“Có chuyện gì thế? Tôi có hợp đồng Stoneridge chứ?” Peter Keating hỏi giật giọng.
Dominique bước vào phòng khách. Keating theo sau, và chờ ở ngoài cửa.
Cậu bé trực thang máy mang hành lý của cô vào rồi đi ra. Cô nói, trong khi tháo găng tay:
“Anh sẽ có Stoneridge, Peter. Ông Wynand sẽ tự nói nốt mọi việc với anh. Ông ấy muốn gặp anh tối nay. Vào lúc tám giờ rưỡi. Tại nhà ông ta.”
“Để làm cái quỷ gì?”
“Ông ấy sẽ nói với anh.”
Cô đập nhẹ đôi găng tay vào lòng bàn tay, một cử chỉ nhỏ ra dấu kết thúc, như dấu chấm đặt ở cuối câu. Cô quay người để bước ra khỏi phòng. Anh đứng chắn giữa đường cô.
“Tôi không quan tâm”, anh nói, “Tôi cóc cần biết. Tôi cũng sẽ chơi trò của các người. Các người mới vĩ đại làm sao? – bởi vì các người cư xử như bọn lái xe tải, cô và lão Gail Wynand? Cần quái gì tới lịch sự, cần quái gì tới cảm xúc của người khác? Được, tôi cũng có thể làm như thế. Tôi sẽ sử dụng cả hai người và tôi sẽ có cái mà tôi muốn – tôi chỉ quan tâm có thế thôi. Giờ thì cô thích chứ? Chẳng được tích sự gì khi con sâu chẳng thèm quằn khi người ta xéo lên nó? Mất vui rồi hả?”
“Tôi nghĩ như thế tốt hơn đấy, Peter. Tôi thấy mừng.”
Anh thấy mình không thể giữ được thái độ đó khi bước vào phòng làm việc của Wynand vào buổi tối hôm đó. Anh không sao thoát khỏi cảm giác sợ hãi khi được Gail Wynand cho phép vào nhà. Từ lúc bước vào phòng cho đến lúc ngồi xuống bàn làm việc, anh không cảm thấy gì ngoài cảm giác về sức nặng, và anh tự hỏi liệu chân mình có để lại dấu vết gì trên tấm thảm mềm, giống như đôi chân gắn thêm chì của một thợ lặn sâu.
“Việc mà tôi sẽ phải nói với ông, ông Keating, lẽ ra không cần phải được nói ra hoặc phải làm.” – Wynand nói.
Keating chưa bao giờ nghe thấy ai nói với sự tự chủ như vậy. Anh có ý nghĩ ngớ ngẩn là dường như Wynand đang dùng tay mình giữ chặt giọng nói của ông ta và điều khiển từng âm tiết phát ra.
“Bất cứ lời nói thêm nào của tôi cũng sẽ khiến ông cảm thấy bị xúc phạm, do đó tôi sẽ nói ngắn gọn. Tôi sẽ cưới vợ ông. Cô ấy sẽ đi Reno vào ngày mai. Đây là hợp đồng Stoneridge. Tôi đã ký nó. Kèm theo đây là tấm séc 250.000 đôla. Đây là số tiền ngoài số mà ông sẽ nhận được cho công việc theo hợp đồng. Tôi sẽ rất cảm kích nếu lúc này ông không bình luận bất kỳ điều gì. Tôi cho rằng tôi có thể nhận được sự đồng ý của ông với cái giá thấp hơn nhưng tôi không muốn kỳ kèo làm gì. Nếu chúng ta kỳ kèo với nhau thì việc này sẽ càng trở nên không thể chấp nhận được. Do đó, ông có thể làm ơn cầm những cái này và coi như vấn đề này đã được giải quyết xong?”
Ông đưa tờ hợp đồng ngang qua bàn. Keating nhận ra hình chữ nhật màu xanh nhạt ở góc tò séc được gắn với trang hợp đồng bằng một cái ghim. Chiếc ghim ánh lên màu bạc dưới ánh sáng ngọn đèn bàn.
Keating không đưa tay cầm tờ giấy. Anh nói, cằm anh cử động một cách khó khăn để tìm lời:
“Tôi không muốn nó. Ông có thể có được sự đồng ý của tôi mà không mất gì cả.”
Anh nhận thấy ánh mắt kinh ngạc – và gần như là thiện cảm – trên mặt Wynand.
“Ông không muốn nó ư? Ông không muốn cả Stoneridge?”
“Tôi muốn Stoneridge!” Tay Keating vươn ra và giật lấy tờ giấy “Tôi muốn tất cả! Tại sao ông thì lại được phép làm thế? Tại sao tôi lại phải quan tâm?”
Wynand đứng dậy. Ông nói, giọng nhẹ nhõm và tiếc nuối:
“Phải, ông Keating. Suýt nữa ông đã xứng đáng với cuộc hôn nhân của ông. Giờ thì thế nhé. Chúc ông ngủ ngon.”
Keating không về nhà. Anh đi bộ tới căn hộ của Neil Dumont, nhà thiết kế mới và là bạn thân nhất của anh. Neil Dumont là một anh chàng xuất thân trong giới thượng lưu có thân hình cao lêu đêu và da nhợt nhạt; đôi vai anh ta sụm xuống như thể phải chịu đựng sức đè của bao đời tổ tiên danh giá. Anh ta không phải là nhà thiết kế giỏi, nhưng anh ta có nhiều mối quan hệ; anh ta khúm núm với Keating tại văn phòng còn Keating thì khúm núm với anh ta sau giờ làm việc.
Anh gặp Dumont tại nhà. Họ rủ thêm Gordon Prescott và Vicent Knowlton và định chơi bời cả đêm. Keating không uống nhiều. Anh trả tiền cho tất cả. Anh trả nhiều hơn số cần thiết. Anh có vẻ sốt sắng được trả tiền cho mọi thứ. Anh trả những khoản tiền boa hậu hĩnh. Chốc chốc anh lại hỏi: “Chúng ta là bạn bè, chúng ta là bạn bè phải không?” Anh nhìn vào những ly rượu ở xung quanh mình, và thấy các tia sáng nhảy nhót bên trong ly rượu. Anh nhìn vào ba cặp mắt, chúng lờ mờ, nhưng thỉnh thoảng chúng lại hướng vào anh với vẻ mãn nguyện. Chúng dịu dàng và dễ chịu làm sao.
*
* *
Tối hôm đó, sau khi các hành lý của cô đã được sắp xếp và để sẵn trong phòng của cô, Dominique đến gặp Steven Mallory.
Cô đã không gặp Roark trong hai mươi tháng qua. Thỉnh thoảng cô tới thăm Mallory. Mallory biết rằng các chuyến thăm này là những khoảnh khắc suy sụp trong trận chiến đấu mà cô không nêu tên; anh biết cô không muốn đến và những buổi tối hiếm hoi của anh với cô là những thời khắc bị dứt ra khỏi cuộc đời cô. Anh chưa bao giờ hỏi cô và anh luôn vui mừng được gặp cô. Họ nói chuyện với nhau một cách lặng lẽ, với cảm giác thân thuộc như một đôi vợ chồng già, như thể anh từng sờ hữu thân thể cô và đã từ lâu không còn ngạc nhiên với nó nữa, như thể chẳng còn lại gì ngoài cảm giác thân mật quen thuộc. Anh chưa bao giờ chạm vào thân thể cô, nhưng anh đã sở hữu nó theo một lối sở hữu sâu sa hơn khi anh tạc tượng cô, và họ không thể đánh mất cảm giác đặc biệt về nhau mà việc tạc tượng đã đem lại.
Anh mỉm cười khi anh mở cửa và nhìn thấy cô.
“Chào Dominique.”
“Chào Steve. Làm phiền anh không?”
“Không đâu. Vào đi.”
Anh có một cái studio[111] – đấy là một chỗ ở tồi tàn trong một tòa nhà cũ kỹ. Cô nhận thấy có những thay đổi so với chuyến thăm lần trước. Căn phòng giờ có không khí của tiếng cười, như một hơi thở bị kìm nén quá lâu giờ mới được thoát ra. Cô nhìn những đồ nội thất mua lại, một tấm thảm phương Đông có hoa văn hiếm thấy và màu sắc sặc sỡ, chiếc gạt tàn bằng ngọc bích, các mảnh vụn điêu khắc khai quật từ các hiện trường khảo cổ – bất kỳ thứ gì mà anh muốn giữ lại và giờ có được nhờ khoản tiền bất ngờ đến từ các giao dịch với Wynand. Các bức tưùơng trông trơ trụi một cách lạ lùng phía trên đám đồ vật hỗn tạp vui vẻ đó. Anh không mua một bức tranh nào. Một bản vẽ duy nhất được treo trong căn hộ của anh – đó là phiên bản đầu tiên của Đền Stoddard mà Roark vẽ.
Cô nhìn chậm rãi xung quanh mình, để ý từng đồ vật và lý do cho sự có mặt của nó. Anh đá hai cái ghế về phía lò sưởi và họ ngồi xuống, mỗi người một bên của lò sưởi.
Anh nói một cách giản dị:
“Clayton, Ohio.”
“Việc gì?”
“Một tòa nhà mới cho Cửa hàng Bách hoá Janer. Năm tầng. Trên phố Main.[112]“
“Anh ấy ở đó bao lâu rồi?”
“Khoảng một tháng.”
Đó là câu hỏi đầu tiên mà anh trả lời mỗi khi cô tới chỗ anh, không chờ cô hỏi nó. Sự thoải mái của anh khiến cô không cần phải giải thích hay giả vờ gì, anh cũng không kèm theo nhận xét nào cả.
“Em sẽ đi xa vào ngày mai, Steve.”
“Bao lâu?”
“Sáu tuần. Tới Reno.”
“Anh rất vui.”
“Bây giờ, em chưa muốn nói với anh em sẽ làm gì khi trở lại. Anh sẽ không vui đâu.”
“Anh sẽ cố gắng vui – nếu đó là điều em muốn làm.”
“Đó là điều em muốn làm.”
Một thanh củi vẫn còn nguyên hình dạng trên đống than ở trong lò sưởi; nó tách ra thành những hình chữ nhật nho nhỏ và tỏa sáng mà không cháy, giống như một dãy cửa sổ thắp sáng đứng cạnh nhau. Anh cúi mình và quẳng thêm một thanh củi mới vào đám than. Nó làm dãy cửa sổ gãy làm đôi và bắn thẳng các tia lửa lên những viên gạch đầy bồ hóng.
Anh nói về công việc của mình. Cô lắng nghe, như thể cô là một di dân được nghe thấy tiếng mẹ đẻ của mình trong chốc lát.
Khi anh ngừng lại giữa chừng, cô hỏi:
“Anh ấy thế nào hả Steve?”
“Vẫn thế. Anh ấy không thay đổi, em biết đấy.”
Anh đá vào thanh củi. Một vài viên than rơi ra ngoài. Anh đẩy chúng trở lại. Anh nói:
“Anh vẫn nghĩ anh ấy là người duy nhất trong chúng ta sẽ đạt được sự bất tử. Anh không nói bất tử theo nghĩa danh vọng và anh cũng không nói là anh ấy sẽ không chết, một ngày nào đó. Nhưng anh ấy sống với sự bất tử. Anh nghĩ người như anh ấy mới là hiện thân chính xác của từ này. Em biết đó, mọi người đều mong được bất tử. Nhưng họ chết đi cùng với mỗi ngày trôi qua. Khi em gặp họ, họ không còn giống như lần em gặp trước đó. Với mỗi giờ trôi qua, họ lại giết đi một phần trong chính mình. Họ thay đổi, họ bác bỏ, họ mâu thuẫn – và họ gọi đó là trưởng thành. Và cuối cùng sẽ chẳng còn lại gì cả, chẳng còn gì chưa từng bị đảo ngược hay chưa bị phản bội, như thể chưa từng tồn tại một thực thể mà chỉ là một dãy các tính từ nối tiếp nhau hiện lên rồi mờ đi trên một mớ vật chất hỗn độn. Làm sao họ có thể mong đợi một sự vĩnh cửu khi họ chưa bao giờ giữ nguyên một cái gì dù chỉ trong khoảnh khắc? Nhưng với Howard – người ta có thể nghĩ là anh tồn tại mãi mãi.”
Cô ngồi nhìn vào lò sưởi. Ngọn lửa tạo ra một vẻ sống động không có thực trên khuôn mặt cô.
Một lát sau, anh hỏi: “Em có thích những thứ anh mới có không?”
“Em thích chúng. Em thích việc anh có chúng.”
“Anh chưa kể với em về chuyện xảy ra với anh sau lần anh gặp em nhỉ. Một việc không thể nào tin được. Gail Wynand…”
“Có, em biết chuyện đó.”
“Em biết à? Wynand, trong số tất cả mọi người – làm thế nào mà ông ta lại phát hiện ra anh?”
“Em biết cả chuyện đó nữa. Em sẽ nói với anh khi em trở lại…”
“Ông ta có khiếu thẩm mỹ rất tuyệt. Rất tuyệt đối với một người như ông ta. Ông ta mua những tác phẩm tuyệt nhất.”
“Phải, như thế mới đúng là ông ấy.”
Rồi cô hỏi, không cần chuyển tiếp, nhưng anh biết là cô không nói về Wynand.
“Steve, có bao giờ anh ấy hỏi anh về em không?”
“Không.”
“Có bao giờ anh nói với anh ấy là em đến đây?”
“Không.”
“Vì em à, Steve?”
“Không. Vì anh ấy.”
Anh biết là anh đã nói với cô tất cả những gì cô muốn biết.
Cô nói trong khi đứng dậy: “Chúng ta uống trà nhé. Chỉ cho em chỗ anh để các thứ. Em sẽ pha trà.”
*
* *
Dominique đi Reno vào sáng sớm. Keating vẫn đang ngủ và cô không đánh thức anh để chào tạm biệt.
Khi anh mở mắt, anh biết là cô đã đi, trước khi anh nhìn vào đồng hồ. Chính sự yên lặng trong nhà làm anh biết điều đó. Anh nghĩ lẽ ra anh nên nói “Thế là thoát nợ”, nhưng anh không nói thế và cũng không cảm thấy thế. Cảm giác của anh là một câu nói trống trải, không cảm xúc và không có đối tượng – “Chẳng ích gì.” Câu nói không liên quan tới anh hay tới Dominique. Anh đang ở một mình và không cần phải giả vờ gì cả.
Anh nằm trên giường, ngửa người, hai tay dang ra một cách bất lực. Khuôn mặt anh khiêm nhường và đôi mắt hoang mang. Anh có cảm giác về sự kết thúc và cái chết, nhưng không phải vì anh mất Dominique.
Anh đứng dậy và mặc đồ. Trong phòng tắm, anh tìm thấy chiếc khăn tay cô đã dùng và bỏ đi. Anh nhặt nó lên, áp mặt vào nó và giữ trong một lúc lâu, không phải trong cảm giác đau khổ mà là một cảm xúc không tên, không hiểu rõ. Anh biết anh chỉ yêu cô có hai lần duy nhất – đó là tối hôm Toohey gọi điện và lúc này đây.
Sau đó, anh xòe các ngón tay và để chiếc khăn trượt xuống sàn, giống một thứ chất lỏng chảy qua các kẽ ngón tay.
Anh đi đến văn phòng và làm việc như mọi khi. Không ai biết tới chuyện ly hôn của anh và anh không muốn thông báo cho ai cả. Neil Dumont nháy mắt với anh và nói lè nhè:
“Peter, trông cậu đang rất hưng phấn.” Anh nhún vai và xoay lưng. Nhìn thấy Dumont hôm nay khiến anh thấy buồn nôn.
Anh rời văn phòng sớm. Một bản năng mơ hồ thúc đẩy anh, lúc đầu chỉ như một cơn đói, rồi nó dần dần hiện hình.Anh phải gặp Ellsworth Toohey. Anh phải tới chỗ Ellsworth Toohey. Anh cảm thấy như mình là kẻ sống sót trong một vụ đắm tàu, đang bơi tới ánh sáng ở phía xa xa.
Tối hôm đó, anh lê mình tới căn hộ của Ellsworth Toohey. Khi anh bước vào, anh cảm thấy hơi mừng vì sự tự chủ của mình, vì Toohey có vẻ không nhận ra điều gì trên khuôn mặt anh.
“À, chào Peter”, Toohey nói vui vẻ: “Cảm giác về giờ giấc của anh thật chẳng đáng ngưỡng mộ tí nào. Anh đến đúng vào một buổi tối tồi tệ nhất có thể có. Đang bận kinh khủng. Nhưng đừng có ngại. Bạn bè để làm gì ngoài những lúc cần. Ngồi xuống đi, ngồi xuống đi. Tôi sẽ tiếp chuyện anh ngay đây.”
“Tôi xin lỗi, Ellsworth. Nhưng… tôi phải tới.”
“Cứ tự nhiên nhé. Cứ để mặc tôi trong một phút nữa thôi.”
Keating ngồi và chờ đợi. Toohey đang làm việc, ông đang ghi chú lên các trang giấy đánh máy chữ. Ông gọt một chiếc bút chì, tiếng gọt nghiến ken két như tiếng lưỡi cưa cưa ngang óc Keating. Ông gập người lần nữa trên trang giấy, thỉnh thoảng lại lật giấy sột soạt.
Nửa tiếng sau, ông đẩy các tờ giấy sang một bên và mỉm cười với Keating. “Xong rồi”, ông nói. Keating hơi chồm người về phía trước. “Cứ ngồi yên”, Toohey nói, “tôi còn phải gọi một cú điện thoại nữa.”
Ông quay số điện của Gus Webb. “Chào Gus”, ông nói vui vẻ “Anh khoẻ chứ, anh bạn quảng cáo dụng cụ tránh thai di động?” Keating chưa bao giờ nghe thấy giọng thân mật thoải mái như thế từ Toohey – thứ giọng đặc biệt của tình bằng hữu và nó cho phép người ta được ủy mị. Anh nghe thấy chất giọng kim khí của Webb nói một cái gì đó và cười to trong ống nghe. Tiếp đó vang lên những tiếng nói ríu rít từ tít sâu trong ống, như thể người kia đang làm sạch cổ họng. Anh không nghe được những từ cụ thể, chỉ cảm nhận được đặc tính chung của chúng – phóng túng và tự mãn, thỉnh thoảng lại có những tiếng rít cao vui vẻ.
Toohey dựa lưng vào ghế, nghe và cười nửa miệng “Phải”, thỉnh thoảng ông nói, “ừ ừ… Cậu nói đúng rồi… Chắc chắn rồi…” Ông ngã người sâu hơn về phía sau và đặt một chân đang đi một chiếc giầy mũi nhọn, bóng loáng lên mép bàn.
“Nghe này, anh bạn, tôi muốn nói với anh là hãy chiều lão Basset một thời gian. Tất nhiên là lão ấy thích tác phẩm của cậu nhưng đừng làm lão ấy bị sốc quá trong lúc này. Đừng có quậy, được không? Khóa cái miệng của cậu lại… Cậu biết thừa tôi có thể nói với cậu như thế… Đúng rồi… Chính thế đấy, anh bạn trẻ à… Ồ, lão ấy làm thế à? Tốt rồi, cậu bé… Thế nhé, tạm biệt – à quên, Gus, cậu đã nghe chuyện về quý bà người Anh và tay thợ ống nước chưa?” Tiếp theo là một câu chuyện. Đầu dây bên kia vang lên tiếng kêu khàn khàn vào cuối câu chuyện. “Ừ, cẩn thận cách đi đứng vàn ăn uống, cậu bé. Ngủ ngon.”
Toohey đặt ống nghe xuống, và nói “Được rồi, Peter.” Ông rướn người, đứng lên, bước tới chỗ Keating và đứng trước mặt anh, hơi rung rung chân, đôi mắt ông sáng và đầy thiện cảm.
“Nào, Peter, có chuyện gì thế? Thế giới sập xuống đầu anh à?”
Keating thò tay vào túi trong và lấy ra một tờ séc màu vàng, nhàu nát, đã được cầm nhiều lần. Nó mang chữ ký của anh và số tiền mười ngàn đôla, với tên người nhận là Ellsworth M.Toohey. Cử chỉ của anh khi anh đưa nó cho Toohey không phải là của một người cho tiền mà là của một kẻ ăn xin.
“Xin ông, Ellsworth… đây… hãy cầm lấy… vì một việc từ thiện nào đấy… cho Hội thảo Nghiên cứu Xã hội… hay cho bất kỳ thứ gì mà ông muốn… ông biết rõ nhất… cho một việc từ thiện nào đấy… Toohey cầm lấy tấm séc bằng đầu các ngón tay, như cầm một đồng xu vấy bẩn, ông nghiêng đầu về một phía, uốn môi như để đánh giá, và ném tờ séc lên mặt bàn.
“Anh thật hào phóng. Thật sự hào phóng. Vì lý do gì thế?”
“Ellsworth, ông có nhớ một lần ông đã nói – rằng dù chúng ta có là ai hay làm gì thì điều đó cũng không quan trọng, miễn là chúng ta giúp đỡ người khác? Đấy mới là điều quan trọng, đúng không? Thế là trong sạch, đúng không?”
“Tôi không nói thế một lần. Tôi nói thế cả triệu lần.”
“Và nó thực sự đúng chứ?”
“Tất nhiên là đúng. Nếu người ta có can đảm chấp nhận nó.”
“Ông là bạn tôi phải không? Ông là người bạn duy nhất mà tôi có. Tôi… tôi thậm chí không phải là bạn của chính mình nhưng ông là bạn tôi. Của tôi, tôi muốn nói, có phải không, Ellsworth?”
“Tất nhiên rồi. Và nó còn có giá trị hơn là tình bạn của anh với chính mình – một khái niệm khá kỳ quặc nhưng hoàn toàn hợp lý.”
“Ông hiểu tôi. Không có ai khác hiểu. Và ông quý mến tôi.”
“Rất mực. Và vào bất cứ khi nào tôi có thời gian.”
“Hả?”
“Khiếu hài hước của anh, Peter, khiếu hài hước của anh đi đâu mất rồi? Có chuyện gì thế? Anh bị đau bụng à? Hay linh hồn mắc chứng khó tiêu?”
“Ellsworth, tôi…”
“Sao cơ?”
“Tôi không thể nói với ông. Kể cả với ông.”
“Anh là thằng hèn, Peter.”
Keating nhìn chằm chằm một cách bất lực: giọng nói của Ellsworth vừa nghiêm khắc vừa nhẹ nhàng, anh không biết anh nên cảm thấy đau đớn, nhục nhã hay tin tưởng.
“Anh đến đây nói với tôi là việc anh đã làm không có gì quan trọng – rồi sau đó anh tan nát trước việc gì đó mà anh đã làm. Thôi nào, hãy mạnh mẽ lên và nói rằng nó không quan trọng. Hãy nói rằng bản thân anh cũng chẳng có gì quan trọng. Nói một cách thực sự. Dũng cảm lên. Quên cái tôi bé nhỏ của anh đi.”
“Tôi chẳng có gì quan trọng cả, Ellsworth. Tôi không quan trọng. Ôi, lạy Chúa tôi, nếu như tất cả mọi người đều nói được như ông nói. Tôi không quan trọng. Tôi không muốn mình quan trọng.”
“Anh có số tiền này từ đâu thế?”
“Tôi đã bán Dominique.”
“Anh đang nói về chuyện gì thế? Về chuyến du hành?”
“Chỉ có điều hình như cái mà tôi bán không phải là Dominique.”
“Anh quan tâm làm gì nếu như…”
“Cô ấy đã đi Reno.”
“Cái gì?”
Anh không hiểu được sự dữ tợn trong phản ứng của Toohey nhưng anh đã quá mệt mỏi để tìm hiểu. Anh kể tất cả mọi thứ đã xảy ra với anh. Không tốn nhiều thời gian để những việc đó xảy ra hay để kể lại chúng.
“Đồ ngốc! Lẽ ra anh không được cho phép chuyện đó.”
“Tôi có thể làm gì chứ? Chống lại Wynand ư?”
“Nhưng để cho ông ta lấy cô ta!
“Tại sao không chứ, Ellsworth? Thế còn tốt hơn là…”
“Tôi không nghĩ ra là hắn có thể… nhưng… Ôi, Chúa bắt tôi đi. Tôi còn ngốc hơn cả anh!”
“Nhưng sẽ tốt hơn cho Dominique nếu như…”
“Quên Dominique đi! Tôi đang nghĩ tới Wynand kia.”
“Ellsworth, có chuyện gì với ông thế?… Việc gì ông phải quan tâm chứ?”
“Yên nào. Để cho tôi nghĩ.”
Một lát sau, Toohey nhún vai, ngồi xuống bên cạnh Keating và vòng tay qua vai anh.
“Tôi xin lỗi, Peter”, ông nói. “Tôi xin lỗi. Tôi đã quá thô lỗ với anh. Đó chẳng qua vì cú sốc. Nhưng tôi hiểu anh cảm thấy thế nào. Chỉ có điều anh đừng nên cho nó là quá quan trọng. Nó không có gì quan trọng cả.” Ông nói một cách tự động. Đầu óc của ông đang ở một nơi nào xa xăm.
Keating không nhận ra điều này. Anh chỉ nghe thấy các từ ngữ. Chúng là dòng suối trên sa mạc.
“Không có gì quan trọng cả. Anh chỉ là con người thôi mà. Anh muốn là con người. Ai có thể hơn được con người? Ai có quyền ném hòn đá đầu tiên chứ?[113] Chúng ta đều chỉ là con người thôi. Chẳng có gì quan trọng đâu.”
*
* *
“Lạy Chúa tôi!” Alvah Scarret nói. “Ông ta không thể! Không phải với Dominique Francon!”
“Ông ấy sẽ,” Toohey nói. “Ngay khi cô ấy trở về.”
Scarret đã ngạc nhiên khi Toohey mời ông đi ăn trưa nhưng tin ông vừa nghe được đã biến sự ngạc nhiên thành cái gì đó lớn lao và đau đớn hơn.
“Tôi vẫn thích Dominique”, Scarret nói, đẩy đĩa ăn của ông sang một bên, ông không còn thấy ngon miệng nữa. “Tôi vẫn luôn thích cô ấy. Nhưng cô ấy mà trở thành bà Gail Wynand!”
“Đó cũng chính là cảm xúc của tôi”, Toohey nói.
“Tôi vẫn luôn khuyên ông ấy nên cưới vợ. Sẽ có ích cho ông ấy. Một không khí mới. Một thứ dây bảo hiểm về tư cách, và ông ấy thì rõ là cần đến cái đó. Ông ấy luôn trượt trên băng mỏng. Cho tới giờ thì vẫn chưa hề hấn gì. Nhưng mà Dominique!”
“Tại sao anh lại nghĩ là cuộc hôn nhân này không phù hợp?”
“Hừ… hừ, nó không… Mà ông cũng biết là nó không hợp lý mà!”
“Tôi biết. Còn anh?”
“Thì đấy, cô ấy là loại đàn bà nguy hiểm.”
“Đúng thế. Đó là lý do phụ của ông. Còn lý do chính của anh là: Gail Wynand là loại người nguy hiểm.”
“Hừ… cũng đúng ở một mức độ nào đó.”
“Nhà biên tập đáng kính của tôi ơi, anh hiểu tôi quá rõ rồi mà. Nhưng bây giờ là lúc cần phải hình thành một cái gì đó rõ ràng hơn. Nó sẽ giúp cho sự hợp tsac giữa chúng ta trong tương lai. Anh và tôi có rất nhiều thứ chung – cho dù anh không muốn thú nhận nó. Có thể nói chúng ta là hai biến khúc trên cùng một chủ đề… Hay nếu anh thích nói theo phong cách văn chương của anh, thì chúng ta đi từ hai đầu một sợi dây để vào đến giữa. Nhưng anh chủ thân yêu của chúng ta lại là một tanh khác hẳn. Một lei-motif[114] hoàn toàn khác – anh có nghĩ thế không, Alvah? Anh chủ của chúng ta là một sự cố ở giữa sợi dây của chúng ta. Mà các sự cố thì là những hiện tượng không đáng tin. Anh đã ngồi trên đống lửa nhiều năm rồi, phải không? – ngồi xem Gail Wynand. Thế nên anh hoàn toàn hiểu tôi đang nói tới cái gì. Anh cũng biết là cô Dominique Francon cũng không cùng tanh với chúng ta. Và anh không muốn thấy ảnh hưởng của cô ta len lỏi vào cuộc đời anh chủ chúng ta. Liệu tôi có phải nói việc này một cách thẳng thừng hơn không?”
“Ông khôn ngoan đấy, Ellsworth,” Scarret nói một cách nặng nề.
“Điều này rõ ràng từ lâu rồi còn gì.”
“Tôi sẽ nói chuyện với ông ấy. Tốt hơn là ông đừng nói – ông ấy ghét ông lắm, nói ông thứ lỗi. Nhưng tôi nghĩ tôi cũng chẳng giúp được gì. Một khi ông ấy đã quyết định rồi.”
“Tôi cũng không hy vọng anh có thể làm được gì. Anh có thể thử nếu muốn, mặc dù cũng vô ích thôi. Chúng ta không thể cản đám cưới đó được. Một trong những ưu điểm của tôi là tôi có thể thừa nhận thất bại khi buộc phải thừa nhận nó.”
“Nếu thế thì tại sao ông lại…?”
“Lại nói với anh chứ gì? Chỉ là bản năng phải đưa những tin sốt dẻo thôi, Alvah. Đưa tin trước ấy mà.”
“Tôi đánh giá cao việc này, Ellsworth. Thực lòng đấy.”
“Làm thế là khôn ngoan. Alvah, đừng để mất các tờ báo Wynand một cách dễ dàng thế. Đoàn kết tạo ra sức mạnh. Đúng như anh hay nói.”
“Ông có ý gì.”
“Ý tôi là chúng ta đang gặp khó khăn, bạn của tôi ạ. Và chúng ta nên hợp tác với nhau.”
“Tôi ủng hộ ông, Ellsworth. Tôi vẫn luôn thế mà.”
“Không chính xác, nhưng thôi, chúng ta sẽ bỏ qua nó. Chúng ta sẽ chỉ quan tâm tới hiện tại. Và tới tương lai. Để chứng tỏ sự hiểu biết lẫn nhau giữa chúng ta, anh có thể đuổi cổ Jimmy Kearns ngay khi anh có cơ hội không?”
“Tôi nghĩ là ông đã nhắm vào việc đó hàng tháng nay! Có chuyện gì với Jimmy Kearns thế? Cậu ta rất sáng dạ. Người phê bình sân khấu tốt nhất trong thành phố. Cậu ta có đầu óc. Sắc như một ngọn roi. Rất có triển vọng.”
“Cậu ta có đầu óc – đầu óc riêng. Tôi không nghĩ là ông lại muốn có thêm một ngọn roi nào nữa ở tòa soạn – ngoại trừ cái roi ông đang cầm. Tôi cũng cho rằng ông nên nghĩ kỹ xem cái triển vọng ấy là triển vọng gì.”
“Thế là tôi sẽ lắp ai vào vị trí của cậu ta?”
“Jules Fougler.”
“Không đời nào, Ellsworth!”
“Sao lại không nào?”
“Thằng già chó đ… Chúng ta không thể nhận lão ấy.”
“Anh có thể nếu anh muốn. Hãy xem tên tuổi của ông ấy.”
“Nhưng lão ấy là thằng già bất khả nhất…”
“Rồi, anh không nhất thiết phải nhận lão ta. Chúng ta sẽ thảo luận chuyện đó vào lúc khác. Giờ chỉ cần loại bỏ Jimmy Kearns thôi.”
“Nghe này, Ellsworth, tôi không chơi trò thiên vị, tất cả đều như nhau với tôi. Tôi sẽ đá Jimmy nếu ông nói thế. Chỉ có điều, tôi không thấy việc này sẽ làm thay đổi cái gì và nó liên quan gì tới việc chúng ta đang bàn.”
“Giờ thì anh không thấy”, Toohey nói “Nhưng rồi anh sẽ thấy.”
*
* *
“Gail, ông biết là tôi luôn muốn ông được hạnh phúc,” Alvah Scarret nói. Ông ngồi trong chiếc ghế bành dễ chịu tại phòng làm việc trong căn hộ Wynand buổi tối hôm đó. “Ông biết là tôi không nghĩ tới điều gì khác cả.”
Wynand nằm dài trên tràng kỷ. Một chân của ông gập lại, bàn chân vắt lên đầu gối chân kia. Ông hút thuốc và yên lặng lắng nghe.
“Tôi biết Dominique nhiều năm rồi”, Scarret nói “Từ lâu trước khi ông nghe nói tới cô ấy. Tôi yêu quý cô ấy. Tôi yêu quý cô ấy, như một người cha. Nhưng ông phải thừa nhận là cô ấy không phải dạng phụ nữ mà công chúng muốn nhìn thấy với tư cách bà Gail Wynand.”
Wynand không nói gì.
“Vợ ông là người của công chúng, Gail. Hiển nhiên sẽ là như thế. Một tài sản công cộng. Các độc giả của ông có quyền đòi hỏi và trông đợi một số thứ từ cô ấy. Một thứ biểu tượng. Kiểu như Nữ hoàng nước Anh. Làm sao mà Dominique có thể tương xứng như thế chứ? Lẽ nào ông nghĩ cô ấy có thể giữ thể diện được? Cô ấy là người sống hoang dã nhất mà tôi biết. Cô ấy tai tiếng kinh khủng. Nhưng tồi nhất là – Gail, ông thử nghĩ coi – cô ấy lại li dị chồng! Và trong khi đó, chúng ta đã tiêu tốn hàng tấn giấy để bảo vệ cho sự thiêng liêng của gia đình và sự thuần khiết của người phụ nữ! Làm sao các độc giả của ông có thể nuốt được quả đắng này? Tôi làm sao có thể bán vợ ông được cho họ chứ?”
“Anh có nghĩ là cuộc chuyện trò này nên chấm dứt không, Alvah?”
“Vâng, Gail”, Scarret nói rụt rè…
Scarret chờ đợi, với cảm giác nặng nề, như thể ông vừa trải qua một cuộc tranh cãi kịch liệt và nóng lòng muốn làm lành.
“Tôi biết rồi, Gail!”, ông ta reo lên hoan hỉ. “Tôi biết chúng ta có thể làm gì. Chúng ta sẽ đưa Dominique quay lại tờ báo và chúng ta sẽ để cô ấy viết một chuyên mục – một chuyên mục mới – chuyên về gia đình. Ông biết đấy, mẹo vặt về nhà cửa, bếp núc, trẻ con, đại loại thế. Nó sẽ làm thay đổi ấn tượng xấu. Hãy cho thấy cô ấy là người nội trợ tốt thế nào, bất chấp những lỗi lầm của tuổi trẻ của cô ấy. Phụ nữ sẽ tha thứ cho cô ấy. Chúng ta sẽ có một mục đặc biệt. ‘Công thức nấu ăn của bà Gail Wynand’. Một vài bức ảnh của cô ấy sẽ có ích – ông biết đấy, váy vải kẻ, tạp dề và tóc được làm theo kiểu truyền thống.”
“Im đi, Alvah, trước khi tôi tát vỡ mặt anh”, Wynand nói mà không hề cao giọng.
“Được rồi, Gail.”
Scarret làm bộ đứng lên.
“Ngồi yên. Tôi chưa nói xong.”
Scarret chờ đợi một cách ngoan ngoãn.
“Sáng ngày mai”, Wynand nói “anh sẽ gửi một thông báo tới tất cả các tờ báo của chúng ta. Anh sẽ bảo họ lục tìm trong hồ sơ bất cứ bức ảnh nào của Dominique mà liên quan tới chuyên mục cũ của cô ấy. Anh bảo họ hủy các bức ảnh đó. Anh bảo với họ từ nay trở đi nếu có ai đề cập tới tên cô ấy hay đăng hình cô ấy trên bất kỳ tờ báo nào của chúng ta thì toàn bộ ban biên tập liên quan sẽ mất việc. Khi tới thời điểm phù hợp, anh sẽ thông báo về cuộc hôn nhân của tôi trên tất cả các tờ báo của chúng ta. Việc này là không tránh được. Hãy đưa ra thông báo ngắn nhất có thể. Không bình luận. Không kể chuyện. Không ảnh. Hãy nói với tất cả mọi người và nhớ làm cho họ hiểu. Nếu việc này không được tuân thủ, thì tất cả mọi người, kể cả anh, cũng sẽ mất việc.”
“Không kể chuyện gì cả – khi mà ông cưới cô ấy ư?”
“Không kể chuyện gì cả, Alvah.”
“Nhưng Chúa ơi! Đó là tin tức! Các tờ báo khác…”
“Tôi không quan tâm các tờ báo khác nói gì về việc này.”
“Nhưng tại sao hả Gail?”
“Anh không hiểu được đâu.”
*
* *
Dominique ngồi ở cửa sổ, lắng nghe tiếng bánh tàu chạy ở dưới sàn. Cô nhìn vùng quê Ohio đang lướt qua trong ánh nắng nhạt dần. Đầu cô tựa vào ghế và đôi tay buông lỏng ở hai bên mình, trên nệm ghế. Cô hòa làm một với toa tàu, cô cũng đang tiến về phía trước, giống như khung cửa sổ, sàn, và thành tàu đang tiến về phía trước. Các góc cạnh xung quanh toa tàu mơ dần, thu bóng tối vào trong; chỉ có khung cửa sổ vẫn còn sáng, nhờ thứ ánh sáng của buổi tối hắt lên từ mặt đất. Cô để mình nghỉ ngơi trong ánh sáng mờ mờ đó; thứ ánh sáng từ ngoài chui vào trong khoang và ngự trị nó, cho tới chừng nào cô còn chưa bật đèn sáng để đuổi nó ra ngoài.
Cô không có ý thức về mục đích. Cô không có mục đích gì trong chuyến đi này, ngoài bản thân chuyến đi, ngoài những chuyển động và âm thanh kim khí đang vang lên xung quanh cô. Cô cảm thấy uể oải và trống rỗng, cô thả rơi cái tôi của mình trong cảm giác suy sụp mà không đau đớn; cô sẵn sàng biến mất và không còn gì còn lại, ngoài mặt đất đang hiện ra bên ngoài cửa sổ.
Khi cô nhìn thấy, trong chuyển động chậm chạp ở ngoài cửa kính, cái tên “Clayton” hiện ra trên một tấm bảng mờ mờ ở phía dưới mái sân ga, cô biết mình đã chờ đợi điều gì. Cô biết tại sao cô lại chọn đi trên chuyến tàu này, không phải một chuyến tàu nhanh, cô biết tại sao cô lại nhìn kỹ thời gian biểu về các điểm dừng của nó – cho dù nó chỉ là một cột những cái tên không có nghĩa gì với cô. Cô cầm lấy va-li, áo khoác và mũ của mình.
Cô chạy. Cô không muốn mất thời gian thay quần áo, cô sợ sàn tàu dưới chân sẽ đưa cô đi tới một nơi nào khác. Cô chạy xúong hành lang hẹp của toa tàu, xuống bực lên xuống của con tàu. Cô nhảy xuống sân ga, cảm thấy hơi lạnh đột ngột của mùa đông trên cổ trần của mình. Cô đứng nhìn nhà ga. Cô nghe thấy tiếng tàu chạy sau lưng cô, xa dần. Rồi cô mặc áo khoác và đội mũ. Cô bước xuyên qua sân ga, tới phòng đợi, xuyên qua sàn nhà bằng gỗ dính đầy kẹo cao su đã khô cứng, xuyên qua hơi nóng hừng hực từ một lò sấy, đi tới quảng trường trước mặt nhà ga.
Cô nhìn thấy một dải trời màu vàng cuối cùng phía trên các mái nhà thấp. Cô thấy một đoạn đường lát gạch lỗ chỗ, những ngôi nhà bé nhỏ dựa vào nhau; một cái cây trơ trụi với những cành xoắn xuýt, đám cỏ dại chết khô phía trước một ga-ra bỏ hoang và mất cả cửa ra vào, dãy cửa hiệu tối tăm, một hiệu thuốc vẫn đang mở cửa nằm tại một góc phố – cửa sổ của nó thắp sáng mờ mờ, thấp lè tè sát mặt đất.
Cô chưa bao giờ đến đây, nhưng cô cảm thấy nơi này đang tuyên bố quyền sở hữu của nó với cô, bao bọc lấy cô bằng một sự thân mật đáng ngại. Cứ như thể mỗi một khoảng tối đều đang thể hiện sức hút của nó, giống như lực hút của lỗ đen với các hành tinh trong vũ trụ, và chúng chi phối quỹ đạo chuyển động của cô. Cô đặt tay mình lên một bình cứu hỏa và cảm thấy hơi lạnh lan qua lớp găng tay, thấm vào da cô. Đây là cách mà thị trấn này nói chuyện với cô – bằng một sự xâm nhập trực tiếp mà cả quần áo lẫn đầu óc của cô đều không thể cản được. Chỉ có sự yên bình của cái-không-thể-tránh-khỏi là ở lại. Có điều, bây giờ, cô phải hành động, những hành động đơn giản và đã được sắp đặt trước rồi. Cô hỏi một người qua đường: “Công trường của Bách hóa Janer được xây dựng ở chỗ nào vậy?”
Cô bước đi nhẫn nại qua các con phố tối tăm. Cô đi qua những bãi cỏ trơ trụi trong mùa đông, qua những hàng hiên xập xệ, qua những bãi đất trống chỉ có cỏ dại xào xạc cọ vào các vỏ hộp thiếc, qua các cửa hiệu thực phẩm đã đóng cửa và một hiệu giặt bằng hơi, qua một cửa sổ không có rèm trong đó có một người đàn ông mặc sơ mi dài tay đang đọc báo bên cạnh lò sưởi. Cô rẽ qua các góc phố và băng qua các con đường, cảm giác tiếng sỏi xào xạc dưới đế mỏng của đôi giày. Những người đi bộ hiếm hoi nhìn cô, và ngạc nhiên trước vẻ tao nhã xa lạ của cô.
Cô nhận thấy thế, cô cảm thấy từ họ một sự tò mò muốn được giải đáp. Cô muốn nói: Chả nhẽ ông không hiểu ư? Tôi thuộc về nơi này hơn cả ông. Thỉnh thoảng, cô dừng lại, nhắm chặt mắt; cô cảm thấy nghẹn thở.
Cô đến phố Main và bước chậm hơn. Trên phố có rất ít đèn đường, các xe ô-tô đậu trên đường chéo ở lề đường, một rạp chiếu phim, một cửa hàng trưng bày đồ lót màu hồng xen với dụng cụ làm bếp. Cô bước một cách cứng nhắc, mắt nhìn thẳng phía trước.
Cô thấy ánh sáng hắt lên mặt một tòa nhà cũ, trên một bức tường bằng gạch màu vàng tối tăm, chiếu lên sàn nhà đen sạm của một tòa nhà bên cạnh đã bị kéo sập. Ánh sáng ấy xuất hiện từ một hố móng công trình. Cô biết đây chính là nó. Cô hy vọng không phải thế. Nếu họ làm việc muộn thì anh sẽ ở đây. Cô không muốn gặp anh tối nay. Cô chỉ muốn nhìn thấy địa điểm và tòa nhà, cô chưa sẵn sàng cho những gì hơn thế; cô đã định gặp anh vào ngày mai. Nhưng cô không thể dừng lại lúc này được. Cô bước tới hố móng. Nó nằm ở góc đường, trông ra phố và và không cso hàng rào. Cô nghe thấy tiếng đập thép chan chát, cô nhìn thấy cánh tay của một cây cần cẩu, thấy những bóng người xả dài trên nền đất mới đào và vàng vọt dưới ánh đèn. Cô không nhìn thấy các tấm ván dẫn tới vỉa hè nhưng cô nghe thấy tiếng bước chân và tiếp đó cô nhìn thấy Roark đang đi ra đường. Anh để đầu trần, chiếc áo khoác rộng khoác hờ không cài cúc.
Anh dừng lại. Anh nhìn cô. Cô nghĩ là cô đang đứng thẳng; rằng điều này thật đơn giản và bình thường làm sao, cô đang nhìn đôi mắt xám và mái tóc màu da cam như cô vẫn thường xuyên nhìn thấy. Cô ngạc nhiên khi anh tiến tới cô một cách rất vội vã, tay anh nắm chặt khuỷu tay cô và anh nói: “Em ngồi xuống đi.”
Và cô thấy cô đã không thể đứng được nếu không có bàn tay đó nắm vào khuỷu tay cô. Anh cầm lấy vali của cô. Anh dẫn cô đi ngang qua con phố tối tăm và bảo cô ngồi xuống bậc thềm của một căn nhà trống. Cô dựa lưng vào cánh cửa đóng. C ngồi bên cạnh cô. Anh để tay mình giữ chặt khuỷu tay cô, không phải một cách âu yếm, mà như để cả hai có thể cùng lấy lại thăng bằng.
Sau một lúc, anh bỏ tay mình ra. Cô biết là bây giờ cô đã được an toàn. Cô có thể nói.
“Đây là tòa nhà mới của anh?”
“Ừ. Em đi bộ đến đây từ nhà ga?”
“Vâng.”
“Đường xa.”
“Vâng.”
Cô nghĩ là hai người vẫn chưa chào nhau nhưng như thế là phù hợp. Đây không phải là một cuộc tái ngộ mà chỉ là một khoảnh khắc trong một cái gì đó chưa bao giờ bị ngắt quãng. Cô nghĩ sẽ thật kỳ cục nếu như cô nói “Chào anh!” với anh. Nào có ai chào bản thân mình mỗi buổi sáng.
“Sáng nay anh dậy lúc mấy giờ?” cô hỏi.
“Bảy giờ.”
“Lúc đó em đang ở New York. Trong một chiếc taxi tới nhà ga Trung tâm. Anh ăn sáng ở đâu?”
“Ở toa xe lưu động.”
“Loại mở suốt đêm à?”
“Ừ. Chủ yếu cho cánh lái xe tải.”
“Anh có hay đến đó không?”
“Lúc nào anh muốn uống cà phê.”
“Anh ngồi ở quầy à? Với mọi người xung quanh và nhìn anh?”
“Anh ngồi ở quầy khi anh có thời gian. Có mọi người xung quanh. Anh không nghĩ là họ nhìn anh nhiều lắm.”
“Thế sau đó? Anh đi bộ tới công trường à?”
“Ừ.”
“Anh đi bộ hàng ngày? Qua những con phố này? Đi qua các cửa sổ? Và nếu có ai đó mở cửa sổ…”
“Ở đây, người ta không tò mò nhìn ra ngoài cửa sổ.”
Nhờ bậc thềm cao, họ có thể nhìn thấy các hố móng ở bên kia phố, thấy đất đá, đám công nhân, các cây cột bằng thép vươn cao lên trong ánh sáng gắt. Cô cảm thấy lạ lùng khi nhìn thấy mặt đát trần ở giữa vỉa hè và đá lát đường, giống như người ta xé một miếng quần áo của thị trấn ra, để lộ da thịt trần trụi. Cô nói:
“Anh đã xây hai căn nhà nông thôn trong hai năm qua.”
“Ừ. Một ở Pensylvania và một ở gần Boston.”
“Mấy căn nhà đó đều không quan trọng.”
“Rẻ tiền, nếu ý em là thế. Nhưng công việc rất thú vị.”
“Anh sẽ ở lại đây bao lâu nữa?”
“Một tháng nữa.”
“Tại sao anh làm việc cả ban đêm?”
“Công trình này cần xong gấp.”
Bên kia đường, chiếc cần cẩu đang di chuyển, nó đang nâng một thanh rầm dài trong không trung.
Cô nhìn thấy anh quan sát nó và cô biết anh không nghĩ tới nó, đó là phản xạ bản năng trong mắt anh, một mối liên hệ hữu hình với anh, một cảm giác gần gũi đối với bất kỳ hành động nào xảy ra với tòa nhà của anh.
“Roark…”
Họ không gọi tên nhau từ lúc gặp mặt tới giờ. Giờ đây, tiếng gọi đó đem lại khoái cảm cho cô như một sự đầu hàng lẽ ra phải tuyên bố từ lâu – khi mà cô được gọi tên anh và để anh nghe thấy tiếng gọi đó.
“Roark, lại là mỏ đá nữa.”
Anh mỉm cười:
“Nếu như em muốn coi như thế. Có điều không phải.”
“Sau nhà Enright ư? Sau tòa nhà Cord ư?”
“Anh không nghĩ theo cách đấy.”
“Thế anh nghĩ thế nào?”
“Anh thích xây nó. Mỗi tòa nhà giống như một con người. Riêng biệt và không thể lặp lại.”
Anh đang nhìn sang bên kia đường. Anh đã không hề thay đổi. Vẫn là cái cảm giác nhẹ nhàng như cũ của anh, vẫn là sự dễ dàng trong cử động, trong hành động, trong suy nghĩ. Cô nói, câu nói của cô không có khởi đầu hay kết túc:
“… xây những tòa nhà năm tầng cho tới hết đời anh…”
“Nếu cần thiết. Nhưng anh không nghĩ mọi việc sẽ như thế.”
“Anh đang chờ đợi điều gì?”
“Anh không chờ đợi.”
Cô nhắm mắt, nhưng cô không thể giấu được miệng mình; miệng cô đắng ngắt, giận dữ và đau đớn.
“Roark, nếu anh ở New York thì em sẽ không đến gặp anh đâu.”
“Anh biết.”
“Nhưng vì là anh – ở một nơi khác – ở một cái hố không tên, ở một nơi như thế này. Em phải nhìn thấy nó. Em phải nhìn thấy nơi này.”
“Khi nào em đi?”
“Anh biết là không phải em đến ở lại đây ư?”
“Ừ.”
“Tại sao?”
“Em vẫn sợ các toa ăn lưu động và các cửa sổ.”
“Em sẽ không trở lại New York. Không phải ngay bây giờ.”
“Không à?”
“Anh chẳng hỏi em gì cả, Roark. Chỉ một câu có phải em đi bộ từ nhà ga.”
“Em muốn anh hỏi em điều gì?”
“Em xuống tàu khi em nhìn thấy tênnhà ga”, cô nói, giọng thẫn thờ. “Em không định đến đây. Em đang trên đường đi Reno.”
“Và sau đó?”
“Em sẽ lấy chồng một lần nữa.”
“Anh có biết chồng chưa cưới của em không?”
“Anh đã nghe thấy ông ấy. Tên ông ấy là Gail Wynand.”
Cô nhìn mắt anh. Cô nghĩ có lẽ cô muốn cười; cuối cùng cô cũng khiến anh bị sốc – điều cô chưa bao giờ nghĩ là có thể làm được. Nhưng cô không cười. Anh nghĩ tới Henry Cameron, tới câu nói của Cameron: “Tôi không có câu trả lời nào cho chúng, Howard. Tôi để cậu đối mặt chúng. Cậu sẽ trả lời cho cúhng. Tất cả bọn chúng, các tờ báo Wynand, tất cả những gì làm cho các tờ báo này tồn tại và những thứ đằng sau những cái đó.”
“Roark.”
Anh không trả lời.
“Tệ hơn Peter Keating, phải không?” cô hỏi.
“Tệ hơn nhiều.”
“Anh có muốn ngăn em lại không?”
“Không.”
Anh không chạm vào cô từ lúc anh rời khỏi khuỷu tay cô và ngay cả lúc đó cũng chỉ là một cái chạm thích hợp trong xe cứu thương. Cô nhấc tay lên và đặt nó trên tay anh. Anh không rút các ngón tay và cũng không giả bộ thờ ơ. Cô cúi xuống, giữ tay anh, để nó nằm nguyên trên đầu gối anh, và cô áp môi mình lên bàn tay anh. Chiếc mũ của cô rơi xuống đất, anh nhìn thấy mái tóc vàng trên đầu gối mình, anh cảm thấy miệng cô hôn bàn tay anh nhiều lần. Các ngón tay của anh níu lấy các ngón tay cô, đáp lại cô, nhưng đó là sự đáp lại duy nhất.
Cô ngẩng đầu lên và nhìn con đường. Một ô cửa sổ sáng đền treo lơ lửng ở phía xa xa, đằng sau những cành cây trơ trụi đan chéo vào nhau. Những ngôi nhà nhỏ ăn dài vào bóng tối, và các hàng cây đứng tựa nhau bên cạnh vỉa hè đẹp.
Cô nhận ra mũ của cô dưới bậc thềm và cô cúi mình để nhặt. Cô gập người, cô hống bàn tay trần xuống bậc thềm. Viên đá cô chạm vào già cỗi, nhẵn nhụi và lạnh ngắt. Cô cảm thấy dễ chịu khi chạm vào nó. Cô ngồi một lúc, người vẫn cúi, lòng bàn tay áp xuống viên đá, để có thể cảm giác được những bậc thềm này – dù cho nhiều đôi chân đã đi qua nơi này – để có thể cảm thấy chúng như cô đã cảm thấy chiếc bình cứu hỏa.
“Roark, anh sống ở đâu?”
“Ở một phòng trọ.”
“Loại phòng trọ nào?”
“Chỉ một phòng thôi.”
“Có gì trong đó. Tường như thế nào?”
“Một ít giấy dán tường. Đã phai màu.”
“Đồ đạc như thế nào?”
“Một chiếc bàn, vài cái ghế, một chiếc giường.”
“Không, kể cho em chi tiết đi.”
“Có một cái tủ tường để đựng quần áo, một tủ nhiều ngăn kéo, giường đặt ở góc nhà cạnh cửa sổ, một chiếc bàn lớn ở phía bên kia…”
“Cạnh cửa sổ?”
“Không, anh đặt nó ở góc bên kia, đối diện cửa sổ – anh làm việc ở đó. Có một chiếc ghế tựa, một chíêc ghế bành, đèn sàn và một giá đựng tạp chí mà anh chưa bao giờ dùng tới. Anh nghĩ thế là hết rồi.”
“Không có chăn? Không có rèm cửa sổ?”
“Anh nghĩ có cái gì đó ở cửa sổ và có chăn. Sàn nhà được đánh bóng và sạch sẽ và làm bằng gỗ cũ rất đẹp.”
“Em muốn nghĩ tới căn phòng của anh vào đêm nay – khi ở trên tàu.”
Anh nhìn sang bên kia đường. Cô nói: “Roark, cho em ở với anh đêm nay.”
“Không.”
Cô nhìn theo anh xuống chiếc máy nghiền ở dưới kia. Sau một lát, cô hỏi:
“Làm thế nào mà anh lại có hợp đồng thiết kế tòa nhà này?”
“Chủ của nó nhìn thấy các tòa nhà của anh ở New York và thích chúng.”
Một người đàn ông mặc đồng phục công nhân bước ra khỏi hố đào móng, nhìn săm soi về phía họ trong bóng tối và gọi:
“Có phải sếp không đấy?”
“Phải”, Roark gọi lại.
“Sếp xuống đây một phút được không?”
Roark đi qua đường tới chỗ anh ta. Cô không nghe được họ nói chuyện gì với nhau, nhưng cô nghe thấy Roark nói một cách vui vẻ: “Dễ ấy mà”, và họ cùng đi dọc theo các tấm ván tới đáy hố. Người đàn ông đứng nói, chỉ trỏ, giải thích. Roark quay đầu trở lại, liếc nhìn lên giàn thép dựng đứng, khuôn mặt anh được ánh sáng chiếu rõ và cô nhìn thấy cái nhìn chăm chú của anh. Không có một nụ cười nhưng cái nhìn đó khiến cô có một cảm giác vui sướng về một năng lực, một lý trí có kỷ luật đang hành động. Anh cúi xuống, nhặt một tấm bảng, lấy ra cây bút chì trong túi.
Anh đứng, một chân đặt trên đống ván ghép, tấm bảng dựa vào đầu gối. Anh vẽ rất nhanh, vừa vẽ vừa giải thích gì đó cho người đàn ông kia. Người này gật đầu tỏ vẻ vui mừng. Cô không nghe được lời anh nhưng cô cảm thấy được vai trò của Roark trong mối quan hệ với người đàn ông kia, với tất cả những người khác ở trong bãi. Đó là một cảm giác lạ lùng của sự trung thành và tình bằng hữu, nhưng không phải theo nghĩa mà cô vẫn thấy người ta dùng với những từ này. Anh nói xong, trao tấm bảng cho người đàn ông và họ cùng cười phá lên về điều gì đó. Sau đó anh trở lại và ngồi xuống bậc thềm bên cạnh cô.
“Roark”, cô nói “Em muốn ở lại đây với anh cho tới tận cuối đời.”
Anh nhìn cô, chăm chú, chờ đợi.
“Em muốn sống ở đây.” Giọng cô có âm thanh của một dòng nước đang xô vào con đập. “Em muốn sống như anh sống. Không cần tới tiền của em – Em sẽ cho hết, cho bất kỳ ai, cho Steve Mallory nếu anh muốn, hay cho một tổ chức nào đó của Toohey, cũng chẳng sao. Chúng ta sẽ có một căn nhà ở đây – giống như những cái nhà kia – và em sẽ chăm sóc nó cho anh – đừng có cười, em có thể làm thế – em sẽ nấu ăn, em sẽ giặt quần áo của anh, em sẽ cọ sàn nhà. Và anh sẽ từ bỏ nghề kiến trúc.”
Anh không cười. Cô không nhìn thấy gì ngoài vẻ chăm chú, chờ nghe cô nói tiếp.
“Roark, anh hãy cố hiểu, xin anh hãy cố hiểu. Em không thể chịu được khi thấy những thứ họ đang làm gì với anh, những thứ họ sẽ làm với anh. Nó quá lớn – anh và tòa nhà và tình yêu của anh với nó. Anh không thể tiếp tục như thế mãi. Nó sẽ không kéo dài. Họ sẽ không để cho anh. Anh đang đi tới một thảm họa kinh khủng. Sẽ chẳng có kết cục nào khác. Hãy từ bỏ đi anh. Chấp nhận một công việc vô nghĩa nào đó – như khai mỏ đá. Chúng ta sẽ sống ở đây. Chúng ta sẽ không có gì nhiều và chúng ta sẽ không cho gì cả. Chúng ta sẽ sống chỉ vì chúng ta và chỉ vì những gì chúng ta biết.”
Anh cười. Cô nghe thấy, trong tiếng cười của anh, sự ân cần của anh với cô – anh đã cố gắng không cười nhưng không thể ngăn nó được.
“Dominique.” Cách anh gọi tên cô lắng vào trong cô và khiến việc nghe những lời tiếp đó trở nên dễ dàng hơn: “Anh ước là anh có thể nói với em rằng đó là một cám dỗ, chí ít cũng là trong khoảnh khắc. Nhưng không phải thế.” Anh nói thêm: “Nếu anh là kẻ rất độc ác, anh sẽ chấp nhận nó. Chỉ để xem mất bao lâu thì em sẽ cầu xin anh quay trở lại với việc xây dựng.”
“Vâng… Có lẽ…”
“Hãy cưới Wynand và sống với ông ta. Việc đó tốt hơn là việc em đang làm với mình vào lúc này.”
“Anh có phiền… nếu chúng ta ngồi đây thêm chút nữa… và không nói về việc đó… mà chỉ nói chuyện thôi, như thể tất cả đều tốt đẹp… chỉ là một sự đình chiến nửa giờ đồng hồ cho nhiều năm sắp tới… Nói cho em biết anh làm gì mỗi ngày trong khi anh ở đây, tất cả những gì mà anh có thể nhớ được…”
Và họ nói với nhau, như thể bậc thềm trên cùng của căn nhà trống ấy là một chiếc máy bay đang lơ lửng trên không trung, không thấy đất cũng không thấy trời. Anh không hề nhìn sang phía bên kia đường.
Sau đó, anh liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay và nói: “Một tiếng nữa có tàu chạy về hướng Tây. Anh sẽ đi với em ra ga nhé?”
“Chúng ta đi bộ có được không?”
“Được chứ.”
Cô đứng lên. Cô hỏi: “Cho tới – khi nào, Roark?”
Anh khoát tay qua những đường phố.
“Cho tới khi em không còn căm ghét tất cả những thứ này, không còn sợ hãi chúng, và học cách không còn để ý tới chúng.”
Họ bước cùng nhau tới nhà ga. Cô lắng nghe tiếng bước chân anh hòa vào bước chân cô trên những đường phố không người. Cô để ánh mắt của mình lướt dài theo những bức tường họ đi qua, như một cái vuốt ve níu giữ. Cô yêu nơi này, thị trấn này và tất cả những gì thuộc về nó.
Họ đi qua một bãi đất trống. Gió thổi một trang báo cũ bay vào chân cô. Nó dính vào chân cô một cách kiên trì tới mức như là nó có ý thức, giống như sự nằng nặc âu yếm của một con mèo đối với chủ nhân. Cô nghĩ, mọi thứ ở thị trấn này đều có quyền đối xử thân thiết với cô. Cô cúi người, nhặt tờ báo, gấp nó, để giữ lấy nó.
“Em làm gì thế?” anh hỏi.
“Để có gì đó đọc trên tàu”, cô nói một cách ngớ ngẩn.
Anh giật tờ báo khỏi tay cô, vò nát và quẳng nó vào trong đám cỏ dại.
Cô không nói gì và họ lại tiếp tục bước đi.
Một bóng đèn duy nhất treo trên sân ga vắng người. Họ chờ đợi. Anh đứng nhìn đường ray, phía con tàu sắp xuất hiện. Khi đường ray reo lên, run rẩy, khi bóng đèn pha tròn màu trắng phả ánh sáng từ đằng xa và tạo một quầng sáng cố định trên bầu trời, không tiến lại, mà chỉ lan rộng ra với tốc độ kinh người, anh không cử động cũng không quay sang cô. Chùm sáng đang lao tới, xô bóng anh dọc sân ga, làm nó quét ngang trên các tấm ván gỗ và biến mất. Trong một khoảnh khắc, cô thấy dáng người cao và thẳng của anh trong ánh sáng chói lòa. Đầu máy chạy qua họ, toa xe kêu rầm rầm, rồi chậm lại. Anh nhìn vào các khung cửa sổ đang chạy qua. Cô không nhìn thấy mặt anh mà chỉ thấy đường nét nơi gò má anh.
Khi tàu dừng, anh quay sang cô. Họ không bắt tay nhau, họ không nói gì. Họ đứng thẳng, mặt đối mặt nhau trong phút chốc, như thể đang duyệt binh; họ đứng gần như trong tư thế chào của nhà binh. Rồi cô nhấc va-li của mình và lên tàu. Tàu bắt đầu chuyển động một phút sau đó.