual. Anh đã bôi đen những đoạn nhạy cảm, nhưng quá đủ cho J.Murray.
“ Ông đùa đây ư,” ông ta lẩm bẩm trong khi đưa tay cầm lấy tờ giấy, nhìn lướt qua những hàng chữ đã bị bôi đen mà không mảy may tò mò gì, và dừng lại ở trọng tâm của vấn đề, hai đoạn được kẻ kiểm duyệt kia giữ nguyên lại. Ông ta đọc rõ ràng và chính xác phần nội dung tuyên bố từ bỏ ngay lập tức vụ kiện chống lại thân chủ của mình. Ông ta không thèm biết vì sao lại có chuyện đó. Một bức màn bí ẩn dường như không thể chọc thủng được đã bao bọc lấy Patrick, và ông ta không có ý định hỏi gì nữa.
“Một sự bất ngờ thú vị,” ông ta nói.
“Tôi nghĩ là ông thích nó.”
“Cô ta được giữ lại tất cả ư ?”
“Tất cả những gì mà cô ta còn lại.”
J.Murray từ từ đọc lại một lần nữa. “Tôi có thể giữ tờ này được không ?” Ông ta hỏi.
“Không. Đó là chuyện bí mật. Nhưng đơn xin bãi nại sẽ được trình tòa ngày hôm nay, và tôi sẽ fax cho ông một bản sao.”
“Xin cảm ơn.”
“Còn một mục nữa,” Sandy nói. Anh đưa cho J.Murray bản sao văn bản thỏa thuận với Monarch-Sierra, cũng đã được kiểm duyệt tương tự. “Hãy nhìn vào trang bốn, đoạn thứ ba.”
J.Murray đọc đoạn về việc lập một quỹ ủy thác hai trăm năm mươi nghìn đôla cho cô bé Ashley Nicole Lanigan. Sandy McDermott sẽ là người quản lý quỹ này. Tiền trong đó sẽ chỉ được dùng cho việc chăm sóc con bé về sức khỏe và học hành, và phần không dùng hết sẽ được trả thẳng cho con bé vào ngày sinh nhật lần thứ ba mươi của nó.
“Tôi không còn biết nói gì.” Miệng nói vậy, thế nhưng, đầu ông ta đã nghĩ tới việc thông báo lại chuyện này như thế nào tại văn phòng của mình.
Sandy phẩy tay, ra vẻ chuyện không có gì.
“Còn gì nữa không ?” J.Murray hỏi với một nụ cười rạng rỡ.
“Có thế thôi. Vụ ly hôn đã được giải quyết. Thật là dễ chịu.”
Họ bắt tay và J.Murray ra về, với những bước chân nhanh nhẹn hẳn. Một mình trong thang máy, đầu ông ta cứ rộn lên về việc sẽ nói với Trudy, rằng ông ta đã phải quyết liệt với bọn bất lương đó như thế nào, tức đến tận cổ với những đòi hỏi vô lối của họ, xông vào giữa cuộc họp của họ và đe dọa một phiên tòa gay gắt ra làm sao, trừ phi họ chịu có những nhượng bộ. Ông ta đã lo nhiều vụ như vậy – và có tiếng là một kẻ to mồm trong tòa án. Mặc những lời tố cáo về chuyện ngoại tình! Mặc những tấm ảnh khỏa thân! Thân chủ của ông ta có sai trái nhưng vẫn có quyền được hưởng công bằng. Còn có một đứa trẻ tội nghiệp cần được bảo vệ ở đây!
Ông ta sẽ nói họ đã phải chịu thua và chạy dài như thế nào. Ông ta đã đòi lập một quỹ ủy thác cho con bé, và Patrick đã suy sụp trước những tội lỗi của chính hắn. Rồi họ đã phải nài nỉ để được nộp ra hai trăm năm mươi nghìn đôla.
Và ông ta đã chiến đấu quyết liệt để bảo vệ tài sản cho thân chủ của mình, người đã không làm gì sai trái khi nhận hai triệu rưỡi đôla kia. Do lo sợ, họ đã phải co lại và tìm cách nào đó để khỏi động đến tiền của Trudy. Vào lúc này thì những chi tiết cụ thể còn chưa rõ ràng, nhưng mà ông ta sẽ bỏ ra một tiếng để lo về chuyện này. Đến lúc ông ta trở lại văn phòng, thì đó sẽ là một thắng lợi tuyệt vời.
oOo
Những cặp lông mày nhướng lên tại quầy vé Concorde ở sân bay JFK chỉ bởi vì nàng không có hành lý gì. Một giám sát viên được gọi đến và tiếp theo đó là một cuộc hội ý trong lúc Eva phải cố gắng lắm để giữ bình tĩnh. Nàng sẽ không thể nào chịu được vụ bắt giữ nữa. Nàng yêu Patrick, nhưng yêu đương gì thì thế này cũng là quá đáng lắm rồi. Mới chẳng bao xa, nàng đã có một nghề nghiệp đầy triển vọng với tư cách là một luật sư ngay trong cái thành phố mà nàng yêu quý. Thế rồi, Patrick xuất hiện.
Bỗng nhiên, ở đâu cũng thấy những nụ cười nồng nhiệt của những người Anh. Nàng được đưa vào phòng đợi của chuyến bay Concorde, nơi nàng dùng một ly cà phê, và gọi cho Sandy ở Biloxi.
“Cô khỏe không?” Anh hỏi khi nhận ra giọng nàng.
“Tôi khỏe, Sandy. Đang ở JFK, trên đường di Luân Đôn. Patrick thế nào ?”
“Tuyệt vời. Chúng tôi đã thỏa thuận xong với bên Liên bang.”
“Bao nhiêu ?”
“Một trăm mười ba triệu,” anh đáp, và chờ phản ứng của nàng. Patrick đã hoàn toàn hờ hững khi được biết về số tiền phải trả lại này. Và nàng cũng vậy.
“Bao giờ ?” Nàng chỉ hỏi có vậy.
“Tôi sẽ có những chỉ dẫn sau khi cô đã tới Luân Đôn. Có một phòng được đặt sẵn ở khách sạn Four Seasons với tên Leah Pires.”
“Vậy là tôi lại được mang cái tên đó.”
“Gọi cho tôi khi đến nơi nhé.”
“Nói với Patrick rằng tôi vẫn yêu anh ấy, ngay cả sau khi đã bị tống vào tù.”
“Tôi sẽ gặp anh ta tối nay. Cẩn thận đấy.”
“Chào.”
oOo
Với những nhân vật quan trọng như vậy có mặt trong thành phố, Mast không thể nào cưỡng lại được cơ hội gây ấn tượng với họ. Tối hôm trước, sau khi đã nhận được những tài liệu và những cuộn băng kia, ông ta đã cho các nhân viên của mình gọi tới tất cả các thành viên của đoàn đại bồi thẩm và báo với họ về một cuộc họp khẩn cấp. Với năm phụ tá, ông ta đã cùng với FBI phân loại và sắp xếp các tài liệu, rời văn phòng vào lúc ba giờ sáng, và trở lại đó sau năm tiếng đồng hồ.
Cuộc họp của đoàn đại bồi thẩm diễn ra vào buổi trưa, với một bữa ăn được phục vụ. Hamilton Jaynes đã quyết định quanh quẩn ở lại đủ lâu để dự cuộc họp đó, Sprawling của Bộ Tư pháp cũng vậy. Patrick sẽ là nhân chứng duy nhất.
Theo thỏa thuận giữa họ, hắn sẽ được đưa đến, vẫn bị khóa tay, trong một chiếc xe không có phù hiệu của FBI và vào theo lối cổng phụ của tòa nhà Tòa án Liên bang tại Biloxi. Sandy ngồi cùng trên xe. Patrick mặc một chiếc quần kaki rộng thùng, áo ngắn tay, chân mang giầy thể thao; tất cả là do Sandy mua cho hắn. Trông hắn xanh và gầy, nhưng không thấy tập tễnh gì lúc bước đi. Thực sự là Patrick cảm thấy rất khỏe khoắn.
Mười sáu vị bồi thẩm ngồi quanh một chiếc bàn dài, bởi vậy có tới một nửa quay lưng ra cửa khi Patrick bước vào với một nụ cười trên miệng. Những người không nhìn trực diện được vào hắn lập tức quay cả lại. Jaynes và Sprawling ngồi trong một góc phòng, cũng tò mò khi lần đầu tiên nhìn thấy Patrick Lanigan.
Patrick ngồi ở cuối bàn, trên chiếc ghế dành cho nhân chứng, và tất cả đều đổ dồn mắt về phía hắn. Hắn không cần chờ Mast thúc giục nhiều để bắt đầu kể lại câu chuyện của mình, hay ít nhất cũng là một phần của câu chuyện đó. Hắn cảm thấy thoải mái và thư thái, phần nào là vì cái đoàn đại bồi thẩm này không còn thể nào động được tới hắn. Hắn đã tự giải phóng mình ra khỏi bàn tay của luật pháp Liên bang.
Hắn bắt đầu với Hãng luật, các cổ đông của Hãng, nhân thân của họ, các thân chủ, lề thói công việc, và dần dần dẫn dắt câu chuyện tới với Aricia.
Mast ngắt lời Patrick, và trao một tài liệu mà hắn xác nhận là bản hợp đồng giữa Hãng luật và Aricia. Bản hợp đồng đó dài bốn trang, nhưng có thể tóm tắt lại là một thỏa thuận cơ bản về việc Hãng luật sẽ được một phần ba của bất kỳ khoản tiền nào mà Aricia sẽ có được nhờ việc nộp đơn tố giác Hãng Platt & Rockland Industries.
“Và làm sao mà ông có được văn bản này ?” Mast hỏi.
“Thư ký của ông Bogan đánh máy nó. Các máy tính của chúng tôi nối với nhau, và tôi chỉ việc lấy nó ra.”
“Có phải vì vậy mà bản này không có chữ ký không ?”
“Đúng vậy. Bản gốc hiện có thể nằm trong hồ sơ của ông Bogan.”
“ Ông có ra vào phòng làm việc của ông Bogan không ?”
“Hãn hữu,” Patrick đáp, và giải thích về thói giữ bí mật của ông ta. Rồi tới chuyện ra vào các phòng làm việc khác, rồi câu chuyện đầy hấp dẫn về những phiêu lưu của Patrick vào trong thế giới của những hoạt động gián điệp hiện đại. Bởi lẽ hắn rất nghi ngờ Aricia, hắn đã bắt đầu việc thu thập thông tin càng nhiều càng tốt. Hắn đã tự học về hoạt động gián điệp điện tử. Hắn đã giám sát các máy tính cá nhân trong Hãng. Hắn lắng nghe những lời bàn tán xầm xì. Hắn căn vặn các cô thư ký và các trợ lý. Hắn sục sạo cả cái sọt rác trong phòng đặt máy photocopy. Hắn làm việc trong cả những giờ nghỉ với hy vọng bắt gặp những cánh cửa phòng để ngỏ.
Sau hai giờ, Patrick xin một chai nước ngọt. Mast tuyên bố nghỉ giải lao mười lăm phút. Thời gian đã trôi quá nhanh bởi lẽ tất cả những người nghe đều bị cuốn hút.
Khi nhân chứng từ phòng vệ sinh trở ra, họ nhanh chóng ngồi vào trở lại, nôn nóng muốn được nghe tiếp Mast hỏi một số câu về sự tố giác chống lại Platt & Rockland, và Patrick đã mô tả lại một cách khái quát. “Ông Aricia đã rất khéo léo. Ông ta đã làm trò tính tiền hai lần, thế nhưng vẫn đẩy trách nhiệm sang được cho những người ở trên văn phòng Hãng. Ông ta chính là cái động lực ngầm đằng sau những chi phí quá mức.”
Mast đặt một xấp tài liệu bên cạnh Patrick. Hắn nhấc một trong số đó lên và chỉ liếc mắt đã biết rõ mọi nội dung trong đó. “Đây là một ví dụ về việc trả tiền cho những lao động ma ở Xưởng đóng tàu New Coastal. Nó là một báo cáo được làm trên máy tính về lao động trong một tuần của tháng sáu năm 1988. Nó liệt kê danh sách bốn mươi tám nhân viên, tất cả đều là những cái tên ma, và chi trả lương tuần cho số này. Tổng cộng là bảy mươi mốt nghìn đôla.”
“Những cái tên đó được lựa chọn như thế nào ?” Mast hỏi.
“Vào thời điểm đó, có tám nghìn lao động ở New Coastal. Họ chọn những cái tên họ thật, loại phổ thông – Jones, Johnson, Miller, Green, Young – và đổi tên đầu.”
“Bao nhiêu tiền công lao động đã được báo cáo giả mạo ?”
“Theo hồ sơ của Aricia, con số đó là mười chín triệu trong thời gian bốn năm.”
“ Ông Aricia có biết việc giả mạo này không ?”
“Có, chính ông ta thực hiện trò này.”
“Và làm sao mà ông biết được vậy ?”
“Những cuộn băng kia đâu ?”
Mast đưa cho hắn một tờ giấy trên đó có danh mục những cuộn băng ghi lại hơn sáu mươi cuộc nói chuyện. Patrick xem chừng một phút. “Tôi nghĩ rằng đó là cuộn băng số mười bảy,” hắn nói. Một phụ tá của Mast lấy ra cuộn băng đó, nhét nó vào máy ghi âm để giữa bàn.
Patrick nói, “Đây là Doug Vitrano đang nói chuyện với Jimmy Havarac, hai trong số các cổ đông ở Hãng luật, trong phòng làm việc của Vitrano, vào ngày 3 tháng Năm năm 1991.”
Cái máy ghi âm được bật lên, và họ chờ nghe những tiếng nói.
Tiếng nói đầu tiên: Làm sao mà người ta có thể tống thêm vào đó tới mười chín triệu đôla tiền lương ma hả ?
“Đó là Jimmy Havarac,” Patrick nói.
Tiếng nói thứ hai: Điều đó không khó.
“Và đó là Doug Vitrano,” Patrick nói.
Vitrano: Tiền lao động đang phải chi trả ở mức năm mươi triệu đôla một năm. Trong bốn năm, con số đó là hơn hai trăm triệu. Vậy thì họ cũng chỉ cộng thêm vào đó có mười phần trăm. Con số đó sẽ lẫn vào trong hàng đống giấy tờ thôi mà.
Havarac: Và Aricia biết điều đó chứ ?
Vitrano: Biết ư ? Mẹ kiếp, chính ông ta làm trò đó mà.
Havarac: Nói tiếp xem nào, Doug.
Vitrano: Tất cả đều là trò ma. Jimmy. Sự tố giác này của lão ta, xét từ mọi khía cạnh, đều là trò ma hết. Tiền lao động, những hóa đơn được khai khống lén, những trò tính tiền gấp đôi, gấp ba đối với các thiết bị đắt giá. Tất cả. Aricia đã tính toán chuyện này ngay từ đầu, và chẳng qua là tình cờ lão ta lại làm việc cho một cái Hãng đã có tiền sử lâu dài trong việc đánh cắp của chính phủ. Lão ta biết Hãng đó hoạt động như thế nào. Lão ta biết Lầu Năm Góc hoạt động như thế nào. Và lão ta đủ xảo quyệt để bày đặt âm mưu này.
Havarac: Ai nói với ông chuyện này ?
Vilrano: Bogan. Aricia nói với Bogan tất tần tật. Bogan lại nói lại với ông Thượng nghị sĩ tất tần tật. Chúng ta cứ ngậm miệng làm theo, và tất cả chúng ta sẽ trở thành triệu phú.
Những tiếng nói im hẳn và cuộn băng, được Patrick biên tập lại đâu vào đấy từ mấy năm trước, kết thúc.
Các vị bồi thẩm chỉ còn biết nhìn chòng chọc vào chiếc máy. “Chúng tôi có thể nghe thêm nữa không ?” Một trong số họ hỏi.
Mast nhún vai và nhìn vào Patrick. Hắn nói, “Tôi nghĩ đó là một ý kiến rất tuyệt.”
Với những bình luận của Patrick và thỉnh thoảng lại còn những phân tích rất phong phú, họ mất gần ba giờ để nghe lại những cuộn băng. Cuộn băng ghi lại cuộc nói chuyện trong phòng để đồ được để dành lại cuối cùng, và được nghe đi nghe lại tới bốn lần trước khi các vị bồi thẩm chịu dừng lại. Vào lúc sáu giờ, họ gọi một tiệm ăn gần đó mang bữa chiều tới.
Vào lúc bảy giờ thì Patrick được phép ra về.
Trong lúc ăn uống, Mast đã bàn thêm tới một vài cuộn băng đáng chú ý nhất, ông ta nói về sự dính dáng tới nhiều đạo luật Liên bang. Và rằng với những tiếng nói của những kẻ bất lương kia bị ghi lại thật sống dộng trên băng, vụ đồng lõa lừa đảo này đã bị vạch trần.
Vào lúc tám giờ rưỡi, đoàn đại bồi thẩm bỏ phiếu nhất trí truy tố Benny Aricia, Charles Bogan, Doug Vitrano, Jimmy Havarac, và Ethan Rapley về tội lợi dụng luật pháp để mưu toan lừa đảo. Nếu bị kết tội, mỗi người có thể phải chịu án mười năm tù, và bị phạt tiền tới năm trăm nghìn đôla.
Thượng nghị sĩ Harris Nye được đề cập đến như một kẻ đồng lõa không bị truy tố, một sự mệnh danh tạm thời hoàn toàn có khả năng sẽ được thay đổi theo hướng nghiêm khắc hơn. Sprawling, Jaynes, và Maurice Mast đề ra chiến lược trước tiên sẽ truy tố những con cá nhỏ, rồi sẽ gây sức ép để dàn xếp các thỏa thuận nhằm chộp con cá lớn. Họ quyết săn đuổi Vitrano, Rapley và Havarac bởi vì họ căm ghét Charles Bogan.
Cuộc họp của đoàn đại bồi thẩm ngừng lại vào lúc chín giờ tối. Mast làm việc với cảnh sát Liên bang và dự kiến các vụ bắt giữ vào sáng sớm ngày hôm sau. Jaynes và Sprawling bay một chuyến muộn từ New Orleans trở về D.C..