“Toohey,” Guy Francon nói, “Ellsworth Toohey. Ông ta tử tế đấy chứ, anh có nghĩ vậy không? Đọc đi này, Peter.”
Francon vươn người một cách vui vẻ qua bàn làm việc và đưa cho Keating số tháng Tám của tờ Những mặt trận mới. Tờ tạp chí có trang bìa màu trắng với một biểu trưng màu đen có hình kết giữa một bảng màu, một chiếc đàn lia, một cái búa, tuốc-nơ-vít và mặt trời mọc; nó tiêu thụ 30.000 ấn bản mỗi số và những người cổ súy cho nó mô tả nó như là người tiên phong tri thức của đất nước – chưa có ai đứng ra để phản bác lại điều này. Keating bắt đầu đọc từ một bài viết có tiêu đề Cẩm thạch và Vữa, của Ellsworth M. Toohey:
“… Và bây giờ chúng ta đề cập đến một thành tựu đáng chú ý khác trong các công trình kiến trúc cao tầng ở đô thị. Chúng tôi muốn các bạn chú ý đến sự tinh tế của tòa nhà mới xây có tên Melton do hãng Francon & Heyer thiết kế. Tòa nhà đứng với một sự tao nhã trong sáng, như một chứng nhân hùng hồn cho thắng lợi của sự thuần khiết Cổ điển và tính hợp lý[28]. Sự tuân thủ truyền thống cổ điển bất tử đã trở thành một nhân tố hữu cơ trong việc kiến tạo một công trình mà vẻ đẹp của nó có thể đơn giản và dễ dàng đi vào trái tim của mọi người trên phố. Ở đây không hề có chủ nghĩa khoa trương đồng bóng, không hề có sự tranh đấu sai lầm cho cái mới lạ, không có sự điên cuồng thể hiện chủ nghĩa cá nhân. Guy Francon, người thiết kế nó, đã biết tuân thủ những tiêu chuẩn bắt buộc mà các thế hệ nghệ nhân sau ông đã chứng minh là không thể bị xâm phạm và đồng thời biết cách thể hiện tính nguyên gốc sáng tạo của bản thân, không phải mặc dù, mà chính xác là vì tín điều Cổ điển mà ông đã chấp nhận với sự khiêm tốn của một nghệ sĩ thực thụ. Nhân tiện, cũng cần phải nói rằng việc tuân thủ tín điều là cái duy nhất tạo nên sự sáng tạo thực thụ…
“Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là ý nghĩa biểu tượng của một tòa nhà như tòa nhà này đối với thành phố tráng lệ của chúng ta. Khi một người đứng trước mặt tiền phía nam của tòa nhà, anh ta có thể bất ngờ khi nhận ra rằng các đường gân nổi được lặp lại giống hệt nhau từ tầng ba đến tầng mười tám là có chủ ý; những đường dài, thẳng và nằm ngang này thể hiện nguyên lý tiết chế và cân bằng – những đường thẳng thể hiện sự bình đẳng. Chúng dường như hạ thấp cấu trúc tháp xuống cho ngang tầm với chiều cao khiêm tốn của người quan sát. Chúng là những đường thẳng của trái đất, của con người và của những khối đại đồng. Chúng như nói với chúng ta rằng không gì có thể mọc quá cao so với khuôn khổ chung của cộng đồng người, rằng mọi thứ sẽ được kìm giữ và kiểm tra bởi những gờ nổi của tình bằng hữu giữa người với người…”
Còn nhiều nữa. Keating đọc trọn vẹn bài viết rồi ngẩng đầu lên. “Lạy Chúa!” anh nói đầy kính sợ.
Francon mỉm cười một cách hạnh phúc.
“Hay đấy chứ, phải không? Mà lại là Toohey viết, chứ không phải ai khác. Không nhiều người biết đến cái tên này, nhưng rồi họ sẽ biết, hãy nhớ lấy lời tôi, họ sẽ biết đến cái tên này. Tôi biết những dấu hiệu… Vậy là ông ta không nghĩ rằng tôi quá tồi, đúng không? Và ông ta có cái lưỡi sắc như dao vậy – khi ông ta muốn dùng nó. Anh cứ đọc những gì ông ta nói về những người khác mà xem – ông ta nói khá thường xuyên. Anh có biết về cái bẫy chuột mới nhất của Durkin không? Thế này, tôi đã dự một bữa tiệc và nghe thấy Toohey nói…” Francon cười khoái chí – “ông ta nói: ‘Nếu ông Durkin có ảo tưởng rằng ông ta là một kiến trúc sư, thì ai đó nên giới thiệu cho ông ta một cơ hội to lớn mà việc thiếu thợ ống nước lành nghề mang lại.’ Tưởng tượng xem, ông ta nói thế đấy, ngay chỗ đông người!”
“Tôi băn khoăn,” Keating nói đầy vẻ đăm chiêu, “không biết ông ta sẽ nói gì về tôi khi đến lúc đấy.”
“Ông ta định ám chỉ cái gì ở đoạn ý nghĩa biểu tượng và đường gân nổi của tình bằng hữu giữa người với người nhỉ?… Ôi, nếu ông ta ca ngợi chúng ta về điều đó thì chúng ta nên thận trọng!”
“Ngài Francon, công việc của các nhà phê bình là diễn giải ý tưởng của các nghệ sĩ, thậm chí diễn giải cho chính người nghệ sĩ. Ông Toohey chỉ phát biểu ra những ý nghĩa ẩn giấu trong tiềm thức của chính ngài.”
“Ồ,” Francon nói một cách mơ hồ. “Ồ, anh nghĩ vậy sao?” ông nói tiếp với vẻ hồ hởi “Hoàn toàn có thể… Đúng vậy, hoàn toàn có thể… Anh là một chàng trai thông minh, Peter.”
“Cảm ơn ngài, ngài Francon.” Keating dợm đứng lên.
“Hượm đã. Đừng đi vội. Hút thêm một điếu thuốc rồi chúng ta sẽ cùng quay trở lại với công việc lao tâm khổ tứ của chúng ta.”
Francon đang mỉm cười về bài báo và đọc lại nó. Keating chưa từng thấy ông hài lòng đến vậy; không có bản vẽ nào trong văn phòng và không có thành tựu nào làm cho ông hài lòng bằng những từ ngữ của một người khác, được in trên một trang giấy cho những người khác nữa đọc.
Keating ngồi một cách thoải mái trong chiếc ghế êm ái. Tháng làm việc đầu tiên của anh tại hãng đã rất suôn sẻ. Anh không nói gì và cũng chẳng làm gì; nhưng cả phòng thiết kế có ấn tượng rằng Guy Francon đặc biệt thích người ta để chàng trai này mang các bản vẽ đến gặp ông ta bất cứ khi nào văn phòng có bản vẽ cần duyệt. Hầu như không có ngày nào trôi qua mà không có những phút giải lao thú vị khi anh ngồi đối diện với Guy Francon qua bàn làm việc, trong sự thân mật đầy tôn trọng và ngày càng gia tăng, để lắng nghe những tâm sự của Francon về sự cần thiết phải có những người xung quanh hiểu mình.
Qua những đồng nghiệp, Keating đã biết hết tất cả những thứ mà anh phải biết về Guy Francon. Anh biết được rằng Guy Francon ăn không nhiều và rất sành – và rất tự hào về khiếu sành ăn của mình; rằng ông đã tốt nghiệp loại ưu tại Trường Mỹ thuật Paris; rằng ông đã cưới được một đống tiền và rằng cuộc hôn nhân không được hạnh phúc; rằng ông rất kỹ tính trong việc phối màu giữa bít tất với khăn tay, nhưng không bao giờ với cái cà-vạt; rằng ông rất ưa thích thiết kế các tòa nhà bằng đá granit xám; rằng ông sở hữu một mỏ đá granit rất phát đạt ở Connecticut; rằng ông duy trì một căn hộ độc thân màu mận chín, được xây theo kiểu Louis XV; rằng người vợ của ông – vốn thuộc một dòng họ lâu đời rất nổi tiếng – đã chết và để lại gia sản của mình cho cô con gái duy nhất của họ; rằng hiện cô gái đã mười chín tuổi và đang đi học đại học.
Những thông tin sau cùng này làm Keating rất quan tâm. Anh từng giả bộ tình cờ đề cập với Francon về con gái của ông. “À, ừ…” Francon đã ậm ừ “Đúng vậy, đúng thế đấy…” Keating từ bỏ ý định tìm hiểu sâu thêm về vấn đề này vào thời điểm hiện tại; bộ mặt của Francon tuyên bố với anh rằng những ý nghĩ về con gái ông làm ông hết sức khó chịu, nhưng vì lý do gì thì Keating không thể khám phá ra.
Keating đã gặp Lucius N. Heyer, đối tác của Francon. Anh thấy ông đến văn phòng hai lần trong vòng ba tuần, nhưng không thể hiểu được Heyer mang lại lợi ích gì cho hãng. Heyer không mắc chứng máu không đông, nhưng trông như thể ông bị bệnh này. Ông ta là một nhà quý tộc tiều tụy với cái cổ dài gầy nhẳng, đôi mắt lồi và lối cư xử ngọt ngào, nhút nhát với tất cả mọi người. Ông là hậu duệ của một gia đình lâu đời và người ta ngờ rằng Francon chọn ông làm đối tác chỉ vì các mối quan hệ xã hội của ông. Mọi người thấy thương cảm cho Lucius tội nghiệp. Họ ngưỡng mộ ông vì những nỗ lực theo đuổi nghề nghiệp và cho rằng để ông ta xây nhà là một nghĩa cử tốt đẹp. Thường thì Francon sẽ xây những ngôi nhà đó và không đòi hỏi Lucius làm thêm bất kỳ việc gì khác. Điều này làm tất cả mọi người hài lòng.
Những người trong phòng thiết kế đều thích Peter Keating. Anh làm cho họ cảm thấy như thể anh đã ở đó một thời gian dài; anh luôn biết cách làm thế nào để trở thành một phần của bất kỳ nơi nào mà anh bước vào; anh mềm mỏng và sáng láng, cứ như một miếng mút dễ tính và có nhu cầu hút đầy không khí của nơi anh đến. Nụ cười ấm áp của anh, giọng nói vui vẻ của anh ta và cái nhún vai nhẹ nhàng của anh như nói rằng mọi thứ với anh đều nhẹ nhàng và vì thế anh không phải là người để đổ lỗi, để đòi hỏi và để buộc tội cho bất kỳ cái gì.
Giờ đây khi Keating ngồi nhìn Francon đọc bài báo, Francon ngẩng đầu liếc nhìn anh. Ông thấy hai con mắt đang nhìn mình với sự ngưỡng mộ sâu sắc – và hai khóe miệng nhếch lên coi thường – cái khóe miệng ấy giống như khúc dạo đầu của một tiếng cười và chúng thoáng hiện ra ngay trước khi người ta nghe thấy tiếng cười. Francon cảm thấy vô cùng thoải mái. Sự thoải mái bắt nguồn từ cái dấu hiệu của sự coi thường kia. Sự ngưỡng mộ, cùng với nụ cười nửa miệng khôn ngoan, đồng nghĩa với một sự phục tùng mà ông không mất công chinh phục. Nếu đấy là một sự ngưỡng mộ mù quáng, nó chỉ có tính tạm thời; nếu là một sự ngưỡng mộ chính đáng, nó sẽ trở thành một gánh nặng trách nhiệm; còn ở đây, ông có một sự ngưỡng mộ đi kèm với coi thường – đấy là một thứ vô giá.
“Khi nào cậu đi, Peter, hãy đưa cái này cho cô Jeffers để đưa vào tập hồ sơ của tôi nhé.”
Trên đường xuống cầu thang, Keating tung quyển tạp chí lên không trung và bắt nó một cách thành thạo. Môi anh chúm lại để huýt sáo không thành tiếng.
Trong phòng thiết kế, anh thấy Tim Davis, người bạn thân nhất của mình, đang rũ người thất vọng trên một bản vẽ. Tim Davis là chàng trai cao, tóc vàng ở bàn bên cạnh, người mà Keating đã chú ý từ rất lâu, vì dù không có bằng chứng hiển nhiên nhưng Keating biết chắc rằng đây là nhân viên thiết kế được yêu thích của văn phòng (Keating luôn biết rõ những chuyện như vậy). Anh xoay sở để càng ngày càng thường xuyên được tham gia vào các dự án có Davis. Chẳng bao lâu sau, họ đã cùng nhau đi ăn trưa và lặng lẽ tán chuyện đôi chút sau giờ làm việc. Keating thường nín thở lắng nghe câu chuyện của Davis về tình yêu của anh ta với một cô Elaine Duffy nào đó, mặc dù những câu chuyện này, ngay sau đó, Keating chẳng nhớ một từ nào.
Giờ thì Davis đang mang một khuôn mặt ủ dột. Miệng anh ta đang cùng lúc nhai ngấu nghiến cả thuốc lá lẫn bút chì. Keating không cần hỏi. Anh chỉ nhòm một cách thân thiện qua vai Davis. Davis nhổ thuốc khỏi miệng và bùng nổ. Anh ta vừa mới được thông báo là phải làm việc suốt đêm – lần thứ ba trong tuần này.
“Phải làm muộn – Có Chúa mới biết muộn đến lúc nào! Phải làm xong cái thứ chó chết này vào đêm nay!” Anh ta ném phịch những tấm giấy xuống trước mặt. “Cậu nhìn xem! Sẽ phải mất rất nhiều thời gian mới làm xong được. Làm thế nào bây giờ?”
“Thì anh là người giỏi nhất ở đây mà Tim. Mọi người cần anh.”
“Tôi cóc cần biết! Tôi có hẹn với Elaine tối nay! Làm sao mà tôi có thể hủy được? Lần thứ ba rồi! Cô ấy sẽ không tin! Cô ấy đã nói thế lần trước! Lần trước là lần chót. Tôi sẽ lên gặp Đức Ngài Guy Vĩ đại và nói cho ông ta biết ông ta đi mà lo các bản vẽ và công việc của ông ta! Tôi chán ngấy chuyện này rồi.”
“Khoan đã nào.” Keating nói và ghé sát vào anh chàng. “Từ từ đã! Còn một cách khác nữa. Tôi sẽ hoàn thành chúng cho anh.”
“Hả?”
“Tôi sẽ ở lại. Tôi sẽ làm. Đừng lo. Sẽ không ai nhận ra sự khác biệt đâu.”
“Peter! Thật chứ?”
“Tất nhiên rồi. Tôi chẳng có việc gì tối nay. Anh chỉ cần ở lại cho đến khi tất cả mọi người về thôi, sau đó thì chuồn.”
“Ôi, Chúa ơi, Peter!” Davis thở ra và cảm thấy bị cám dỗ “Nhưng mà, nếu họ phát hiện ra thì họ sẽ đuổi việc tôi. Những việc này còn mới đối với cậu.”
“Họ sẽ không phát hiện ra đâu.”
“Tôi không thể mất việc được, Peter. Cậu biết là tôi không thể. Elaine và tôi sắp cưới. Nếu có chuyện gì xảy ra thì…”
“Sẽ không xảy ra chuyện gì.”
Ngay sau sáu giờ tối, Davis lén lút rời khỏi phòng thiết kế trống không, để lại Keating ở bàn vẽ của mình.
Cúi xuống dưới cái đèn màu xanh lá cây duy nhất, Keating nhìn lướt qua khoảng không của ba gian phòng dài, tĩnh lặng một cách kỳ lạ sau một giờ làm việc. Anh cảm thấy mình sở hữu chúng; anh sẽ sở hữu chúng, chắc chắn như cái bút chì đang di chuyển trong bàn tay mình.
Anh hoàn thành các bản vẽ lúc 9 giờ 30, xếp gọn chúng trên bàn của Davis và rời khỏi văn phòng. Anh đi bộ xuống phố với cảm giác thoải mái, mãn nguyện như vừa được ăn một bữa ăn ngon. Nhưng rồi anh chợt nhận ra sự cô đơn của mình. Anh phải chia sẻ điều này với một ai đó vào đêm nay. Anh chẳng có ai cả. Lần đầu tiên anh ước có mẹ mình ở New York. Nhưng bà vẫn ở Stanton, chờ đợi ngày mà anh có thể về rước bà lên ở cùng. Anh chẳng có nơi nào để đi tối nay, ngoại trừ ngôi nhà trọ nhỏ bé, khắc khổ ở phố 28 Tây nơi mà anh phải leo lên ba tầng lầu để đến căn phòng nhỏ, sạch sẽ và thiếu không khí của mình. Anh đã gặp gỡ người này người khác ở New York – thậm chí nhiều người, nhiều cô gái – anh nhớ đã có một trong số những cô gái đó mặc dù anh không thể nhớ nổi họ của cô ta; nhưng anh không muốn gặp bất kỳ ai trong số họ cả. Và rồi anh nghĩ đến Catherine Halsey.
Anh đã gửi cho cô một bức điện vào cái đêm anh tốt nghiệp đại học và đã quên cô kể từ khi đó. Giờ đây anh lại muốn gặp cô – cái ước muốn này trở nên sâu sắc và cấp bách ngay khi tên cô vang lên trong trí nhớ của anh. Anh nhảy lên một cái xe buýt để đi một đoạn dài đến Greenwich Village[29]. Anh trèo lên nóc cái xe không một bóng người[30], ngồi ngay cái ghế phía đầu xe và chửi thề mỗi khi đèn giao thông chuyển sang màu đỏ. Điều này luôn xảy ra khi anh nghĩ đến Catherine và anh lờ mờ băn khoăn không biết mình bị làm sao.
Anh đã gặp cô cách đây một năm ở Boston, nơi cô sống với bà mẹ góa của mình. Ở lần gặp gỡ đầu tiên đó, anh thấy Catherine là người chất phác và tẻ nhạt, cô chẳng có điểm gì đặc biệt ngoại trừ nụ cười đáng yêu – lẽ ra chẳng đủ là lý do để anh muốn gặp lại cô. Thế mà anh đã gọi điện cho cô vào tối hôm sau. Trong vô vàn những cô gái mà anh biết trong quãng đời sinh viên của mình, cô là người duy nhất mà anh chẳng tiến xa hơn ngoài một vài nụ hôn. Anh có thể có bất kỳ cô gái nào mà anh gặp và anh biết điều đó; anh biết rằng anh có thể có Catherine; anh muốn cô; cô yêu anh và chấp nhận điều đó một cách đơn giản, cởi mở, không sợ hãi hay xấu hổ, chẳng đòi hỏi gì ở anh, chẳng mong chờ gì ở anh; nhưng chẳng hiểu tại sao anh chưa từng lợi dụng điều này. Anh đã tự hào về những cô gái mà anh tháp tùng vào thời gian đó, những cô gái đẹp nhất, nổi tiếng nhất, ăn mặc đỏm dáng nhất và anh từng thích thú với sự ghen tỵ của các bạn cùng trường. Anh từng xấu hổ về sự luộm thuộm vô tâm của Catherine cũng như về một thực tế là chẳng có chàng trai nào buồn nhìn đến cô đến lần thứ hai. Nhưng anh chưa bao giờ hạnh phúc như khi anh đưa cô đến các buổi khiêu vũ của hội sinh viên. Anh có nhiều cuộc tình cuồng nhiệt, khi mà anh thề thốt rằng anh không thể sống thiếu cô gái này hay cô gái khác; những lúc như vậy, anh quên bẵng Catherine trong nhiều tuần liền; vậy mà cô không bao giờ nhắc anh. Anh luôn quay trở lại với cô, đột ngột và khó hiểu, như là đêm nay.
Mẹ cô, một giáo viên phổ thông nhỏ nhắn và hiền lành, đã qua đời vào mùa đông năm ngoái. Catherine đã đến sống với ông chú ở New York. Một số thư của Catherine được Keating trả lời lập tức; một số khác phải hàng tháng sau. Cô thì luôn luôn trả lời thư của anh ngay lập tức và không bao giờ viết thư trong những khoảng thời gian mà anh im lặng. Cô chỉ kiên nhẫn chờ đợi. Khi Keating nghĩ về cô, anh từng cảm thấy chẳng có gì có thể thay thế được cô. Sau đó, khi ở New York, mặc dù có thể dễ dàng bắt xe buýt hoặc gọi điện thoại, nhưng anh lại quên cô suốt cả tháng.
Anh chưa bao giờ nghĩ – khi anh đang vội vàng tìm đến cô như bây giờ – rằng đáng lẽ anh nên báo trước về cuộc viếng thăm của mình. Anh chưa từng băn khoăn xem liệu anh có gặp cô ở nhà hay không. Anh luôn quay lại tìm cô kiểu như thế này và cô luôn ở đó. Đêm nay cũng vậy.
Cô mở cửa căn hộ tầng trên cùng của ngôi nhà tồi tàn, giả đá nâu. “Chào anh, Peter,” cô nói như thể cô vừa gặp anh ngày hôm qua.
Cô đứng trước mặt anh, quá nhỏ bé, quá gầy gò trong bộ quần áo của mình. Chiếc váy ngắn màu đen bay lật phật quanh vòng eo thon nhỏ; cổ áo sơ mi kiểu nam giới trễ nải, bị kéo lệch một bên làm lộ ra cái xương ức mỏng; cổ tay áo quá dài che lấp đôi bàn tay mảnh mai. Cô nghiêng đầu nhìn anh; mái tóc màu hạt dẻ lòa xòa đằng sau gáy, nhưng trông nó như thể được cắt ngắn ngang vai, suôn thẳng, nhẹ nhàng và bồng lên như một vầng hào quang bao quanh khuôn mặt cô. Đôi mắt cô màu xám, to và cận thị; miệng cô nở một nụ cười chậm rãi, tinh tế, và sung sướng; đôi môi rạng rỡ.
“Chào em, Katie,” anh nói.
Anh cảm thấy yên ổn. Anh thấy mình chẳng có gì phải sợ hãi – trong căn nhà này hay bất kỳ nơi nào khác bên ngoài kia. Anh đã chuẩn bị để giải thích rằng mình bận rộn đến mức nào ở New York; nhưng dường như mọi sự giải thích giờ đều trở nên không quan trọng.
“Đưa mũ cho em,” cô nói, “anh cẩn thận cái ghế đó nhé, nó không chắc chắn lắm đâu, chúng ta có những cái tốt hơn ở phòng khách, anh vào đi.”
Phòng khách – anh nhận thấy – thật khiêm nhường nhưng không hiểu sao lại sang trọng và có thẩm mỹ một cách đáng kinh ngạc. Anh để ý những quyển sách; những giá sách rẻ tiền cao đến tận trần phòng, đựng đầy những tập sách quý; những tập sách không được sắp xếp cẩn thận, có vẻ là đang được đọc. Anh thấy trên một cái bàn ngăn nắp, tồi tàn, một bản khắc của Rembrandt[31] đã ngả màu vàng, có lẽ là được tìm thấy ở một cửa hàng đồ cũ nào đó bởi đôi mắt của một người am hiểu nghệ thuật – người này chắc chắn là chưa từng có ý định chia tay với bản khắc này mặc dù giá cả của nó hiển nhiên là sẽ đỡ đần cho cuộc sống của người đó rất nhiều. Anh băn khoăn không biết chú cô làm việc trong lĩnh vực nào; nhưng anh chẳng bao giờ hỏi.
Anh đứng lơ đãng nhìn căn phòng. Anh cảm thấy sự hiện diện của cô sau lưng mình và tận hưởng cảm giác yên ổn mà hiếm khi anh có. Sau đó anh quay lại và nắm lấy cánh tay cô rồi hôn cô. Đôi môi cô chạm vào môi anh khẽ khàng và chờ đợi; cô không hề có vẻ sợ sệt hoặc phấn khích; cô quá hạnh phúc để có thể chấp nhận nụ hôn theo bất kỳ cách nào ngoài việc coi nó như một điều hiển nhiên.
“Chúa ơi, anh nhớ em quá!” anh thốt lên và lập tức hiểu rằng anh quả thực đã rất nhớ cô, nhớ hàng ngày kể từ lần cuối cùng anh gặp cô; mà hơn thế, có lẽ anh đã nhớ cô vào chính những lúc mà anh không hề nghĩ đến cô.
“Anh chẳng thay đổi gì nhiều,” cô nói. “Trông anh gầy đi một chút. Như thế hợp hơn đấy. Anh sẽ rất hấp dẫn khi anh 50 tuổi, Peter ạ.”
“Nghe không giống một lời khen nhỉ – nếu mà anh suy diễn.”
“Sao ạ? Ồ, anh cho là em nghĩ bây giờ anh không hấp dẫn phải không? Ồ, không, anh rất hấp dẫn.”
“Em không nên nói thẳng như thế với anh.”
“Tại sao không? Anh biết anh hấp dẫn. Nhưng em đang tưởng tượng trông anh sẽ thế nào khi 50 tuổi. Tóc mai của anh sẽ bạc, và anh sẽ mặc một bộ comple xám – tuần trước em nhìn thấy một bộ như thế trong một cửa hàng và em nghĩ bộ đó sẽ rất hợp – và anh sẽ là một kiến trúc sư vô cùng vĩ đại.”
“Em thực sự nghĩ vậy sao?”
“Vâng.” Cô không tâng bốc anh. Dường như cô không nhận ra rằng những lời như vậy có thể mang hàm ý tâng bốc. Cô chỉ tuyên bố một thực tế chắc chắn đến nỗi không cần phải nhấn mạnh nữa.
Anh chờ đợi những câu hỏi mà anh tin chắc là sẽ đến. Nhưng thay vào đó, họ bất chợt nói chuyện về những ngày bên nhau ở Stanton, và anh cười vang, vòng tay qua đầu gối để ôm cô. Bờ vai gầy của cô dựa hẳn vào vòng tay của anh; đôi mắt cô dịu dàng và mãn nguyện. Anh nói về những bộ đồ bơi cũ của họ, về những vệt chỉ bung ra trên tất của cô, về cửa hàng kem yêu thích của họ ở Stanton, nơi họ đã có nhiều buổi tối mùa hè bên nhau – rồi anh nghĩ một cách mơ hồ rằng chuyện này thật buồn cười; anh có nhiều thứ thích đáng hơn để nói và hỏi cô; chẳng ai lại đi nói chuyện kiểu này khi đã hàng tháng trời không gặp nhau. Nhưng dường như với cô, chuyện này là bình thường; cô dường như chẳng biết đến khoảng thời gian họ xa nhau.
Cuối cùng anh là người hỏi trước:
“Em có nhận được điện của anh không?”
“À, em có. Cảm ơn anh.”
“Thế em không muốn biết là anh sống như thế nào ở thành phố này à?”
“Tất nhiên rồi. Anh sống như thế nào ở thành phố này?”
“Xem này, em không thực sự quan tâm đến chuyện này.”
“Ồ, nhưng em quan tâm mà! Em muốn biết mọi thứ về anh.”
“Thế tại sao em không hỏi?”
“Anh sẽ kể cho em khi anh muốn.”
“Những chuyện này chẳng quan trọng gì với em, đúng không?”
“Cái gì cơ?”
“Chuyện anh làm gì ấy mà.”
“Ồ… có chứ, Peter. À, không, không nhiều lắm.”
“Em thật là dễ thương quá nhỉ!”
“Nhưng mà, anh thấy đấy, thực sự là việc anh làm gì đâu có quan trọng. Chỉ có anh thôi.”
“Anh cái gì cơ?”
“Anh – ở đây. Hay anh – ở trong thành phố. Hay là anh ở nơi nào đó trên thế giới. Em không biết nữa. Chỉ vậy thôi.”
“Em biết không, em thật ngốc nghếch, Katie ạ. Em vụng quá.”
“Em vụng?”
“Ừ, vụng lắm. Em không thể nói với một người đàn ông một cách không ngượng ngùng rằng em thật sự điên lên vì anh ta như vậy.”
“Nhưng đúng vậy mà.”
“Nhưng em không thể nói như vậy được. Đàn ông sẽ không còn để ý đến em đâu.”
“Nhưng em không muốn đàn ông để ý đến em.”
“Em muốn anh để ý đến em, có phải không?”
“Nhưng anh để ý đến em mà, đúng không?”
“Anh để ý,” anh nói và ghì chặt cô trong đôi tay mình. “Quỷ tha ma bắt. Anh còn ngốc hơn cả em.”
“Ồ, thế là mọi chuyện hoàn toàn ổn” cô nói và lùa các ngón tay vào mái tóc anh, “phải không anh?”
“Mọi việc luôn luôn ổn – thế mới buồn cười… Nhưng mà này, anh muốn kể cho em về những chuyện đã xảy ra với anh vì chúng rất quan trọng…”
“Em rất muốn nghe.”
“Em biết đấy, anh đang làm việc cho hãng Francon & Heyer và… Ồ, khỉ thật, có khi em cũng chẳng biết thế nghĩa là thế nào!”
“Có chứ. Em tra trong quyển Ai là Ai trong ngành Kiến trúc. Có vài lời rất tốt về hãng này. Và em đã hỏi chú em. Chú ấy nói họ là những đỉnh cao trong ngành.”
“Đúng thế đấy. Francon – ông ấy là nhà thiết kế vĩ đại nhất ở New York, ở cả nước Mỹ và có thể trên toàn thế giới. Ông ấy đã xây mười bảy tòa nhà chọc trời, tám nhà thờ lớn, sáu nhà ga tàu hỏa và có Chúa mới biết còn có những cái gì khác nữa… Tất nhiên, em biết đấy, ông ấy là một gã ngốc già nua và là một tên lừa đảo trơ tráo, lúc nào cũng thích chõ mũi vào mọi thứ…”
Anh dừng lại, miệng há hốc và nhìn cô chằm chằm. Anh đã không định nói như vậy. Anh chưa từng cho phép bản thân nghĩ như vậy.
Cô đang nhìn anh với ánh mắt trong sáng.
“Vâng?” cô hỏi. “Rồi sao ạ…?”
“À… thì…” – anh lắp bắp và anh biết rằng anh không thể nói lái đi được, không phải với cô – “thì đấy, anh thực sự nghĩ về ông ta như thế. Anh không tôn trọng ông ta một chút nào cả. Nhưng anh lại sung sướng được làm việc cho ông ta. Em thấy không?”
“Em có” cô nói khẽ “Anh đầy tham vọng mà, Peter.”
“Em không khinh bỉ anh vì chuyện đó chứ?”
“Không. Anh muốn như thế mà.”
“Chắc chắn rồi, anh muốn thế. Mà, thực ra thì nó cũng không tệ đến thế đâu. Đấy là một hãng khổng lồ – hãng tốt nhất trong thành phố. Anh đang làm việc tốt và Francon rất hài lòng về anh. Sự nghiệp của anh đang tiến triển thuận lợi. Anh nghĩ là sau này, anh sẽ có thể có bất cứ vị trí nào anh muốn ở đó… Nhưng mà, tối nay, anh đã cướp việc của một người khác; anh ta không hề biết là rồi anh ta sẽ sớm trở nên vô dụng, vì… Ôi Katie! Anh đang nói cái gì thế này?”
“Không sao đâu, anh yêu. Em hiểu mà.”
“Nếu em hiểu, thì em đã chửi anh bằng những lời lẽ mà anh xứng đáng được nhận; và em sẽ ngăn anh lại.”
“Không, Peter à. Em không muốn thay đổi anh. Em yêu anh, Peter.”
“Cầu Chúa phù hộ cho em!”
“Em biết điều đó.”
“Em biết điều đó? Và em nói về điều đó như thế này á? Chỉ như là em nói, ‘Xin chào, thật là một buổi tối đẹp tuyệt’ sao?”
“Ồ, tại sao không? Tại sao lại phải lo lắng về điều đó chứ? Em yêu anh.”
“Phải, đừng lo lắng về chuyện đó! Đừng bao giờ lo lắng về chuyện đó!… Katie… Anh sẽ không bao giờ yêu bất kỳ ai khác nữa đâu…”
“Em cũng biết thế.”
Anh ôm cô chặt hơn, bồn chồn, lo sợ rằng cơ thể nhỏ bé đến không trọng lượng của cô sẽ biến mất. Anh không biết tại sao sự hiện diện của cô lại làm cho anh thú nhận những điều mà anh không thú nhận cả với chính mình. Anh không biết tại sao cái thắng lợi mà anh định mang đến đây để khoe khoang lại hoàn toàn tan biến. Nhưng điều đó chẳng sao cả. Anh có cảm giác kỳ lạ về sự tự do (sự hiện diện của cô luôn xóa bỏ cho anh một áp lực mà anh không thể định nghĩa nổi): anh một mình – anh là chính mình. Giờ đây điều duy nhất có ý nghĩa đối với anh là cảm giác về cái váy sợi bông thô ráp của cô đang cọ cọ vào cổ tay anh.
Sau đó anh hỏi cô về cuộc sống của cô ở New York và cô vui vẻ kể về người chú của cô.
“Chú ấy thật tuyệt vời, Peter à. Chú ấy thật sự tuyệt vời. Chú ấy rất nghèo, nhưng chú ấy đã nhận nuôi em và chú ấy tốt bụng đến nỗi đã nhường phòng đọc sách của chú ấy cho em và giờ thì chú phải làm việc ở đây, trong phòng khách này. Anh phải gặp chú ấy, Peter ạ. Hiện giờ chú ấy đang đi xa, một chuyến giảng bài ở các nơi, nhưng anh phải gặp chú ấy nhé, khi chú ấy quay về.”
“Tất nhiên rồi, anh rất muốn.”
“Anh biết không, em từng muốn đi làm và tự lập nhưng chú ấy không để em làm vậy. ‘Cháu yêu của chú,’ chú ấy nói, ‘không phải ở tuổi mười bảy. Cháu không muốn làm cho chú thấy xấu hổ vì mình đấy chứ? Chú không ủng hộ chuyện trẻ con đi làm’. Thật là một ý nghĩ thú vị, phải không anh? Chú ấy có rất nhiều ý tưởng thú vị – em không hiểu hết chúng, nhưng mọi người nói rằng chú ấy là một người cực giỏi. Chú ấy làm như thể em giúp chú bằng cách để chú trông nom em; em thì nghĩ rằng chú ấy thật tốt khi làm thế.”
“Thế em làm gì suốt cả ngày?”
“Lúc này thì chẳng có gì mấy. Em đọc sách. Về kiến trúc. Chú em có hàng đống sách về kiến trúc. Nhưng khi chú ở đây thì em đánh máy các bài giảng cho chú ấy. Em thực sự không nghĩ rằng chú thích em làm như vậy, chú thích người đánh máy của chú hơn, nhưng em thích làm việc này và chú để em làm. Và chú trả cho em số tiền lương của cô ấy. Em không muốn nhận nhưng chú buộc em phải nhận.”
“Thế chú em làm gì để kiếm sống?”
“Ồ, nhiều việc lắm, em không biết nữa, em không biết hết được. Chú ấy dạy lịch sử nghệ thuật – đấy là một việc; hình như chú là giáo sư.”
“À thế khi nào em sẽ đi học đại học?”
“À,… thật ra thì…, anh biết không, em không nghĩ là chú em sẽ đồng ý chuyện này. Em đã nói với chú rằng em luôn có kế hoạch đi học và em muốn tự lập theo cách của em nhưng hình như chú ấy nghĩ rằng việc đó không phải là dành cho em. Chú chẳng nói gì nhiều, chỉ là: ‘Chúa làm ra con voi để làm việc và con muỗi để bay loăng quăng; người ta không nên làm trái với quy luật tự nhiên; tuy nhiên, nếu cháu muốn thử thì, cháu yêu của chú…’ Nhưng chú ấy không thực sự phản đối, điều đó tùy thuộc vào em, chỉ là…”
“Nào, em đừng để chú ấy ngăn cản em.”
“Ồ, chú ấy không muốn cản em đâu. Chỉ là, em đang nghĩ, em chưa bao giờ đạt kết quả cao khi học trung học và, anh biết đấy, môn toán của em thực sự rất tồi và do đó em băn khoăn… nhưng mà, cũng chẳng cần phải vội, em có rất nhiều thời gian để quyết định chuyện này.”
“Nghe này, Katie, anh không thích như thế đâu. Em luôn có kế hoạch đi học đại học. Nếu ông chú quý hóa của em…”
“Anh không nên nói như vậy. Anh không biết chú ấy. Chú ấy là người đàn ông tuyệt vời nhất đấy. Em chưa từng gặp ai giống như chú ấy. Chú ấy vô cùng tốt bụng, vô cùng thân thiện. Và chú ấy rất hài hước, lúc nào cũng nói đùa, chú ấy rất giỏi chuyện này; những thứ mà anh nghĩ là nghiêm trọng dường như không còn nghiêm trọng khi có chú ấy; trong khi thực ra chú ấy là người rất nghiêm túc. Anh biết đấy, chú dành hàng giờ nói chuyện với em, chú không hề biết mệt mỏi và chú không thấy chán ngán vì sự ngu xuẩn của em, chú kể cho em mọi chuyện về các cuộc đình công và điều kiện sống ở những căn nhà ổ chuột và những người nghèo trong các nhà máy, luôn luôn là về những người khác mà chẳng bao giờ về bản thân chú cả. Một người bạn của chú ấy có nói với em rằng chú ấy có thể là một người rất giàu có nếu chú muốn vì chú rất giỏi, nhưng chú sẽ không làm vậy; chú ấy không quan tâm đến tiền.”
“Chẳng có người nào như vậy.”
“Hãy chờ cho đến khi anh gặp chú ấy. À mà chú ấy cũng muốn gặp anh đấy. Em đã kể về anh cho chú ấy. Chú ấy gọi anh là chàng Romeo thước kẻ[32].
“Thế à, ông ấy nói thế à?”
“Nhưng anh không hiểu rồi. Chú ấy có ý tốt thôi. Chú ấy hay nói kiểu thế về mọi thứ. Chú ấy và anh sẽ có nhiều điểm chung đấy. Có thể chú ấy sẽ giúp được anh. Chú ấy cũng biết đôi chút về kiến trúc. Anh sẽ quý chú Ellsworth.”
“Ai?” Keating hỏi.
“Chú em ấy mà.”
“Em nói lại đi,” Keating hỏi, giọng anh hơi khàn đi – “tên chú em là gì?”
“Ellsworth Toohey. Sao ạ?”
Đôi bàn tay anh rơi thõng xuống. Anh ngồi nhìn cô trân trối.
“Có chuyện gì vậy, Peter?”
Anh nuốt nước bọt. Cô nhìn thấy cổ họng anh giật lên. Rồi anh nói, giọng đanh lại:
“Nghe này, Katie, anh không muốn gặp chú em.”
“Nhưng tại sao?”
“Anh không muốn gặp chú ấy. Không phải là thông qua em… Em biết đấy, Katie, em không biết anh. Anh là loại người chuyên lợi dụng người khác. Anh không muốn lợi dụng em. Không bao giờ. Đừng để anh làm vậy. Không phải với em.”
“Lợi dụng em thế nào? Có chuyện gì vậy? Tại sao?”
“Là thế này: Anh sẽ bán tháo bản thân để được gặp Ellsworth Toohey – thế đấy.” Anh cười cay nghiệt. “Em nói ông ấy biết đôi chút về kiến trúc, phải không? Đồ ngốc! Ông ấy là nhân vật quan trọng nhất trong ngành kiến trúc. Có lẽ giờ thì chưa phải nhưng ông ấy sẽ, chỉ một vài năm nữa – hỏi Francon ấy, con chồn già ấy biết đấy. Ông ấy đang trên đường trở thành Napoleon của tất cả những nhà phê bình kiến trúc, chú Ellsworth của em ấy, đấy rồi em xem. Thứ nhất, không có nhiều người quan tâm đến việc viết về nghề nghiệp của bọn anh, do vậy ông ấy là người thông minh khi đón đầu được thị trường. Em phải xem các sếp trong văn phòng anh ngồi nghiền ngẫm từng dấu phẩy mà ông ấy viết. Em nghĩ ông ấy có thể giúp anh ư? Thực lòng, ông ấy có thể đẻ ra anh và ông ấy sẽ; anh sẽ gặp ông ấy một ngày nào đó khi anh sẵn sàng gặp ông ấy, như là anh đã gặp Francon, nhưng không phải ở đây, không phải là thông qua em. Em hiểu không? Không phải là qua em!”
“Nhưng, Peter, sao lại không?”
“Vì anh không muốn như thế! Vì như thế thật kinh tởm và anh ghét nó, anh ghét tất – cả công việc của anh, cả cái ngành kiến trúc của anh, cả những gì anh đang làm lẫn những gì anh sẽ làm! Anh muốn em tránh xa chuyện này ra. Em là tất cả những gì mà anh thực sự có. Katie, em phải tránh xa ra!”
“Xa cái gì cơ?”
“Anh không biết!”
Cô nhỏm dậy và đứng trong vòng tay anh, mặt anh khuất ngang hông cô; cô vừa vuốt mái tóc anh vừa cúi xuống nhìn anh.
“Được rồi, Peter. Em nghĩ là em hiểu. Anh không phải gặp chú ấy cho đến khi anh muốn. Chỉ cần nói với em khi nào anh muốn gặp chú ấy thôi. Anh có thể lợi dụng em nếu anh cần phải làm vậy. Không sao đâu. Nó sẽ chẳng làm thay đổi bất kỳ cái gì.”
Khi anh ngẩng đầu lên, cô đang cười khẽ
“Anh đã làm việc vất vả quá, Peter à. Anh mệt mỏi rồi. Em pha cho anh một tách trà nhé?”
“Ừ, anh quên mất, tối nay anh đã không ăn tối. Không có thời gian.”
“Chà, anh thế đấy, quên cái gì chứ lại quên ăn tối! Thật là tồi tệ kinh khủng! Đi vào bếp ngay, để em xem có thể làm cho anh cái gì ăn được!”
Anh rời khỏi nhà cô hai tiếng sau đó và anh bước đi với cảm giác nhẹ nhõm, sạch sẽ, hạnh phúc, mọi sợ hãi đã bị lãng quên, cả Toohey và Francon cũng bị lãng quên. Anh chỉ nghĩ đến việc anh đã hứa sẽ quay lại vào ngày mai và đó là một khoảng thời gian chờ đợi dài đến mức không chịu nổi. Cô vẫn đứng ở cửa ra vào, sau khi anh đã đi, bàn tay cô đặt trên nắm đấm cửa mà anh đã chạm vào và cô nghĩ rằng anh có thể đến vào ngày mai – hoặc sau ba tháng nữa.
*
* *
“Tối nay, khi cậu xong việc” Henry Cameron nói, “tôi muốn gặp cậu trong văn phòng của tôi.”
“Vâng,” Roark trả lời.
Cameron quay gót đột ngột và đi ra khỏi phòng thiết kế. Đó là câu nói dài nhất mà ông nói với Roark trong một tháng qua.
Roark đã đến căn phòng này mỗi buổi sáng, làm công việc của mình và không nghe thấy bất kỳ lời bình luận nào. Cameron sẽ bước vào phòng thiết kế và đứng sau lưng Roark, nhìn qua vai anh một lúc lâu. Cứ như thể ông đang chủ ý dùng sức tập trung của đôi mắt để đẩy cái bàn tay đang đều đặn vẽ ra khỏi mặt giấy. Hai nhân viên thiết kế còn lại hẳn sẽ không thể vẽ, dù họ chỉ cần tưởng tượng Cameron đứng đằng sau họ. Roark thì dường như không hề bận tâm đến chuyện đó. Anh tiếp tục vẽ, bàn tay anh không hề vội vã; anh nhẩn nha vứt cái bút chì đã cùn đi và cầm một cái khác lên. “Ừ, hừm,” Cameron sẽ đột ngột gầm gừ. Lúc ấy, Roark sẽ quay đầu lại, chăm chú một cách lịch sự. “Có chuyện gì vậy?” anh sẽ hỏi. Cameron sẽ quay ra mà không nói lời nào, đôi mắt nheo nheo khinh khỉnh của ông thể hiện rằng việc trả lời là không cần thiết; ông cứ thế rời khỏi phòng thiết kế. Roark lại sẽ tiếp tục với bản vẽ của mình.
“Tình hình có vẻ gay đây.” Loomis, anh chàng vẽ thiết kế trẻ tuổi thì thầm với Simpson, người đồng nghiệp già của mình. “Bố già không thích anh ta. Cháu không nghĩ lỗi hoàn toàn tại anh ta. Rồi anh ta sẽ không ở đây lâu đâu.”
Simpson đã già yếu và vô dụng; ông ta đã sống sót từ thời Cameron có văn phòng chiếm cả ba tầng lầu; ông vẫn trụ lại với Cameron mà không hiểu tại sao. Loomis còn trẻ, với khuôn mặt của một kẻ bán tạp hóa thô kệch; anh ta ở đây vì anh ta đã bị nhiều nơi khác sa thải.
Cả hai đều không thích Roark. Anh thường không được ưa thích, ngay từ cái nhìn đầu tiên, ở bất kỳ nơi nào mà anh đến. Khuôn mặt anh khép kín như cửa ra vào một cái két an toàn; những thứ được khóa trong các két an toàn đều có giá trị; nhưng chẳng ai buồn để ý đến điều này. Anh lạnh lùng, lặng lẽ khi có mặt trong phòng; sự hiện diện của anh có một tính chất kỳ lạ: nó vừa làm cho người ta biết về sự hiện diện ấy, lại vừa làm cho người ta cảm thấy anh không có ở đó; hoặc có lẽ là anh ở đó còn họ thì không.
Sau giờ làm, anh đi bộ một quãng đường dài để về nhà – một chung cư gần sông Đông. Anh đã chọn chung cư đó vì, với 2 đô la và 50 xu, người ta để cho anh sử dụng toàn bộ tầng áp mái – một căn phòng khổng lồ từng được dùng để chứa đồ: nó không có trần và các khe hở giữa các xà nhà tạo thành những chỗ dột trên mái. Nhưng nó có một hàng cửa sổ dài dọc theo hai bên tường, một số ô cửa được lắp kính, một số khác thì được chèn bằng bìa các tông và các cửa sổ nhìn xuống một bên là dòng sông còn bên kia là thành phố.
Cách đây một tuần Cameron đã vào phòng thiết kế và ném lên bàn của Roark một bản phác thảo thô về một biệt thự ở nông thôn. “Xem cậu có thể làm được một ngôi nhà từ cái này không!” ông nói giật giọng rồi biến mất mà không giải thích gì thêm. Ông đã không đến gần bàn vẽ của Roark trong những ngày tiếp theo. Tối qua, Roark đã hoàn thành các bản vẽ và để chúng trên bàn của Cameron. Sáng hôm nay, Cameron đi vào, ném cho Roark một số phác thảo các kết cấu cốt thép, ra lệnh cho anh có mặt ở văn phòng của ông sau giờ làm việc. Ông không bước vào phòng thiết kế từ lúc đó cho đến hết ngày.
Những người khác đã về hết. Roark cầm lên một tấm vải dầu cũ phủ lên bàn làm việc của mình và đi vào phòng của Cameron. Các bản vẽ biệt thự nông thôn của anh được trải rộng trên bàn làm việc. Ánh sáng của ngọn đèn chiếu lên má của Cameron và trên bộ râu quai nón của ông khiến những sợi râu màu trắng ánh lên. Ánh sáng rọi vào nắm tay ông và vào một góc của bản vẽ – những nét chì đen trên bản vẽ sáng lên và rắn rỏi như thể được khắc lên giấy.
“Cậu đã bị sa thải,” Cameron nói.
Roark đứng ở giữa phòng, trọng lượng cơ thể anh dồn lên một chân, hai cánh tay buông lỏng theo người, một bên vai nhô lên.
“Tôi ấy à?” anh hỏi khẽ, người bất động.
“Lại đây” Cameron nói. “Ngồi xuống.”
Roark tuân theo.
“Cậu quá giỏi,” Cameron nói. “Cậu quá giỏi đối với những thứ mà cậu muốn làm với bản thân mình. Chẳng có ích gì đâu, Roark ạ. Bây giờ sẽ tốt hơn là để quá muộn.”
“Ý ông là sao?’
“Chẳng có ích gì khi phí phạm những cái mà cậu có cho một lý tưởng mà cậu sẽ không bao giờ đạt được, và họ sẽ không bao giờ để cho cậu đạt được. Chẳng có ích gì khi đem cái tài năng tuyệt vời mà cậu có đó ra để làm ra một cái giá tra tấn cho chính cậu đi. Bán nó đi, Roark. Bán đi, ngay bây giờ. Dĩ nhiên là nó sẽ khác, nhưng cậu có đủ. Cậu có cái mà họ sẽ trả tiền, và trả rất nhiều tiền, nếu cậu sử dụng nó theo cách của họ. Chấp nhận bọn họ, Roark. Hãy thỏa hiệp. Thỏa hiệp ngay bây giờ, vì rồi đằng nào cậu cũng sẽ phải làm như vậy; chỉ có điều là lúc ấy thì cậu đã trải qua quá nhiều chuyện mà cậu ước cậu không phải trải qua. Cậu không biết. Tôi thì biết. Hãy cứu bản thân cậu khỏi điều đó. Hãy bỏ tôi. Đến làm cho người khác đi.”
“Ông có làm thế không?”
“Cậu là đồ kiêu căng chết dẫm! Cậu cho rằng tôi nghĩ cậu giỏi như ai? Tôi có bảo cậu so sánh bản thân cậu với…” Ông ngừng lời vì ông thấy Roark đang mỉm cười.
Ông nhìn Roark và bất chợt mỉm cười thay cho câu trả lời – đấy là nụ cười đau đớn nhất Roark từng thấy.
“Không, hử,” Cameron nói khẽ “nói thế không có tác dụng, hử? Không, sẽ không có tác dụng gì… Thôi được, cậu đã đúng. Cậu giỏi đúng như cậu nghĩ. Nhưng tôi muốn nói chuyện với cậu. Tôi không biết chính xác phải nói thế nào. Tôi đã mất thói quen nói chuyện với những người như cậu. Mà mất à? Có lẽ tôi chưa từng có thói quen ấy. Có lẽ điều này đang làm tôi thấy sợ. Cậu sẽ cố gắng hiểu tôi chứ?”
“Tôi hiểu. Tôi nghĩ là ông đang phí thời gian.”
“Đừng thô lỗ thế. Vì tôi không thể thô lỗ với cậu vào lúc này. Tôi muốn cậu lắng nghe. Cậu có thể lắng nghe và không trả lời tôi không?”
“Có. Tôi xin lỗi. Tôi không có ý thô lỗ.”
“Cậu thấy đấy, trong tất cả mọi người, đáng lẽ tôi phải là người cuối cùng mà cậu nên gặp. Tôi sẽ phạm tội nếu tôi giữ cậu ở đây. Lẽ ra phải có ai đó cảnh báo với cậu về tôi. Tôi sẽ không giúp được cậu một tí nào. Vì tôi sẽ không ngăn cản cậu. Tôi sẽ không dạy cậu những lý lẽ thông thường. Thay vào đó tôi sẽ ép cậu. Tôi sẽ bắt cậu theo đuổi con đường mà cậu đang đi. Tôi sẽ bắt cậu cứ là chính cậu như bây giờ; và tôi sẽ làm cho cậu tồi tệ hơn nữa… Cậu không thấy à? Trong một tháng nữa, tôi sẽ không thể để cậu đi. Tôi không chắc hiện giờ tôi có thể. Thế nên, đừng tranh cãi với tôi; đi đi. Đi đi khi cậu còn có thể.”
“Nhưng tôi có thể đi sao? Ông không nghĩ là đã quá muộn đối với cả hai chúng ta sao? Đối với tôi thì đã quá muộn từ cách đây mười hai năm rồi.”
“Hãy cố, Roark. Hãy cố gắng suy nghĩ hợp lý một lần xem nào. Có rất nhiều kẻ nổi tiếng sẵn sàng nhận cậu, dù cậu có bị đuổi học hay không, nếu tôi giới thiệu cậu. Họ có thể cười nhạo tôi trong lúc tào lao vào giờ ăn trưa, nhưng họ ăn cắp của tôi khi cần, và họ biết tôi luôn nhận ra người làm thiết kế giỏi. Tôi sẽ viết thư giới thiệu cậu với Guy Francon. Hắn từng làm việc cho tôi một lần, lâu lắm rồi. Tôi nghĩ là tôi đã sa thải hắn nhưng điều đó chẳng sao cả. Đến chỗ hắn làm đi. Ban đầu cậu sẽ không thích đâu, nhưng rồi cậu sẽ quen. Và nhiều năm nữa, cậu sẽ cảm ơn tôi vì điều này.”
“Tại sao ông lại nói với tôi những chuyện này? Ông đâu muốn nói những chuyện này. Ông cũng đâu có làm những chuyện này.”
“Đó chính là lý do tại sao tôi đang nói! Bởi vì tôi đã không làm những chuyện đó!… Nghe này, Roark, có một điều về cậu, điều mà tôi sợ. Nó không chỉ là loại công việc mà cậu làm; tôi sẽ không bận tâm nếu như cậu lại là một kẻ khoa trương khác người, giống như những kẻ làm ra vẻ khác người chỉ để hù dọa hay để bỡn cợt, để thu hút sự chú ý về mình. Cái trò đấy là một trò khôn – giả vờ làm khác đám đông đi, để họ tò mò, rồi thu tiền vé vào cửa. Nếu cậu làm như vậy, thì tôi không lo lắm. Nhưng mà không phải thế. Cậu say mê công việc của cậu! Chúa phù hộ cho cậu, cậu say mê công việc của cậu! Và đấy là một lời nguyền. Nó là cái mác dán trên trán cậu mà tất cả mọi người đều thấy. Cậu yêu công việc của cậu và họ biết điều này, và họ biết rằng họ tóm được cậu. Cậu có bao giờ nhìn những người trên phố không? Cậu có sợ họ không? Tôi thì sợ. Họ đi lướt qua cậu; họ đội mũ và mang vác lỉnh kỉnh. Nhưng đó không phải là vật chất tạo nên họ. Cái tạo nên họ là sự căm thù với bất kỳ người nào say mê công việc của anh ta. Đó là loại người mà họ sợ. Tôi không biết tại sao. Roark, cậu đang mở toang bản thân cậu cho bọn họ thấy.”
“Nhưng tôi chẳng bao giờ nhận thấy những người đi trên phố.”
“Thế cậu có nhận thấy điều mà họ đã làm với tôi không?”
“Tôi chỉ thấy rằng ông không sợ họ. Tại sao ông lại yêu cầu tôi phải sợ?”
“Đấy chính là lý do tại sao tôi yêu cầu cậu!” Ông vươn người về phía trước, các nắm tay khép trên bàn trước mặt ông. “Roark, cậu có muốn tôi nói toẹt ra không? Cậu thật độc ác. Được rồi, tôi sẽ nói: cậu có muốn có kết cục như thế này không? Cậu có muốn trở thành người như tôi không?”
Roark đứng dậy; người anh che mất một phần ánh sáng chiếu lên bàn. Roark nói:
“Nếu vào lúc cuối đời, tôi trở thành người như ông vào lúc này, tại đây, trong văn phòng này, thì tôi sẽ coi nó như một vinh dự mà tôi lẽ ra không xứng đáng.”
“Ngồi xuống!” Cameron gầm lên. “Tôi không thích những trò tuồng!”
Roark nhìn xuống người mình, rồi nhìn xuống bàn, và ngạc nhiên thấy mình đang đứng. Anh nói: “Tôi xin lỗi. Tôi không biết là tôi đã đứng lên.”
“Thôi được, ngồi xuống. Nghe này. Tôi hiểu. Và cậu đã rất tử tế. Nhưng cậu không biết. Tôi tưởng rằng một vài ngày ở đây là đủ để lấy đi sự sùng bái người hùng trong cậu. Tôi nhận thấy là không được. Bây giờ, cậu đang tự nhủ rằng ông già Cameron thật vĩ đại, ông ta là một chiến binh cao quý, một kẻ dám chết cho một sự nghiệp đã mất; và cậu muốn được chết trên chiến hào với tôi, muốn ăn trong các toa xe ăn trưa tối tăm cùng với tôi cho đến hết đời. Tôi biết, bây giờ mọi thứ trông thánh thiện và tuyệt đẹp đối với cậu, ở cái tuổi 22 vĩ đại của cậu. Nhưng cậu có biết nó thực sự thế nào không? Ba mươi năm cho một sự nghiệp đã mất, nghe thật tuyệt vời phải không? Nhưng cậu có biết ba mươi năm có bao nhiêu ngày không? Cậu có biết điều gì xảy ra trong những ngày đó không? Roark! Cậu có biết điều gì xảy ra không?”
“Ông không muốn nói về điều đó.”
“Không! Tôi không muốn nói về điều đó! Nhưng tôi sẽ nói. Tôi muốn cậu nghe. Tôi muốn cậu biết những cái sắp đến với cậu. Sẽ có những ngày cậu nhìn đôi bàn tay mình và cậu muốn cầm lấy một cái gì đó để nghiền nát mọi cái xương bên trong, vì chúng sẽ khiêu khích cậu bởi những cái chúng có thể làm, nếu cậu tìm được một cơ hội cho chúng làm; nhưng cậu lại không có một cơ hội như thế và cậu không thể chịu đựng nổi chính cơ thể sống của cậu bởi vì cái cơ thể sống ấy đã lừa dối đôi tay cậu. Sẽ có những ngày mà người lái xe buýt tóm lấy cậu khi cậu lên xe và anh ta chỉ đòi có mười xu, nhưng đó sẽ không phải là điều mà cậu nghe được; cậu sẽ nghe được rằng cậu chẳng là cái gì cả, cậu sẽ thấy anh ta cười nhạo cậu, cậu sẽ cảm thấy trán cậu in rành rành cái điều mà người ta căm ghét cậu. Sẽ có những ngày mà cậu đứng trong góc của một hội trường và lắng nghe một sinh vật trên diễn đàn nói về các tòa nhà, về cái công việc mà cậu yêu thích và những điều hắn nói sẽ khiến cậu mong một người nào đó sẽ đứng lên và dùng hai ngón tay cái bóp nát hắn ra; nhưng rồi cậu sẽ chỉ nghe mọi người vỗ tay tán thưởng hắn và cậu sẽ muốn gào lên, bởi vì cậu không hiểu họ hay cậu mới là có thực, liệu có phải cậu đang ở trong một căn phòng đầy những cái sọ rỗng tuếch, hay là ai đó đã tẩy rỗng đầu óc cậu; và rồi cậu sẽ chẳng nói gì vì những âm thanh mà cậu phát ra – chúng không phải là ngôn ngữ của căn phòng đó; nhưng kể cả nếu cậu muốn nói, thì cậu cũng sẽ không nói được bởi vì người ta sẽ đẩy cậu ra rìa, vì cậu chẳng có gì để nói với họ về các tòa nhà! Đó có phải là điều cậu muốn không?”
Roark ngồi yên, ánh điện đổ những cái bóng gồ ghề trên mặt anh – một vệt đen hình chữ V trên cái má hõm sâu, một hình tam giác dài màu đen cắt ngang cằm anh và ánh mắt anh hướng về Cameron.
“Chưa đủ hả?” Cameron hỏi. “Thôi được. Rồi một ngày nào đó cậu sẽ thấy trên một mảnh giấy trước mặt cậu một tòa nhà sẽ làm cậu muốn quỳ xuống; cậu sẽ không tin rằng cậu đã làm ra nó, nhưng cậu đã làm ra nó; rồi cậu sẽ nghĩ rằng trái đất đẹp tuyệt và không khí tràn đầy hương vị của mùa xuân và cậu yêu tất cả mọi người vì chẳng có ác quỷ nào trên thế giới này. Và cậu sẽ khởi hành từ ngôi nhà của cậu với bản vẽ này, để xin được xây nó, vì cậu sẽ không hề nghi ngờ rằng người đầu tiên nhìn thấy nó sẽ cho xây nó. Nhưng cậu sẽ không đi xa khỏi ngôi nhà của cậu. Vì cậu sẽ bị chặn lại ở cửa ra vào bởi một người đến để tắt khóa gas. Cậu không có nhiều đồ ăn vì cậu đã dành dụm tiền để hoàn thành bản thiết kế, nhưng cậu vẫn phải nấu nướng một cái gì đó và cậu đã không trả tiền gas… Tất nhiên, chuyện đó chẳng là cái gì cả, cậu có thể cười nhạo vào điều đó. Nhưng cuối cùng cậu sẽ đến văn phòng của một người với bản thiết kế của cậu và cậu sẽ nguyền rủa bản thân vì thân thể cậu đã chiếm dụng quá nhiều khoảng không của ông ta và cậu sẽ cố thu mình khuất khỏi tầm mắt của ông ta để ông ta chỉ nghe thấy giọng nói khẩn khoản, cầu xin của cậu, giọng cậu liếm vào đầu gối của ông ta; cậu sẽ ghê tởm chính bản thân mình vì điều đó, nhưng cậu không quan tâm, chỉ cần ông ta để cho cậu xây dựng tòa nhà đó thì cậu sẽ không quan tâm, cậu sẽ muốn xé toang lục phủ ngũ tạng của cậu để bày ra cho ông ta xem vì nếu ông ta nhìn thấy chúng thì ông ta sẽ để cho cậu xây dựng tòa nhà này. Nhưng ông ta sẽ nói rằng ông ta rất xin lỗi, chỉ vì việc thiết kế đã được giao cho Guy Francon rồi. Và cậu sẽ đi về nhà và cậu có biết cậu sẽ làm gì ở đó không? Cậu sẽ khóc. Cậu sẽ khóc như một mụ đàn bà, như một kẻ nát rượu, như một con thú. Đó là tương lai của cậu, Howard Roark. Giờ thì cậu có muốn điều đó không?”
“Có,” Roark trả lời.
Đôi mắt của Cameron cụp xuống; rồi đầu ông hơi cúi xuống, rồi cúi thêm chút nữa; đầu ông cúi xuống một cách chậm rãi với những cái gật đầu dài và giật cục rồi ngừng lại; ông ngồi lặng yên, hai vai ông căng lên, hai cánh tay khoanh lại trong lòng.
“Howard” – Cameron thì thầm – “Tôi chưa từng nói điều này với bất kỳ ai…”
“Cảm ơn ông…” Roark nói.
Một lúc lâu sau, Cameron ngẩng đầu lên.
“Giờ thì về nhà đi,” Cameron nói với giọng bình thản. “Gần đây cậu đã làm việc quá nhiều. Và cậu sẽ có một ngày vất vả.” Ông chỉ vào bản vẽ cái biệt thự ở nông thôn. “Đây là bản thiết kế tốt và tôi đã muốn xem cậu thiết kế, nhưng nó chưa đủ tốt để có thể xây. Cậu sẽ phải làm lại nó. Tôi sẽ chỉ cho cậu cái mà tôi muốn vào ngày mai.”