Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Suối Nguồn

Chương XIX

Tác giả: Ayn Rand

Roger Enright mua lại cả khu đất, những bản thiết kế và đống đổ nát còn sót lại của Cortlandt. Ông ra lệnh đào bỏ tất cả những tàn tích cũ để giải phóng mặt bằng. Ông thuê Howard Roark thi công dự án. Enright chỉ ký với một nhà thầu và giám sát chặt chẽ tính kinh tế của các bản thiết kế; ông cam đoan sẽ cho thuê nhà giá rẻ vừa phải, đủ để duy trì được lợi nhuận ở mức hợp lý. Không ai được phép thắc mắc về các vấn đề như mức thu nhập, nghề nghiệp, trẻ em hoặc chế độ ăn uống của những cư dân tương lai của tòa nhà; dự án này cho phép bất cứ ai vào ở miễn là họ muốn và họ trả tiền thuê nhà, bất kể họ có đủ tiền thuê một căn hộ đắt tiền ở nơi khác hay không.

Cuối tháng Tám, Gail Wynand được tòa chấp thuận cho ly hôn. Không ai phản đối vụ ly hôn và Dominique không có mặt ở tòa. Wynand đưng trước tòa như thể ông đang đứng trước một tòa án quân sự. Ông phải nghe kể về bữa sáng giữa bà Gail Wynand và Howard Roark trong một căn nhà ở Thung lũng Monadnock bằng một thứ ngôn ngữ pháp lý lạnh lùng, tàn nhẫn: họ chính thức kết tội vợ ông là điếm nhục; họ dành cho ông sự cảm thông chính đáng của công lý; ông được coi là vô tội trong vụ việc này và được cấp một giấy thông hành để có thể tự do cho tất cả những năm tháng sau này của ông. Đấy cũng là giấy thông hành với những buổi tối câm lặng còn lại của cuộc đời ông.

Ellsworth Toohey thắng vụ kiện lao động. Wynand bị buộc phải phục chức cho Toohey.

Buổi chiều hôm đó thư ký của Wynand đã gọi điện cho Toohey và bảo với ông rằng ngài Wynand muốn ông quay lại làm việc vào tối nay, trước 9 giờ tối. Toohey mỉm cười, và dập điện thoại.

Toohey mỉm cười khi bước vào tòa nhà Ngọn cờ tối đó. Ông dừng lại ở phòng tài chính. Ông vẫy tay chào mọi người; ông bắt tay; ông đưa ra những bình luận hóm hỉnh về một vài bộ phim đang chiếu; ông tỏ vẻ ngạc nhiên một cách ngây thơ, cứ như thể ông chỉ mới đi vắng từ hôm qua và không hiểu tại sao mọi người lại chào đón ông như đón một người thắng trận trở về.

Rồi ông thong thả đi về phòng làm việc của mình. Ông bất chợt dừng lại. Ông biết trong lúc ông đang dừng lại, rằng ông phải bước vào phòng, phải không tỏ vẻ ngạc nhiên, và rằng ông đã tỏ ra ngạc nhiên mất rồi: ông thấy Wynand đang đứng ở giữa cửa phòng làm việc mở toang của ông.

“Chúc một buổi tối tốt lành, ông Toohey,” Wynand nói nhẹ nhàng. “Mời ông vào.”

“Xin chào ông Wynand,” Toohey nói với vẻ thân mật, các cơ thịt trên mặt ông cố nở ra một nụ cười trong lúc đôi chân của ông đi tiếp vào trong phòng.

Ông đi vào phòng và ngập ngừng đứng lại. Đó là phòng làm việc riêng của ông, không có gì thay đổi, vẫn một chiếc máy chữ và một chồng giấy trắng ở trên bàn. Nhưng cửa vẫn mở và Wynand vẫn đứng im lìm ở đó, lưng dựa vào khung cửa.

“Ngồi vào bàn, ông Toohey. Làm việc đi. Chúng ta phải tuân thủ pháp luật.”

Toohey nhún vai một cách vui vẻ, rồi đi ngang phòng và ngồi xuống. Ông đặt tay lên mặt bàn, hai bàn tay duỗi thẳng ra, rồi lại buông chúng vào lòng. Ông lấy một cái bút chì, kiểm tra lại ngòi bút và đặt nó xuống.

Wynand chậm rãi nhấc một cổ tay lên ngang ngực. Ông giữ nguyên hình tam giác được tạo bởi cẳng tay và những ngón tay dài gập xuống. Ông đang nhìn đồng hồ đeo tay. Ông nói:

“Bây giờ là 9 giờ kém 10 phút. Ông đã trở lại làm việc, ông Toohey.”

“Và tôi hạnh phúc như một đứa trẻ khi được trở lại làm việc. Thực lòng mà nói, ông Wynand, lẽ ra tôi không nên thú nhận điều này, nhưng thực sự là tôi rất nhớ chỗ này.”

Wynand vẫn không có cử động nào tỏ vẻ rằng ông sắp rời đi. Ông đứng đó, dáng lừ đừ như mọi khi; xương bả vai của ông nhô lên, tựa vào khung cửa. Ông khoanh tay trước ngực, hai bàn tay ôm lấy khuỷu tay. Một chiếc đèn thủy tinh màu xanh lá cây đang tỏa sáng trên bàn làm việc, mặc dù ngoài trời vẫn còn sáng – bầu trời màu vàng nhạt loang lổ những vệt mây nâu. Ánh sáng của ngọn đèn được thắp quá sớm và quá nhợt nhạt làm cho căn phòng có không khí của một buổi tối ảm đạm. Ánh sáng chiếu một quầng tròn trên mặt bàn; nhưng cái quầng sáng ấy không đủ để xua đi những hình khối nhạt nhòa màu nâu của đường phố. Nó cũng không thể vươn tới cửa để xoá đi sự hiện diện của Wynand.

Bóng đèn bỗng chập chờn và Toohey cảm thấy sàn nhà đang rung lên ở dưới đế giày của ông: những cái máy in đang hoạt động. Ông nhận ra rằng ông đã nghe thấy âm thanh này được một lúc. Đó là một âm thanh dễ chịu, đáng tin cậy và sống động. Đó là nhịp tim của một tòa báo, một tòa báo có nhiệm vụ truyền đến cho loài người nhịp tim của thế giới. Một dòng chảy dài và đều đặn của những giọt âm thanh rời rạc, như những viên bi lăn đi theo một đường thẳng, giống hệt tiếng đập trái tim người.

Toohey đưa bút chì trên tờ giấy. Rồi ông dưng lại khi ông nhận ra rằng tờ giấy đang nằm trong quầng sáng ngọn đèn và Wynand có thể nhìn thấy đường chì vừa mới vẽ một bông hoa súng, một tách trà và một gương mặt người có râu nhìn nghiêng. Ông buông bút và tắc lưỡi như muốn tự chế nhạo bản thân. Ông mở một ngăn kéo. Ông chăm chú nhìn vào chồng giấy than và những cái ghim giấy. Ông không biết ông cần phải làm gì: người ta không bắt đầu viết bài cho một mục báo như thế này. Ông đã băn khoăn tại sao người ta yêu cầu ông trở lại công việc vào 9 giờ tối, nhưng ông đã tự nhủ rằng đó là cung cách của Wynand: Wynand đang hạ thấp sự đầu hàng bằng cách cường điệu hóa nó. Ông đã nghĩ ông có thể bỏ qua chuyện này.[172]

Những chiếc máy in vẫn đang hoạt động; nhịp tim của một người đang được tập hợp lại và phát tán đi. Ông không nghe thấy một âm thanh nào khác và ông nghĩ, thật ngớ ngẩn nếu cứ ngồi thế này trong khi Wynand đã bỏ đi; nhưng nhỡ Wynand vẫn còn đứng đó thì sao.

Một lát sau ông nhìn lên. Wynand vẫn ở đó. Ánh sáng chụm thành hai điểm trắng trên người ông: những ngón tay dài đang ôm lấy khuỷu tay và vầng trán cao. Toohey muốn nhìn thấy trán của Wynand; không, không có nếp nghiêng nào ở trên lông mày của ông ta. Hai con mắt như hai hình bầu dục trắng đục, nổi rõ trên những góc cạnh mờ tối của khuôn mặt. Cặp mắt đang chiếu vào phía Toohey. Nhưng không có gì ở gương mặt đó; không có dấu hiệu của sự tự chủ.

Một lúc sau, Toohey nói:

“Thực sự thì, ông Wynand, tại sao tôi và ông lại không thể làm việc được với nhau nào?”

Wynand không trả lời.

Toohey cầm một tờ giấy lên và nhét nó vào máy chữ. Ông nhìn vào những phím bấm. Ông giữ cho cằm ở giữa hai bàn tay, trong tư thế chuẩn bị gõ một đoạn văn bản. Những bàn phím lấp lánh dưới ánh đèn – những đốm tròn màu ni-ken sáng lửng lơ trong căn phòng tối mờ.

Những chiếc máy in đã dừng lại.

Toohey tự động giật mình co người lại trước khi ông biết tại sao ông đã giật mình: ông là một nhà báo và ông biết các máy in không dừng lại kiểu đó.

Wynand nhìn vào đồng hồ đeo tay. Ông nói:

“Bây giờ là 9 giờ. Ông đã bị mất việc, ông Toohey. Tờ Ngọn cờ không còn tồn tại nữa.”

Thực tại tiếp theo mà Toohey cảm nhận được là bàn tay của ông rơi xuống bàn phím máy chữ: ông nghe thấy những tay đòn kim loại va vào nhau, và thân chiếc máy chữ khẽ rung lên.

Ông không nói gì, nhưng ông nghĩ ông đang trở nên trần trụi trước mặt Wynand bởi vì ông nghe được tiếng Wynand trả lời:

“Phải, ông đã làm việc ở đây mười ba năm… Phải, ông đã mua lại tất cả, kể cả Mitchell Layton, hai tuần trước…” Giọng nói dửng dưng. “Không, phòng tài chính không biết điều đó. Chỉ có những người trong phòng in…”

Toohey quay đi. Ông nhặt một cái ghim giấy lên. Ông giữ nó trong lòng bàn tay, rồi lật ngược bàn tay và để cho cái kẹp giấy rơi. Ông quan sát sự việc đó với một chút ngạc nhiên. Các định luật vật lý đã không cho phép ông giữ được cái ghim trong lòng bàn tay úp ngược.

Ông đứng lên. Ông đứng nhìn Wynand. Một tấm thảm màu xám nằm giữa họ.

Wynand hơi nghiêng đầu về một bên. Khuôn mặt Wynand trông như thể ông không còn cần sự ngụy trang nào nữa. Mặt ông đơn giản, không giận dữ; đôi môi mím chặt thấp thoáng một nụ cười đau đớn – trông nụ cười gần như có vẻ nhún nhường.

Wynand nói:

“Đây là dấu chấm hết của tờ Ngọn cờ… Tôi nghĩ thật hợp lý khi tôi và ông cùng chứng kiến điều đó.”

*

* *

Rất nhiều tờ báo muốn nhận Ellsworth Monkton Toohey về làm việc. Ông chọn tờ Người đưa tin, một tờ báo có danh tiếng và còn chưa chắc chắn về đường lối.

Trong buổi tối của ngày làm việc đầu tiên, Ellsworth Toohey ngồi trên mép bàn làm việc của một trợ lý biên tập và nói chuyện về ông Talbot, người sở hữu tờ Người đưa tin. Toohey mới chỉ được gặp ông vài lần trước đó.

“Về mặt con người thì ông Talbot thế nào nhỉ?” Ellsworth Toohey hỏi. “Ông ấy sùng bái điều gì? Ông ấy không thể sống thiếu cái gì?”

Trong phòng điện tín ở bên kia hành lang có ai đó đang quay điện thoại. “Thời gian,” một giọng nghiêm nghị vang lên, “làm việc đi!”

*

* *

Roark ngồi bên bàn vẽ trong phòng làm việc của mình. Anh đang làm việc. Thành phố phía sau những bức tường kính trông thật rực rỡ. Không khí bị đợt lạnh đầu tiên của tháng Mười gột sạch tinh.

Chuông điện thoại vang lên. Chiếc bút chì trong tay anh đột nhiên dừng lại, bồn chồn; anh không cho phép bất cứ ai gọi điện trong lúc anh đang vẽ. Anh đi về bàn làm việc và nhấc điện thoại.

“Thưa ông Roark,” thư ký của anh nói, giọng căng thẳng như muốn xin lỗi vì đã phá lệ, “Ông Gail Wynand muốn biết liệu ông có vui lòng đến phòng làm việc của ông ấy vào 4 giờ chiều mai không?”

Người thư ký nghe thấy sự im lặng trong ống nghe. Im lặng kéo dài.

“Ông ấy có trên điện thoại không?” Roark hỏi. Bà biết không phải đường truyền làm giọng anh thay đổi như thế.

“Không, thưa ông Roark. Đó là thư ký của ông Wynand.”

“Có. Có. Bà hãy nói với bà ấy là tôi sẽ đến.”

Anh đi về phía bàn vẽ và nhìn xuống những bản phác; đây là lần đầu tiên anh buộc phải bỏ trốn: anh biết anh không thể tiếp tục làm việc hôm nay. Cảm giác hy vọng và bình yên trong anh quá lớn để có thể làm việc.

Khi Roark đến gần cửa ra vào của tòa nhà đã từng có tên là tòa nhà Ngọn cờ, anh nhìn thấy bảng hiệu của tờ Ngọn cờ đã biến mất. Chưa có gì thế chỗ của nó. Chỉ còn lại một vết phai hình chữ nhật ở phía trên cửa. Anh biết tòa nhà bây giờ chỉ có trụ sở làm việc của tờ Kèn hiệu, còn lại là những tầng nhà trống rỗng. Tờ Kèn hiệu là một tờ tin tức buổi chiều hạng ba, đại diện duy nhất còn lại của tập đoàn Wynand ở New York.

Anh bước về phía một chiếc thang máy. Anh mừng vì anh là người duy nhất trong thang máy: bất chợt anh có cảm giác sở hữu một cách bạo lực đối với cái chuồng bằng sắt này; nó là của anh, nó đã được tìm thấy và trả lại cho anh. Sự đậm đặc của cảm giác bình yên mách bảo anh về sự đậm đặc của nỗi đau giờ đây đã chấm dứt; đấy là một nỗi đau đặc biệt, khác với tất cả những nỗi đau anh đã gặp trong đời mình.

Khi anh bước vào phòng làm việc của Wynand, anh biết là anh sẽ phải chấp nhận nỗi đau đó và mang nó vĩnh viễn. Anh biết không có hy vọng nào, không phương thuốc nào có thể cứu chữa nổi. Wynand ngồi sau bàn làm việc. Ông đứng lên khi anh bước vào. Ông nhìn thẳng vào anh. Gương mặt của Wynand còn hơn cả mặt của một người xa lạ: một gương mặt xa lạ vẫn còn tiềm ẩn khả năng làm quen; nó có thể mở ra nếu người ta quyết định và thử làm quen; còn đây là một gương mặt quen thuộc, một gương mặt đã khép kín và không bao giờ để người khác lại gần nữa. Một gương mặt không mang nỗi đau bị chối bỏ; nó mang dấu ấn của giai đoạn tiếp theo – đó là khi chính nỗi đau cũng bị chối bỏ. Một gương mặt xa cách và câm lặng, với sự tự trọng của riêng nó. Sự tự trọng đó không phải là một đặc tính sống của một con người, mà là sự tự trọng của những hàng chữ trên một ngôi mộ thời Trung cổ – nó kể về sự vĩ đại đã qua và không cho phép ai chạm tới những gì còn sót lại.

“Ông Roark, buổi phỏng vấn này là cần thiết nhưng nó rất khó khăn đối với tôi. Xin ông cư xử cho phù hợp.”

Roark biết rằng hành vi từ tâm duy nhất anh có thể thực hiện với Wynand vào lúc này là không biểu lộ tình cảm gì cả. Anh biết là anh sẽ phá tan những gì còn lại ở người đàn ông đang ngồi trước mặt anh nếu anh phát âm một từ: Gail.

Roark trả lời:

“Vâng, thưa ông Wynand.”

Wynand cầm lên bốn tờ giấy đã được đánh máy và đưa chúng qua bàn:

“Làm ơn đọc và ký nếu ông đồng ý.”

“Cái gì vậy?”

“Hợp đồng thiết kế tòa nhà Wynand.”

Roark đặt tờ giấy xuống. Anh không thể cầm chúng trên tay được. Anh không thể nhìn chúng.

“Xin nghe cho kỹ, ông Roark. Hợp đồng này cần phải được giải thích và hiểu thấu đáo. Tôi muốn tòa nhà Wynand được thi công ngay lập tức. Tôi muốn nó trở thành tòa nhà cao nhất thành phố này. Đừng tranh luận với tôi bây giờ có phải là thời điểm kinh tế hợp lý không. Tôi muốn xây nó. Nó sẽ được sử dụng – đây là điều ông quan tâm phải không. Nó sẽ chứa tòa soạn tờ Kèn hiệu và tất cả văn phòng làm việc của tập đoàn Wynand hiện đang nằm rải rác khắp nơi trong thành phố. Phần trống còn lại sẽ được cho thuê. Tôi còn đủ quyền lực để đảm bảo với ông điều đó. Ông không cần sợ xây lên một tòa nhà không được sử dụng. Tôi sẽ gửi cho ông một thông báo chính thức về tất cả các chi tiết và yêu cầu xây dựng. Phần còn lại tùy ý ông. Ông có toàn quyền thiết kế tòa nhà. Các quyết định của ông sẽ là quyết định cuối cùng. Không cần phải có sự chấp thuận của tôi. Ông sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn và có quyền hoàn toàn. Điều này được ghi trong hợp đồng. Nhưng tôi muốn ông hiểu rằng tôi sẽ không gặp ông nữa. Tôi sẽ có một đại diện để giải quyết các vấn đề kỹ thuật và tài chính. Ông sẽ làm việc với người đó. Ông sẽ gặp ông ta trong các buổi gặp tiếp theo. Nói cho ông ta biết ông muốn thuê nhà thầu nào. Nếu ông thấy cần phải nói chuyện với tôi, ông sẽ liên lạc thông qua đại diện của tôi. Ông đừng hy vọng gặp tôi và cũng đừng cố gắng tìm tôi. Nếu ông có làm thế, ông cũng sẽ bị từ chối. Tôi không muốn nói chuyện với ông. Tôi không bao giờ muốn gặp lại ông. Nếu ông đã sẵn sàng chấp thuận những điều khoản này thì làm ơn hãy đọc bản hợp đồng và ký.”

Roark với lấy một cái bút và ký mà không cần đọc.

“Ông chưa đọc nó,” Wynand nói.

Roark ném tờ giấy qua bàn.

“Làm ơn ký cả hai bản.”

Roark nghe lời.

“Cảm ơn ông” Wynand nói, ông cũng ký vào các tờ giấy và đưa một bản cho Roark. “Đây là một bản của ông.”

Roark nhét hợp đồng vào túi áo.

“Tôi vẫn chưa đề cập đến khía cạnh tài chính. Cái bí mật mà ai cũng biết là đế chế Wynand đã chết. Thực tế, nó khỏe mạnh và hoạt động tốt hơn bao giờ hết, trừ phần ở New York. Nó sẽ còn tồn tại chừng nào tôi còn sống. Nhưng khi tôi chết, nó cũng sẽ chết theo. Tôi dự định sẽ bán lại một phần lớn. Vì thế, khi thiết kế tòa nhà này, ông không cần phải hạn chế bản thân vì các lý do tài chính. Ông được thoải mái tiêu những gì ông thấy cần thiết. Tòa nhà sẽ tồn tại lâu dài, ngay cả khi các hãng thời sự và các tờ báo của tôi biến mất.”

“Vâng, thưa ông Wynand.”

“Tôi đoán ông sẽ muốn xây tòa nhà sao cho chi phí bảo dưỡng sau này của nó được giảm thiểu. Tuy nhiên, ông không cần phải lo lắng về việc hoàn lại vốn đầu tư ban đầu. Sẽ không có ai để nhận lại khoản vốn đó.”

“Vâng, thưa ông Wynand.”

“Nếu ông nghĩ đến hành vi của thế giới hiện tại và cái thảm họa mà thế giới này đang tiến tới, có thể ông sẽ nghĩ việc xây tòa nhà này là hoàn toàn lố bịch. Thời đại của những tòa nhà chọc trời đã hết. Đây là thời đại của các dự án chung cư. Và nó là khúc dạo đầu cho thời kỳ ăn lông ở lỗ. Nhưng ông không sợ phải chống lại cả thế giới này. Đây sẽ là tòa nhà chọc trời cuối cùng được xây ở New York. Như vậy cũng hợp lý thôi. Thành tựu cuối cùng của loài người trên trái đất này trước khi chính loài người tự hủy diệt chính mình.”

“Loài người sẽ không tự hủy diệt, ông Wynand. Loài người cũng không nên nghĩ rằng mình đã bị hủy diệt. Chừng nào họ còn làm được những việc như thế này.”

“Việc gì?”

“Xây tòa nhà Wynand.”

“Điều đó là tùy ở ông. Những thứ đã chết – như tờ Ngọn cờ – chỉ là nguồn tài chính cho công trình này. Đó là chức năng hợp lý của chúng.”

Ông cầm bản hợp đồng của mình lên, gấp lại. Ông nhét nó vào túi bằng một động tác chính xác, gọn gàng. Ông nói, giọng không hề thay đổi:

“Đã có lần tôi đã nói với ông rằng tòa nhà này sẽ là đài tưởng niệm cuộc đời tôi. Bây giờ thì không có gì để tưởng niệm cả. Tòa nhà Wynand sẽ không có gì – ngoài những gì ông đem lại cho nó.”

Ông đứng lên, ra dấu buổi phỏng vấn đã kết thúc. Roark đứng dậy. Anh hơi nghiêng đầu ra dấu từ biệt. Anh cúi đầu lâu hơn phép lịch sự thông thường. Ở cửa, anh dừng lại và quay người. Wynand vẫn đứng bất động sau bàn. Họ nhìn nhau.

Wynand nói:

“Hãy xây nó như một đài tưởng niệm cho cái linh hồn thuộc về anh… và lẽ ra đã có thể thuộc về tôi.”

Bình luận