Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Kinh Dịch Trọn Bộ

Quẻ Vị Tế

Tác giả: Ngô Tất Tố
Thể loại: Tử Vi - Phong Thủy

Ly trên; Khảm dưới

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Quẻ Vị Tế, tự quái nói rằng: vật không thế cùng, cho nên tiếp đến quẻ vị tế[1] là hết. Đã sang rồi là vật bị cùng. Vật đã cùng mà không biến đổi, thì không có lý “chẳng thôi”. Dịch là biến đổi mà chẳng cùng, cho nên sau quẻ ký tế là quẻ Vị tế mà hết. Chưa sang là chưa cùng. Chưa cùng có nghĩa là sinh sinh. Nó là quẻ Ly trên Khảm dưới, lửa ở trên nước, không làm sự dùng cho nhau, cho nên là chưa sang.

LỜI KINH

未濟.亨.小狐汔濟.濡其尾.無攸利.

Dịch âm. – Vị tế hanh, tiểu hồ hất tế, nhu kỳ vĩ, vô du lợi.

Dịch nghĩa. – Quẻ vị tế hanh, con cáo nhỏ hầu sang, ướt thửa đuôi, không thửa lợi.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Thì chưa sang, có lẽ hanh thông, mà tài quẻ lại có cah theo đến sự hanh thông, chỉ cố xử cho cẩn thận. Con cáo là vật thể lội nước, ướt đuôi thì không sang được. Cáo già hay ngờ sợ, cho nên xéo nước thì còn nghe ngóng, sợ rằng hãm; cáo nhỏ chửa biết sợ hãi cẩn thận, cho nên mạnh bạo mà sang. Chữ 汔 nên đổi thành chữ 仡 Kinh Thư nói仡仡勇夫(ngật ngật dũng phu – hăng hái kẻ mạnh), con cáo nhỏ quả quyết về sự sang, thì ướt thửa đuôi mà không sang được. Trong thì chưa sang, cái đạo cầu sang, nên rất cẩn thận thì có thể hanh thông. Nếu quả quyết như con cáo nhỏ, thì không sang được. Đã khong sang được thì không còn lại cái gì.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Quẻ Vị tế là lúc việc chưa thành. Nước lửa chẳng giao nhau, chẳng làm sự dùng cho nhau sau hào trong quẻ đều mất ngôi, cho nên chưa sang, 汔(hất) nghĩa là hầu, hầu sang mà ướt đuôi là còn chưa sang. Kẻ xem như thế, thì còn lợi gì?

LỜI KINH

彖曰.未濟.亨.柔得中也.小狐汔濟.未出中也.濡其尾.無攸利.不續終也.雖不當位.剛柔應也.

Dịch âm. – Tượng viết: Vị tế hanh, nhu đắc trung dã; tiểu hồ hất tế, vị xuất trung dã; nhu kỳ vĩ, vô sơ lợi, bất dục chung dã; tuy bất đang vị, cương nhu ứng dã.

Dịch nghĩa.– Lời thoán nói rằng: Quẻ Vị tế hanh, mềm được giữa vậy; cáo nhỏ hầu sang, chưa ra trong vậy; ướt thửa đuôi, không thửa lợi, chẳng nối chót vậy; tuy chẳng đang ngôi, cứng mềm ứng nhau vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. –Lấy Tài quẻ mà nói, sở dĩ hanh được, là vì chất mềm được ngôi giữa. Hào Năm lấy chất mềm ở ngôi tôn, ở chỗ cứng mà ứng với hào cứng là được mực giữa của đạo mềm. Cứng mềm được vừa phải, thì ở chưa sang cos theer hanh thoong. Theo hào Hai mà nói, hào Hai lấy chất Dương cứng ở chõ hiểm, là kẻ sắp sang, phía trên lại ứng với hào Năm, chỗ hiểm không phải nơi có thể yên, hào Năm có lẽ nên thao, cho nên nó mới quả quyết về sự sang, như con cáo nhỏ vậy. Đã quả quyết về sự sang, cho nên có cái lo về ướt duôi, chưa kể ra khỏi chỗ hiểm. Tiến mạnh thì lui chóng, lúc đầu tuy hăng hái về sự sang, nhưng không thể tiếp tục mà làm cho trọn, thì không đi đâu mà lợi. Tuy là Âm Dương không đang ngôi, nhưng cứng mềm đều ứng với nhau, đương thì chưa sang mà có kẻ cùng với, nếu biết thận trong thì có lẽ sang được. Hào hai vì hăng sang cho nên ướt đuôi. Các hào trong quẻ đều không được ngôi, cho nên chưa sang.

LỜI KINH

象曰.火在水上.未濟.君子以慎辨物,居方.

Dịch âm. – Tượng viết: Hỏa tại thủy thượng. Vị tế, quân tử dĩ thận biện vật, cư phương

Dịch nghĩa.– Lời Tượng nói rằng: Lửa ở trên nước, là quẻ Vị tế, đấng quân tử coi đó mà cẩn thận phân biệt các vật, ở phương.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. –Nước lửa chẳng giao với nhau, không giúp nhau làm sa sự dùng, cho nên là chưa sang. Lửa ở trên nước là không phải nơi. Đâng quân tử coi Tượng “ở không đáng” đó, để cẩn thận xử với sự vật, phân biệt sự xứng đang của nó, khiến nó đều ở thửa phương, nghĩa là đâu vào nơi chốn của nó.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Nước lửa khác giống, thứ nào ở vào nơi chốn của thứ ấy, cho nên đấng quân tử coi Tượng đó mà xem xét phân biệt các việc các vật.

LỜI KINH

初六.濡其尾.吝.

Dịch âm. – Sơ Lục: Nhu kỳ vĩ lận!

Dịch nghĩa.– Hào Sáu Đầu: Ướt thửa đuôi, tiếp đáng!

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. –Hào Sáu lấy chất Âm mềm ở dưới, đóng chỗ hiểm mà ứng với hào Tư, ở chỗ hiểm thì không yên, có ứng thì chí đi trở lên, nhưng mình đã Âm mềm mà hào Tư không phải là tài giữa chính, không cứu mình để sang. Giống thú vượt nước, ắt phải ngỏng đuôi, đuôi ướt thì không sang được, ướt thửa duôi là không thế sang. Không lượng tài lực mà tiến, rút lại, không thế sang,đang thẹn tiếc vậy.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Lấy chất âm, ở ngôi duwois, đương thì chưa sang, chửa thể tự ình tiến lên, cho nên Tượng, Chiêm như thế.

LỜI KINH

象曰.濡其尾.亦不知極也.

Dịch âm. – Tượng viết: nhu kỳ vĩ, Diệc bất trí cực dã.

Dịch nghĩa.– Lời Tượng nói rằng: Ướt thửa đầu, cũng chẳng biết cực vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Chẳng lượng tài lực mà tiên, đến chứng ướt đầu, ấy là “chẳng biết” đến tột bậc.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Chữ 極 (cực) chưa rõ nghĩa là gì. Xét vẫn trên dưới cũng không hợp, e là chữ 敬 (kính) nay đã chừa lại đó.

LỜI KINH

九二.曳其輪.貞吉.

Dịch âm. – Cửu Nhị: Duệ kỳ luân, trinh cát.

Dịch nghĩa.– Hào Chín hai: Kéo thửa bánh xe, chính bền, tốt.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Ở quẻ khác, hào Chín ở ngôi Hai là ở chỗ mềm được mực giữa, không có nghĩa là quá cứng. ở quẻ Vị tế, đấng thánh nhân cốt lấy tưởng quẻ làm răn, để tỏ đạo thử trên kính thuận, quẻ vị tế là lúc đạo vua khó nhọc, hào Năm lấy chất mềm ở ngôi vua mà Hào hai là tài Dương cứng ở chỗ ứng nhau với nó, tức là kẻ gánh các trách nhiệm vậy. Cứng có nghĩa lấn mềm, nước có tượng thắng lửa, đương thời khó nhọc, kẻ nhờ cậy được là người bề tôi có tài, càng nên hết đạo kính thuận, cho nên răn rằng: kéo thửa bánh xe thì được chính mà tốt. Kéo ngược bánh xe, bớt thế nó, hoãn sự tiến của nó, tức là răn đừng dùng cứng thái quá. Cứng quá thì hau xúc phạm người trên, mà thiếu đường kính thuận. Quách Tử Nghi, Lý Thạnh nhà Đường, đương khi gian nan chưa nên việc, biết kinh thuận đến tột bậc, vì vậy mới được chính đạo mà giữa được tốt lành tới cùng. Ở hào Sáu Năm thì nói chúng tốt sáng láng, hết cái phải của đạo làm vua; ở hào Chín hai thì răn phải kinh thuận hết chính của đạo làm tôi, ấy hết đạo trên dưới vậy.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Lấy hào Chín Hai ứng nhau với hào Sáu Năm mà ở ngôi mềm được chỗ giữa, tức là kẻ biết tự thôi mà không tiến, được sự chính đáng trong đạo làm kẻ dưới, cho nên Tượng, Chiêm của nó như thế.

LỜI KINH

六三.未濟.征凶.利涉大川.

Dịch âm. – Lục Tam: Vị tế chinh hung, lợi thiệp đại xuyên.

Dịch nghĩa.– Hào Sáu ba: Chưa sang đi hung, lợi về sang sông lớn.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Chưa sang đi hung, ý nói chỗ hiểm không có đồ dùng để ra chỗ hiểm mà đi thì hung. Ắt phải ra chỗ hiểm đã, rồi mới đi được. Hào ba lấy tài Âm mềm chẳng giữa chính mà ở chỗ hiểm, chẳng đủ để sang, chưa có cách sang được, chưa có đồ dùng để ra chỗ hiểm, mà cứ đi, vì vậy mới hung. Nhưng quẻ Vị tế có cách sang được, rồi cũng có lẽ ra khỏi chỗ hiểm, phía trên có kẻ Dương cứng ứng với nếu quá chỗ hiểm mà đi théo nó thì sẽ sang được, cho nên lợi về sang sông lớn.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Âm mềm chẳng giữa chính, ở thì chưa sang mà đi thì hung. Nhưng nó lấy chất mềm cưỡi kẻ cứng, sắp sửa ra khỏi thế Khảm, có Tượng về sang sông, cho nên Tượng, Chiêm của nó như thế. Nghĩa là kẻ đi có thể vượt nước mà không thể đi can. Hoặc có người ngờ rằng trên chữ 利 (lợi) còn có chữ 不(bất).

LỜI KINH

象曰.未濟征凶.位不當也.

Dịch âm. – Tượng viết: Vị tế chinh hung, vị bất đáng dã.

Dịch nghĩa.– Lời Tượng nói rằng: chưa sang đi hung, ngôi chẳng đang vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Hào Ba đi thì hung, vì ngôi không đáng Ý nói nó là kẻ Âm mềm chẳng giữa chẳng chính, lại không có tài ra khỏi chỗ hiểm. Nếu vượt quá được chỗ hiểm đẻ theo kẻ ứng với mình thì có lợi.

LỜI KINH

九四.貞吉.悔亡.震用伐鬼方.三年有賞于大國.

Dịch âm. – Cửu Tứ: Trinh cát, hối vong, chấn dụng phát Quỷ Phương, Tam niên hữu thương vu đại quốc.

Dịch nghĩa.– Hào Chín Tư: Chính bền, ăn năn mất, nhức dùng đánh nước Quỷ Phương, ba năm, có thương chưng nước lớn.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. –Hào Chín Tư là chất Dương cứng, ở ngôi đại thần, trên có ông vua trống giữa sáng thuận, lại đã ra khỏi chỗ hiểm, chưa sang nhưng quá giữa rồi, tức là có cách sang được. Làm cho thiên hạ quá sự gian nan, nếu không có tài cứng mạnh, thì không làm nổi , hào Chín tuy là Dương mà ngôi Tư, cho nên răn phải chính bền thì tốt, mà sự ăn năn sẽ mất, không chính bền không sang được, là có ăn năn. Nhức là động đến tột bậc. Người xưa dùng sức nhiều nhất là việc đánh nước Quỷ Phương, cho nên lấy nó làm nghĩa, sức siêng mà đánh xa, đến chừng ba năm, rồi mới nên việc.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Lấy hào Chín ở ngôi Tư, chẳng chính mà có ăn năn. Có thể gắng mà chính bền, thì sự ăn năn sẽ mất. Nhưng vì nó là tư chất không chính bên, thì sự ăn năn sẽ chết. Nhưng vì nó là tư chất chính bền, muốn gắng mà chính bền nếu không do đức dương cứng thì dùng sức lâu thì không thể được nên là Tượng “đánh nước Quỷ Phương ba năm mà được nhận thưởng”.

LỜI KINH

象曰.貞吉悔亡.志行也.

Dịch âm. – Tượng viết: Trinh cát, hối vong, chí hành dã.

Dịch nghĩa.– Lời Tượng nói rằng: Chính bền tốt, ăn năn mất, chí được thi hành vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Như tài hào Tư, hợp được với thì mà lại thêm đức chính bền, thì có thể thực hành chí mình, thế là tốt lành mà sự ăn năn sẽ mất. Việc đánh nước Quỷ Phương, là chính bền đến tột bậc vậy.

LỜI KINH

六五.貞吉無悔.君子之光.有孚.吉.

Dịch âm. – Lục Ngũ: Trinh cát, vong hối, quân tử chi quang, hữu phu, cát.

Dịch nghĩa.– Hào Sáu Năm: chính bền tốt, không ăn năn, sự sáng của đấng quân tử, có tin tốt.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. –Hào Năm là chủ sự văn vẻ sáng sủa, ở ngôi cứng, ứng với kẻ cứng, đã ở chỗ giữa, lại trông bên trong, mà có hào Dương làm kẻ giúp đỡ, tuy lấy chất mềm ở ngôi tôn, nhưng nó xử được rất khéo rất chính, thì không làm gì không được, đã được trinh, chính, cho nên tốt lành mà không ăn năn. Giữ cho chính bền những sự vẫn có của nó, không phải lời răn, dùng cách mà sang, thì không cho nào không sang được. Hào năm là chủ sự văn vẻ sang sủa, cho nên khen nó sáng láng, đâng quan tử đức sang đã thinh, mà công với sự thật xứng đang chõ đó, tức là có tin. Trên nói “tốt” là vì chính bên, mềm mà chính bền, là sự tốt hành của phần đức; dưới nói “tốt” là vì công đã sáng mà có tin, tức là thì có thế sang.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Lấy hào Sáu ở ngôi Năm cũng không phải chính, nhưng nó là chủ văn vẻ sang sủa, ở giữa mà ứng nhau với kẻ cứng, trống rỗng trong lòng để cầu kẻ dưới giúp mình, cho nên được chính mà tốt và không ăn năn, lại có đức sáng láng được thinh, tin thật mà không càn đức là tốt mà lại tốt.

LỜI KINH

象曰.君子之光.其暉吉也.

Dịch âm. – Tượng viết: quân tử chi quang, kỳ huy cát dã.

Dịch nghĩa.– Lời Tượng nói rằng: sự sáng của đấng quân tử, thửa tia sáng tốt vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. –Sáng thịnh thì có tia sáng, tia sáng tức là ánh sáng tan ra. Đấng quân tử chưa chất đầu đủ mà sự sáng đến chưng có tia, tức là hay đến tột bậc, cho nên lại nói là tốt.

LỜI KINH

上九.有孚于飲酒.無咎.濡其首.有孚失是.

Dịch âm. –Thượng cửu: Hữu Phu vu ẩm tửu, vô cữu, nhu kỳ thủ, hữu phu, thất thị.

Dịch nghĩa.– Hào Chín Trên: có tin chưng uống rượu, không lỗi, ướt thửa đầu, có tin, mất phải.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Hào Chín lấy chất cứng ở ngôi Trên, là cức tột bậc; ở trên thể sáng, là sang tột bậc. Đã cứng tột bậc mà lại sáng nữa, thì không phải là nóng nảy mà là quả quyết. Sự sáng có thể xét lý, sự cứng có thể đoán nghĩa, ở cùng cực thì chưa sang, không được ngồi để sang, không có thể sang được, thì nên vui thời thuận mệnh mà thôi; nếu ở chót cuộc “bĩ”, thì có thể xoay thời vận lại, chưa sang thì không có lẽ cũng cực mà tự sang được, cho nên sự đậu là chỗ cùng cực của sự chưa sang, chí thành yên với mệnh mà tự vui, thì có thể không lỗi . uống rượu tức là tự vui, nếu không vui với cảnh mình ở, thì bực tức, chán nản, tức là vào chỗ hung cữu. Nếu theo sự vui mà đắm đuôi, công dỡ quá lễ đến ướt thửa đầu, cũng không phải là biết yên với cảnh mình ở. Có tin tức là tin ở trong lòng, mất phải nghĩa mất sự nên đáng. Như thế, thì có tin là lôi. Người ta ở cảnh hoạn nạn, biết là không thể sao được, mà phóng túng bừa bãi, không chịu quay lại há phải là kẻ yên với nghĩa mệnh?

Bản nghĩa của Chu Hy. – Lấy chất cứng sang ở chỗ cùng cực của cuộc chưa sang, thì thế có thể làm việc, mà biết tự tin tự nuôi để đợi mệnh trời đó là cách không lỗi. Nếu phóng túng không quay lại như con cáo lội nước mà ướt đầu, thì là tự tin thái quá và tự mình làm mất cái nghĩa của mình.

LỜI KINH

象曰.飲酒濡首.亦不知節也.

Dịch âm. – Tượng viết: Ẩm Tửu nhu thủ, diệc bất tri tiết dã.

Dịch nghĩa.– Lời Tượng nói rằng: Uống rượu ướt đầu, cũng chẳng tiết độ vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Uống rượu đến chứng ướt đầu là không biết tiết lộ lắm. Sở dĩ đến thế, là tại không biết yên với nghĩa mệnh, nếu biết yên thì đã không mất thường độ.

Chú thích:

[1] 未濟 (Vị tế) nghĩa là chưa sang hay xong.

Hết

Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com

Ebook thực hiện dành cho những bạn chưa có điều kiện mua sách.

Nếu bạn có khả năng hãy mua sách gốc để ủng hộ tác giả, người dịch và Nhà Xuất Bản

Bình luận