“Và nó sẽ đứng ở đó, như một tượng đài chẳng để tôn vinh cái gì ngoài cái tôi của ông Enright và ông Roark. Nó sẽ đứng giữa một bên là một dãy nhà chung cư bằng đá nâu và bên kia là những thùng chứa của một trạm xăng. Điều này, có lẽ, không phải là một sự tình cờ, mà là bằng chứng về khả năng sắp đặt của tạo hóa. Không một sự sắp đặt nào khác có thể phô ra bản chất ngạo mạn của tòa nhà này một cách hùng hồn như thế. Nó sẽ mọc lên như một sự nhạo báng đối với tất cả các công trình của thành phố và đối với những người đã xây chúng. Các công trình của chúng ta là vô nghĩa và sai trái; tòa nhà này sẽ khiến sự vô nghĩa và sai trái càng nổi bật. Có điều, sự tương phản ở đây không có lợi cho tòa nhà Enright. Bằng cách tạo nên sự tương phản, nó sẽ tự biến nó trở thành một phần của cái tổng thể vô lý to lớn, thậm chí trở thành phần lố bịch nhất trong cái tổng thể ấy. Nếu một tia sáng lọt vào một chuồng lợn, chính tia sáng đó sẽ chỉ cho chúng ta sự bẩn thỉu và cũng chính tia sáng đó sẽ trở thành lố bịch. Các công trình của chúng ta có lợi thế to lớn về mặt tăm tối và nhút nhát. Ngoài ra, chúng còn phù hợp với chúng ta. Tòa nhà Enright thì sáng sủa và táo tợn. Vì thế nó như là một chiếc khăn quàng bằng lông. Nó sẽ thu hút sự chú ý – nhưng chỉ là chú ý đến sự tự phụ hết sức ngang nhiên của ông Roark mà thôi. Khi tòa nhà này được xây dựng xong, nó sẽ là một vết thương trên bộ mặt của thành phố chúng ta. Thậm chí là một vết thương sặc sỡ.”
Đoạn này xuất hiện trong mục Ngôi nhà của bạn do Dominique Francon viết, một tuần sau bữa tiệc ở nhà Kiki Holcombe.
Vào buổi sáng nó xuất hiện, Ellsworth Toohey bước vào văn phòng của Dominique. Ông cầm một bản của tờ Ngọn cờ – chìa trang báo có mục của cô về phía cô. Ông im lặng, hơi đung đưa người trên đôi bàn chân nhỏ bé của mình. Dường như đôi mắt ông đang nói chứ không phải đang nhìn: nó đang phá ra cười. Đôi môi ông mím lại với vẻ đức hạnh, vô tư.
“Sao?” cô hỏi.
“Cô gặp Roark ở đâu trước bữa tiệc đó?”
Cô ngồi nhìn ông, một cánh tay cô vắt qua lưng ghế, những đầu ngón tay lỏng lẻo đung đưa một chiếc bút chì. Cô dường như đang mỉm cười. Cô nói:
“Tôi chưa bao giờ gặp Roark trước bữa tiệc cả.”
“Tôi nhầm. Tôi chỉ đang băn khoăn về…” ông vo cho tờ báo kêu sột soạt, “… sự thay đổi thái độ.”
“À, cái đó? Tôi đã không ưa anh ta khi tôi gặp anh ta – ở bữa tiệc.”
“Tôi đã nhận thấy thế.”
“Mời ông ngồi, Ellsworth. Trông ông không phong độ lắm khi đứng đâu.”
“Cô có phiền không? Không bận chứ?”
“Không hẳn.”
Ông ngồi xuống góc bàn của cô. Ông trầm ngâm vỗ nhẹ tờ báo đã được gấp lại lên đầu gối mình.
“Cô biết không, Dominique,” ông nói, “không ổn đâu. Không ổn chút nào cả.”
“Vì sao?”
“Cô không thấy người ta có thể suy ra điều gì à? Tất nhiên, không mấy người sẽ nhận ra điều đó. Nhưng anh ta sẽ. Tôi thì đã.”
“Nó không được viết cho anh ta hay cho ông.”
“Mà cho những người khác?”
“Cho những người khác.”
“Vậy thì đó là trò đùa tồi tệ với anh ta và với tôi.”
“Ông thấy chưa? Tôi đã biết là nó rất ổn.”
“Dào, ai cũng có mánh của mình.”
“Ông định viết gì về nó?”
“Nó nào?”
“Về tòa nhà Enright.”
“Không gì cả.”
“Không gì cả?”
“Không gì cả.”
Ông ném tờ báo lên chiếc bàn mà không hề cử động người, chỉ bật cổ tay về phía trước. Ông nói:
“Đứng về kiến trúc, Dominique, tại sao cô chưa từng viết bất kỳ điều gì về tòa nhà Cosmo-Slotnick?”
“Nó có đáng để viết không?”
“À, chắc chắn rồi. Có những người sẽ rất phiền lòng về điều đó.”
“Và những người này đáng để ta bận tâm?”
“Có vẻ như thế đấy.”
“Những người nào?”
“Ồ, tôi không biết. Làm sao chúng ta biết được ai đã đọc những bài báo của chúng ta cơ chứ? Đó chính là cái làm cho mọi việc thú vị. Tất cả những người lạ mặt mà chúng ta chưa hề gặp, chưa hề nói chuyện, hay không thể nói chuyện với – và với tờ báo này họ có thể biết được câu trả lời của chúng ta nếu chúng ta muốn đưa ra lời giải đáp. Tôi thực sự nghĩ là cô nên nhanh chóng viết vài lời ca tụng tòa nhà Cosmo-Slotnick.”
“Ông có vẻ rất thích Peter Keating.”
“Tôi á? Tôi cực kỳ thích cậu ấy. Rồi cô cũng sẽ thế thôi – nếu như cô biết cậu ấy rõ hơn. Biết Peter là một việc rất có ích. Tại sao cô không bớt chút thời gian, một hôm nào đấy, và bảo cậu ấy kể cho cô nghe về cuộc đời cậu ấy. Cô sẽ học được nhiều điều thú vị đấy.”
“Ví dụ?”
“Ví dụ chuyện cậu ấy đã học ở Stanton.”
“Chuyện đấy thì tôi biết.”
“Cô không nghĩ đó là một chuyện thú vị sao? Tôi thì nghĩ thế. Một nơi tuyệt diệu – Stanton ấy. Một ví dụ điển hình của kiến trúc Gothic. Cửa sổ kính màu ở nhà thờ của trường này thực sự là một trong những kiểu đẹp nhất đất nước này. Và hãy thử nghĩ xem, rất nhiều những sinh viên trẻ. Rất khác nhau. Có những người tốt nghiệp loại ưu. Có người thì bị đuổi học.”
“Rồi sao?”
“Cô có biết Peter Keating là bạn cũ của Howard Roark không?”
“Không. Anh ta là bạn cũ?”
“Anh ta là bạn cũ!”
“Peter Keating là bạn cũ của tất cả mọi người.”
“Chính xác. Một chàng trai nổi bật. Nhưng chuyện này thì khác. Cô không biết là Roark học ở Stanton đúng không?”
“Không.”
“Cô có vẻ không biết nhiều về ngài Roark thì phải.”
“Tôi chẳng biết gì về ngài Roark cả. Chúng ta đâu có bàn về ngài Roark.”
“Chúng ta không à? Tất nhiên là không rồi, chúng ta đang nói về Peter Keating. Chà, cô thấy đấy, để thể hiện rõ ý mình thì có lẽ cách tốt nhất là dùng sự đối lập, dùng phép so sánh. Như cô đã làm trong bài viết ngắn rất hay hôm nay đấy. Để đánh giá đúng về Peter, như cậu ấy xứng đáng được hưởng, thì ta hãy lấy một ví dụ. Hãy vẽ hai đường thẳng song song. Tôi đồng ý với Euclid, tôi không nghĩ là hai đường thẳng song song có thể gặp nhau. Cả hai bọn họ đều học ở Stanton. Mẹ của Peter cho thuê nhà trọ và Roark sống với họ khoảng ba năm. Thế cũng chẳng có gì đặc biệt trừ một việc là nó làm cho sự đối lập giữa họ càng rõ rệt và – chà – cá nhân hơn. Peter tốt nghiệp loại ưu, đứng đầu cả khóa còn Roark thì bị đuổi học. Đừng nhìn tôi như thế. Tôi không cần phải giải thích vì sao anh ta bị đuổi học; chúng ta, tôi và cô, đều hiểu điều đó. Peter vào làm cho bố cô và bây giờ cậu ta đã là một đối tác rồi. Roark cũng làm việc cho bố cô nhưng cũng bị đuổi việc rồi. Đúng thế đấy. Nhân tiện, điều này chẳng phải buồn cười sao? – lần đó anh ta đã bị đuổi, mà chẳng cần cô nhúng tay vào. Peter thì có cái nhà Cosmo-Slotnick làm vốn, còn Roark thì có mỗi một cái nhà xúc xích ở Connecticut. Peter thì được người hâm mộ xin chữ ký – còn Roark… thậm chí những người sản xuất thiết bị phòng tắm cũng không biết đến anh ta. Giờ thì Roark nhận được hợp đồng thiết kế một khu nhà chung cư và anh ta tôn thờ nó như đứa con trai độc nhất – còn Peter, giá có được giao thiết kế tòa nhà Enright thì Peter cũng chẳng buồn để ý, ngày nào mà anh ta chẳng nhận những tòa nhà như thế. Nào, tôi nghĩ là Roark chẳng coi công việc của Peter ra cái gì cả. Anh ta chưa bao giờ và sẽ không bao giờ làm thế, dù có chuyện gì xảy ra chăng nữa. Nhưng thử nghĩ thêm một chút mà xem. Chẳng ai muốn bị đánh bại cả. Nhưng bị đánh bại dưới tay một người mà mình luôn coi thường; mình cùng xuất phát với cái kẻ tầm thường đó và rồi chứng kiến nó vượt xa mình trong khi mình thì vật lộn mà vẫn chẳng thu được gì ngoài một cái đạp vào mặt; và phải nhìn cái kẻ tầm thường kia tước đi của mình, cứ lần lượt, từng cơ hội mà mình sẽ đánh đổi cả mạng sống để có được; phải thấy cái tầm thường đó được tôn vinh, thấy mình mất đi cái vị trí mình ao ước và thấy kẻ tầm thường kia ngự ở đó; và để thua cuộc, để bị hy sinh, để bị cho ra rìa, bị đánh bại, rồi lại đánh bại, rồi lại đánh bại – không phải bởi một thiên tài vĩ đại, không phải bởi một vị chúa, mà chính là Peter Keating – chà, cô bạn của tôi, cô có nghĩ rằng Cục điều tra Tây Ban Nha đã từng nghĩ tới hình thức tra tấn nào bằng được như thế này không?”
“Ellsworth!” cô gào lên “Ông cút khỏi đây ngay!”
Cô đã đứng bật dậy. Cô đứng thẳng được trong giây lát, rồi chùng người về phía trước, hai lòng bàn tay cô chống trên mặt bàn, và cô đứng đó, đầu cúi xuống; ông nhìn thấy mớ tóc mềm mại của cô đung đưa nặng nề rồi dừng lại, che mất khuôn mặt cô.
“Kìa Dominique,” ông nói một cách thoải mái “Tôi chỉ đang kể cho cô nghe vì sao Peter Keating lại là một người thú vị đến như vậy.”
Tóc của cô hất mạnh ra sau như một cái giẻ lau nhà, để lộ ra khuôn mặt cô. Cô thả người xuống ghế; cô nhìn ông, miệng cô trễ xuống và trông rất xấu.
“Dominique,” ông nói khẽ, “cô thật lộ liễu. Quá lộ liễu.”
“Ông cút đi.”
“Thế đấy, tôi đã luôn nói là cô đánh giá thấp tôi mà. Lần sau nếu cần giúp đỡ thì cứ gọi tôi nhé.”
Ra đến cửa, ông quay lại nói thêm:
“Tất nhiên, đứng về cá nhân, tôi thấy Peter Keating là kiến trúc sư giỏi nhất mà chúng ta có.”
*
* *
Buổi tối đó, khi cô về tới nhà thì điện thoại reo. “Dominique, cô gái thân mến của tôi”, một giọng nói đứt quãng vì lo lắng trên điện thoại “Em có thực sự có ý đó không đấy?”
“Ai đấy?”
“Joel Sutton. Tôi…”
“Chào anh, Joel. Tôi có thực sự có ý gì cơ?”
“Chào em, em khỏe không? Người cha tuyệt vời của em thế nào? Ý tôi là em thật sự muốn nói tất cả những điều đó về tòa nhà Enright và anh chàng Roark đó? Ý tôi là những gì em nói trong bài báo của em hôm nay ấy. Tôi thấy hơi buồn, rất buồn em ạ. Em biết tòa nhà của tôi đúng không? À, bọn tôi đang chuẩn bị triển khai và nó đáng giá rất nhiều tiền, tôi nghĩ tôi đã suy nghĩ rất cẩn thận trước khi quyết định, nhưng tôi chỉ tin mỗi em thôi, tôi vẫn luôn tin em, em thực sự là một cô bé thông minh, cực kỳ thông minh, nếu em làm việc cho một người như Wynand thì tôi tin là em hiểu rõ về lĩnh vực của mình. Wynand biết các tòa nhà, thì đấy, ông ta kiếm được nhiều tiền từ bất động sản hơn báo chí, chắc chắn là thế, mọi người thì không biết điều này nhưng tôi biết. Và em thì đang làm việc cho ông ta, và giờ thì tôi cũng không biết phải nghĩ thế nào. Bởi vì, em biết đấy, tôi đã quyết định, quyết định dứt khoát và rõ ràng – gần như thế – là sẽ làm việc với cái anh chàng Roark này, thực ra tôi đã nói với anh ta như thế, thực ra thì chiều mai anh ta sẽ tới ký hợp đồng, thế mà bây giờ… Em thực sự nghĩ tòa nhà sẽ giống một cái khăn quàng bằng lông vũ à?”
“Nghe này, Joel,” cô nói, hai hàm răng sít lại “ngày mai anh đi ăn trưa với tôi được không?”
Cô gặp Joel Sutton ở một phòng ăn lớn và vắng vẻ của một khách sạn sang trọng. Chỉ có vài người khách ngồi một mình giữa những chiếc bàn phủ khăn trắng nên trông ai cũng rất nổi bật; những chiếc bàn trống ấy tạo nên một tấm nền trang nhã tôn lên sự độc quyền ngự trị bên bàn của vị khách. Joel cười toe toét. Ông chưa bao giờ đi với một cô gái đẹp như Dominique.
“Anh biết đấy, Joel” cô nói và nhìn thẳng vào ông, giọng rất khẽ, rất nghiêm nghị, không cười, “đó là một ý tưởng tuyệt vời, việc anh chọn Roark ấy.”
“Ồ, em nghĩ thế à?”
“Tôi nghĩ thế. Anh sẽ có một tòa nhà đẹp, giống như một bản thánh ca. Một tòa nhà sẽ làm cho anh choáng váng, cả những người thuê nhà của anh cũng vậy. Một trăm năm nữa người đời sẽ ghi tên anh vào sử sách, và họ sẽ tìm đến ngôi mộ của anh ở ngoài nghĩa trang.”[74]
“Trời ơi, Dominique, em đang nói về cái gì vậy?”
“Về tòa nhà của anh đấy. Về kiểu nhà mà Roark sẽ thiết kế cho anh đấy. Đó sẽ là một tòa nhà vĩ đại Joel ạ.”
“Ý em là một tòa nhà đẹp phải không?”
“Không phải đẹp mà là vĩ đại.”
“Hai điều đó khác nhau đấy em ạ.”
“Đúng thế, Joel, hai điều đó khác nhau.”
“Tôi không thích mấy cái ‘vĩ đại’ đó.”
“Không. Anh không thích. Tôi cũng không nghĩ là anh sẽ thích. Vậy anh muốn gì ở Roark? Anh muốn một tòa nhà sẽ không làm ai ngạc nhiên. Một tòa nhà bình thường, tiện nghi và an toàn, như một phòng khách cổ kính lúc nào cũng đầy mùi súp sò. Một tòa nhà mà mọi người đều thích – tất cả mọi người, bất kể là ai. Làm người hùng cũng không dễ chịu chút nào, Joel, và anh cũng không có tướng của một người hùng đâu.”
“Ừ, tất nhiên tôi muốn có một tòa nhà mà ai cũng thích. Em nghĩ tôi xây nó để làm gì chứ, cho khỏe người chắc?”
“Không, Joel, chẳng cho khỏe người mà cũng chẳng để di dưỡng tinh thần.”
“Ý em là Roark không phải kiến trúc sư tốt?”
Cô ngồi thẳng người và cứng nhắc, như thể tất cả các cơ của cô đều đang co cứng lại để chống chọi với sự đau đớn. Nhưng đôi mắt cô mơ màng, khép hờ, như thể có một bàn tay đang ve vuốt cơ thể cô. Cô nói:
“Anh có nhìn thấy nhiều tòa nhà do anh ta thiết kế không? Anh có thấy nhiều người thuê anh ta không? New York này có sáu triệu người. Sáu triệu người không thể sai được. Đúng không?”
“Tất nhiên là không rồi.”
“Tất nhiên.”
“Nhưng tôi nghĩ Enright…”
“Anh không phải là Enright, Joel ạ. Thứ nhất, ông ấy không hay cười. Thêm nữa, anh thấy đấy, Enright hẳn sẽ không hỏi ý kiến tôi đâu. Anh thì có. Đó chính là điều khiến tôi thích anh.”
“Em thực sự thích tôi à Dominique?”
“Anh không biết anh luôn là một trong những người tôi rất yêu thích sao?”
“Tôi… anh luôn tin tưởng em. Bất cứ khi nào anh cũng tin lời em. Thực sự em nghĩ anh nên làm gì?”
“Đơn giản thôi. Anh muốn thứ tốt nhất mà tiền có thể mua được – trong số những thứ tiền có thể mua được. Anh muốn một tòa nhà sẽ ra một tòa nhà – như nó xứng đáng được như thế. Anh nên tìm một kiến trúc sư mà mọi người đều thuê để cho họ thấy rằng anh cũng chẳng thua kém gì họ.”
“Đúng. Chính xác là như vậy đấy… Nhìn này, Dominique, em hầu như chưa động vào thức ăn đấy.”
“Em không đói.”
“Vậy em nghĩ anh nên chọn kiến trúc sư nào?”
“Hãy thử nghĩ xem, Joel. Ai là người bây giờ đang được tất cả mọi người nhắc đến? Ai nhận tất cả các công trình? Ai làm ra được nhiều tiền nhất cho bản thân và các khách hàng của mình? Ai trẻ trung và nổi tiếng và an toàn và được yêu thích?”
“À, anh đoán… anh đoán là Peter Keating.”
“Chính xác, Joel ạ, Peter Keating.”
*
* *
“Anh Roark, tôi rất xin lỗi, vô cùng xin lỗi, hãy tin tôi nhưng rốt cuộc, tôi đâu có kinh doanh cho khỏe người… không để khỏe người mà cũng chẳng để di dưỡng tinh thần… tức là, ý tôi là, tôi nghĩ là anh hiểu được tình thế của tôi. Tôi không hề có ý chê anh đâu, ngược lại, tôi nghĩ anh là một kiến trúc sư tuyệt vời. Nhưng anh thấy đấy, đấy lại là vấn đề; sự vĩ đại nghe thì hay nhưng nó không thực tế. Vấn đề là thế đấy, anh Roark, không thực tế, và rút cục anh cũng phải thừa nhận rằng anh Keating nổi danh hơn anh và anh ta có cái… cái cách chiều lòng người mà anh chưa bao giờ có.”
Điều làm Sutton khó chịu là Roark không hề phản đối gì. Ông ước gì Roark cố tranh luận, để rồi ông sẽ đưa ra những lý lẽ không thể chối cãi mà Dominique vừa dạy ông vài giờ trước đó. Nhưng Roark không nói một lời nào; anh chỉ hơi nghiêng đầu xuống khi nghe quyết định đó. Sutton thực sự muốn có cơ hội bày tỏ các lý lẽ của ông, nhưng thật chẳng có nghĩa lý gì khi cố gắng thuyết phục một người tự tỏ ra là đã bị thuyết phục rồi. Nhưng Sutton yêu quý tất cả mọi người và ông không muốn làm tổn thương bất cứ ai.
“Thực ra, anh Roark ạ, không phải chỉ một mình tôi đưa ra quyết định này đâu. Thực sự tôi đã muốn anh làm việc, tôi đã chọn anh, thực tình là tôi đã chọn anh nhưng chính Dominique Francon, người mà tôi rất coi trọng ý kiến, đã thuyết phục tôi rằng anh không phải là sự lựa chọn đúng đắn cho công trình này – và cô ấy cũng rất công bằng khi cho phép tôi nói với anh rằng cô ấy đã thuyết phục tôi.”
Ông thấy Roark đột ngột nhìn mình. Rồi ông thấy hai hõm má anh trũng xuống, như thể bị kéo xuống sâu hơn, và miệng anh mở ra: anh đang cười, không thành tiếng mà chỉ có một cái hít thật sâu.
“Anh cười cái quái gì thế, anh Roark?”
“Vậy là cô Francon muốn ông nói với tôi chuyện này à?”
“Không phải cô ấy muốn, tại sao cô ấy lại muốn cơ chứ? Cô ấy chỉ nói là tôi có thể nói với anh nếu tôi muốn.”
“Phải, tất nhiên rồi.”
“Điều đó chỉ cho thấy là cô ấy rất trung thực; cô ấy có những lý do xác đáng cho các ý kiến của mình và sẽ công khai bảo vệ những ý kiến ấy.”
“Vâng.”
“Thế thì có chuyện gì nào?”
“Không có gì, ông Sutton.”
“Nghe này, anh cười như vậy không được hay lắm đâu.”
“Phải.”
*
* *
Căn phòng xung quanh anh lờ mờ tối. Một bản thiết kế của ngôi nhà Heller được đóng đinh trên một bức tường dài, không có khung, trống trải. Nó làm cho ngôi nhà trở nên trống rỗng hơn và bức tường dường như càng dài thêm. Anh không cảm thấy những phút đang trôi qua; trái lại anh cảm giác thời gian như một thứ vật chất rắn chắc đã vây kín và ngăn cách căn phòng này với thế giới bên ngoài; thời gian đã bị tước bỏ mọi ý nghĩa, ngoại trừ thực trạng bất động của thân thể anh.
Khi anh nghe thấy có tiếng gõ cửa, anh nói vọng ra mà không hề đứng dậy: “Vào đi.”
Dominique bước vào. Cô bước vào như thể cô đã từng bước vào căn phòng này trước đó. Cô mặc một bộ quần áo tối màu, vải dầy, đơn giản như quần áo trẻ con, như thể chỉ để che thân chứ không phải để phục sức; chiếc áo của cô có một cái cổ như cổ áo nam, cao đến ngang má; cô đội một cái mũ che đến nửa mặt. Anh ngồi nhìn cô. Cô chờ nụ cười chế giễu nhưng nó không đến. Nụ cười ấy dường như đã được giấu vào trong chính căn phòng, trong việc cô đứng đó, cách anh nửa căn phòng. Cô bỏ mũ ra, hệt như một người bỏ mũ khi bước vào phòng, cô lấy đầu ngón tay kéo vành mũ ra rồi cầm nó ở đầu cánh tay thõng. Cô chờ đợi, vẻ mặt nghiêm nghị và lạnh lẽo nhưng mái tóc phẳng phiu nhợt nhạt của cô trông yếu ớt và nhỏ bé. Cô nói:
“Anh không ngạc nhiên khi thấy tôi.”
“Tôi đã chờ cô tối nay.”
Cô đưa tay lên, gập khuỷu tay lại bằng một cử động cứng nhắc, như chỉ huy động những động tác cần thiết tối thiểu, và quăng chiếc mũ ngang qua bàn. Chiếc mũ bay một quãng xa chứng tỏ cô đã giật cổ tay rất mạnh.
Anh hỏi: “Cô muốn gì?”
Cô đáp: “Anh biết tôi muốn gì.” Giọng cô nặng nề và vô cảm.
“Tôi biết. Nhưng tôi muốn chính cô nói ra. Nói tất cả.”
“Nếu anh muốn.” Giọng cô có một vẻ chắc chắn, như đang làm theo một mệnh lệnh với một sự chính xác cơ học. “Tôi muốn ngủ với anh. Bây giờ, tối nay và bất cứ lúc nào anh buồn gọi đến tôi. Tôi muốn cái thân người trần trụi của anh, làn da của anh, đôi môi anh, hai bàn tay của anh. Tôi muốn anh – đúng như thế này – không theo kiểu phát cuồng vì ham muốn – mà lạnh lùng và tỉnh táo – không cần phẩm giá cũng không hối hận – tôi không có phẩm giá để phải mặc cả với chính mình hay ăn năn day dứt gì cả – tôi muốn anh – tôi thèm muốn anh như một con vật, như một con mèo động đực, như một con điếm.”
Cô nói bằng giọng đều đều, đơn điệu, như thể cô đang trích đọc một cuốn giáo lý khổ hạnh về vấn đề đức tin vậy. Cô đứng bất động, hai chân cô đi giày bệt choãi rộng, hai bả vai bạnh ra phía sau, hai tay buông thõng bên mình. Những lời cô đang nói dường như không chạm đến cô; trông cô vô tư lự – hoàn toàn vô tư như một đứa trẻ.
“Anh biết là tôi căm thù anh, Roark. Tôi căm thù anh vì chính con người anh, vì tôi muốn anh, vì tôi buộc phải muốn anh. Tôi sẽ chống lại anh – và tôi sẽ hủy hoại cuộc đời anh, và tôi nói với anh điều này một cách bình tĩnh như tôi đã nói với anh rằng tôi là con thú hèn mạt. Tôi sẽ cầu nguyện để anh không thể bị hủy hoại – tôi cũng nói với anh cả điều này – cho dù tôi chẳng tin vào điều gì cả và cũng chẳng có thần thánh nào để cầu xin. Nhưng tôi sẽ chiến đấu để cản trở mọi bước tiến của anh. Tôi sẽ chiến đấu để tước đi của anh tất cả những cơ hội mà anh muốn. Tôi sẽ làm tổn thương anh thông qua cái thứ duy nhất có thể làm anh tổn thương – đó là qua công việc của anh. Tôi sẽ làm cho anh phải chết đói, tôi sẽ bóp nghẹt anh bằng chính những thứ mà anh không bao giờ có được. Tôi đã làm điều đó ngày hôm nay – đó chính là lý do vì sao đêm nay tôi sẽ ngủ với anh.”
Anh ngồi sâu trong lòng ghế, người duỗi ra, cơ thể anh thư giãn, và căng ra trong sự thư giãn. Một sự bất động xâm chiếm cơ thể anh một cách chầm chậm, báo hiệu những cử động mạnh mẽ sắp đến.
“Hôm nay tôi đã làm tổn thương anh. Tôi sẽ còn làm như vậy. Tôi sẽ đến với anh bất kỳ lúc nào tôi đánh bại anh– bất kỳ khi nào tôi biết là tôi đã làm anh bị tổn thương – và tôi sẽ để anh sở hữu tôi. Tôi muốn bị sở hữu, không phải bởi một người tình, mà là bởi một kẻ thù – kẻ sẽ phá hủy chiến thắng mà tôi đã giành được đối với anh ta, không phải bằng những đòn trả thù cao thượng mà bằng sự đụng chạm thân xác của anh ta với tôi. Đó chính là những gì tôi cần ở anh, Roark ạ. Đó chính là con người tôi. Anh đã muốn nghe tất cả mọi thứ. Anh đã được nghe rồi đấy. Bây giờ anh muốn nói gì?”
“Cởi quần áo ra.”
Cô đứng im một lát. Hai bên mép cô đanh lại, bạnh ra rồi trắng bệch. Rồi cô nhận thấy một chuyển động trên vải áo anh – đấy là một hơi thở bị kìm nén vừa mới thoát mạnh ra – và đến lượt cô mỉm cười chế giễu, như anh đã luôn cười với cô như thế.
Cô đưa hai bàn tay lên cổ áo rồi cởi khuy áo khoác, đơn giản, chính xác, từng chiếc, từng chiếc một. Cô ném cái áo xuống sàn nhà rồi cởi chiếc áo cánh màu trắng mỏng, và cô nhận thấy đôi găng tay đen bó ở cổ tay trên cánh tay trần của mình. Cô cởi đôi găng ra, kéo lần lượt từng ngón tay một. Cô cởi quần áo một cách lạnh lùng, như thể cô chỉ có một mình trong phòng ngủ riêng của cô vậy.
Sau đó cô nhìn anh. Cô đứng đó trần truồng, chờ đợi, cảm thấy khoảng không giữa họ như một áp lực ấn vào bụng cô; cô biết rằng đây cũng là một sự tra tấn với anh và rằng nó đúng như họ đều mong muốn. Rồi anh đứng dậy, anh bước tới gần cô, và khi anh ôm cô, đôi cánh tay cô tự nguyện đưa lên, cô cảm thấy khuôn người anh áp lên làn da non phía trong cánh tay cô khi nó ôm vòng lấy cơ thể anh, sườn anh, nách anh, lưng anh, bả vai anh dưới những ngón tay cô, miệng cô áp lên miệng anh, trong một sự đầu hàng còn mãnh liệt hơn cả cuộc đấu tranh của cô.
Sau đó, cô nằm cạnh anh trên giường, dưới chiếc chăn của anh. Cô nhìn căn phòng anh và hỏi:
“Roark, tại sao anh lại làm ở mỏ đá đó?”
“Em biết mà.”
“Vâng. Những người khác hẳn sẽ xin một việc ở một văn phòng kiến trúc.”
“Và lúc đó thì em sẽ không còn mong muốn hủy hoại anh.”
“Anh hiểu điều đó?”
“Anh hiểu. Yên nào. Bây giờ điều đó chẳng còn quan trọng.”
“Anh có biết tòa nhà Enright là tòa nhà đẹp nhất New York không?”
“Anh biết là em biết điều đó.”
“Roark, anh làm trong mỏ đá đó khi mà anh có ngôi nhà Enright và còn nhiều ngôi nhà Enright khác nữa, thế mà anh vẫn đi khoan đá granit như là một…”
“Em lại sắp yếu đi rồi, Dominique ạ, và ngày mai em sẽ hối tiếc điều đó.”
“Vâng.”
“Em rất đáng yêu, Dominique.”
“Đừng.”
“Em rất đáng yêu.”
“Roark, em… em vẫn muốn hủy hoại anh.”
“Em có nghĩ là anh vẫn còn muốn em nếu em không muốn hủy hoại anh không?”
“Roark…”
“Em có muốn anh nhắc lại không? Một phần thôi? Anh muốn em, Dominique. Anh muốn em. Anh muốn em.”
“Em…” Cô dừng lại; từ cuối cùng mà cô nói ra gần như chỉ có thể nghe được trong hơi thở của cô.
Anh đáp “Không. Chưa đâu. Em sẽ chưa nói ra điều ấy. Thôi ngủ đi.”
“Ở đây? Với anh?”
“Ở đây, với anh. Sáng mai anh sẽ nấu bữa sáng cho em. Em có biết là anh tự nấu bữa sáng cho mình không? Em sẽ thích nhìn thấy anh làm việc đó. Giống như công việc trong mỏ đá ấy. Rồi em sẽ về nhà và nghĩ đến việc hủy hoại anh. Chúc ngủ ngon, Dominique.”