Dominique đứng bên lan can chiếc du thuyền; bong tàu nóng ấm dưới đôi xăng-đan bệt của cô, ánh nắng phủ lên đôi chân trần, và gió thổi tung chiếc váy trắng mỏng của cô. Cô ngắm nhìn Wynand đang nằm dài trên chiếc ghế xếp phía trước.
Cô ngẫm nghĩ về sự thay đổi mà cô lại bắt gặp ở ông khi ở trên tàu. Cô đã quan sát ông trong suốt mấy tháng của chuyến du ngoạn hè này. Đã có lần cô nhìn thấy ông chạy xuống cầu thang dẫn xuống khoang dưới, và hình ảnh đấy vẫn còn nguyên trong tâm trí cô, một hình dáng cao trắng băng về phía trước với tốc độ và sự cả quyết; tay ông nắm chặt vào lan can cầu thang để đẩy người về phía trước, bất chấp một cách có ý thức cái nguy cơ lan can có thể đột nhiên bị gãy. Ông không phải là ông chủ báo đồi bại của một đế chế danh tiếng. Ông là một nhà quý tộc trên chiếc du thuyền. Cô nghĩ rằng trông ông giống như những gì người ta tưởng tượng về tầng lớp quý tộc khi người ta còn trẻ: một nhóm người hào nhoáng, luôn vui vẻ một cách vô tư lự.
Cô nhìn ông nằm dài trong cái ghế xếp trên boong tàu. Cô nghĩ rằng sự thư giãn trở nên hấp dẫn chỉ với những người mà với họ, thư giãn là một trạng thái bất thường, khi đó thì thậm chí cả sự rũ người ra cũng có ý nghĩa. Cô ngẫm nghĩ về ông; Gail Wynand, người vốn nổi tiếng về những khả năng phi thường. Tuy nhiên, cái này không chỉ là sức mạnh của một kẻ mạo hiểm đầy tham vọng, người đã tạo nên cả một dây chuyền các tờ báo. Cái này – cái mà cô nhìn thấy ở ông vào lúc này – cái đang nằm dài dưới ánh mặt trời như một câu trả lời bỏ ngỏ – cái này vĩ đại hơn nhiều; nó là động cơ đầu tiên của sức mạnh, một thứ năng lưc nằm ngoài sự vận động của vũ trụ.
“Gail”, cô chợt thốt lên không chủ ý.
Ông mở mắt nhìn cô.
“Ước gì tôi có thể ghi âm được tiếng gọi ấy”, ông nói một cách trễ nải. “Em chắc cũng sẽ giật mình khi nghe tiếng gọi ấy đấy. Nhưng nghe ở đây thì hơi phí. Giá mà tôi có thể bật lại nó trong phòng ngủ.”
“Tôi sẽ nhắc lại ở đó, nếu anh muốn.”
“Cám ơn, em yêu quý. Và tôi hứa là sẽ không phóng đại hay võ đoán nhiều hơn. Em không yêu tôi. Em cũng chưa hề yêu bất kỳ ai cả.”
“Tại sao anh nghĩ như thế?”
“Nếu em yêu một người đàn ông, thì sẽ không chỉ có một đám cưới trò hề và một tối xem kịch nực cười đâu. Em sẽ cho anh ta nếm mùi địa ngục.”
“Làm sao anh biết như vậy hả Gail?”
“Tại sao em luôn nhìn chằm chằm vào tôi kể từ khi chúng ta gặp nhau? Bởi vì tôi không phải là Gail Wynand mà em đã được nghe. Em thấy đấy, tôi yêu em. Và yêu tức là tạo ngoại lệ. Nếu em đang yêu, em sẽ muốn bị bẻ gãy, bị dày xéo, bị ra lệnh, bị thống trị, bởi vì những điều đó là bất khả, là không thể tưởng tượng nổi trong các mối quan hệ của em với những người khác. Đó sẽ là một món quà, một ngoại lệ lớn mà em sẽ muốn tặng người đàn ông em yêu. Nhưng việc ấy sẽ chẳng dễ dàng với em.”
“Nếu những điều anh nói là đúng, thì anh…”
“Thì tôi phải trở nên hiền lành và nhún nhường – trước sự kinh ngạc của em – bởi vì tôi là kẻ vô lại nhất trên đời này.”
“Tôi không tin điều đó, Gail.”
“Không à? Tôi không còn là kẻ vô lại thứ hai trên đời nữa à?”
“Không, không còn nữa.”
“Ôi, em yêu quý, thực ra thì tôi vẫn thế.”
“Tại sao anh lại muốn nghĩ như vậy?”
“Tôi không muốn nghĩ như vậy. Nhưng tôi muốn thành thật. Đó luôn là sự xa xỉ cá nhân duy nhất của tôi. Đừng thay đổi suy nghĩ của em về tôi. Hãy cứ nhìn tôi như em đã nhìn tôi trước khi chúng ta gặp nhau.”
“Gail, đó không phải là điều anh muốn.”
“Việc tôi muốn gì đâu có quan trọng. Tôi chẳng muốn gì hết ngoài việc sở hữu em. Mà chẳng cần em đáp lại. Mọi việc phải là như thế – phải không có sự đáp lại. Nếu em bắt đầu quan sát tôi quá gần, em sẽ thấy những điều mà em không thích một chút nào.”
“Những điều gì?”
“Em thật đẹp, Dominique. Chúa đã có một sự vô ý tuyệt vời khi tạo ra một người hoàn hảo cả trong lẫn ngoài như thế này.”
“Những điều gì, Gail?”
“Em có biết thực ra em yêu cái gì không? Sự chính trực. Cái không thể. Cái trong sạch, trước sau như một, hợp lý, chung thủy với chính bản thân mình, cái nhất-thể-về-phong-cách, như một tác phẩm nghệ thuật vậy. Đấy là lĩnh vực duy nhất mà sự hoàn hảo có thể được tìm thấy – nghệ thuật. Nhưng em lại muốn nó hiện bằng da bằng thịt. Em yêu điều đó. Em thấy đây, tôi thì chẳng bao giờ có sự chính trực cả.”
“Anh chắc chắn về điều đó đến mức nào, Gail?”
“Em đã quên tờ Ngọn cờ rồi à?”
“Quỷ tha ma bắt tờ Ngọn cờ đi.”
“Được rồi, thì quỷ tha ma bắt tờ Ngọn cờ. Thật hay khi nghe em nói thế. Nhưng tờ Ngọn cờ không phải là biểu hiện chính. Việc tôi chưa bao giờ có bất cứ biểu hiện nào của lòng chính trực không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là tôi chưa từng cảm thấy cần phải làm như thế. Tôi ghét cái quan niệm về sự chính trực ấy. Tôi ghét sự tự phụ quá đáng mà cái ý tưởng đó bao hàm.”
“Dwight Carson…” cô nói. Ông nhận thấy sự ghê tởm trong giọng nói của cô.
Ông cười to. “Đúng thế, Dwight Carson. Cái anh chàng mà tôi đã mua. Một người theo chủ nghĩa cá nhân giờ trở thành kẻ tôn thờ đám đông, và đồng thời trở thành kẻ nát rượu. Chính tôi đã làm điều đó. Nó còn bỉ ổi hơn cả Ngọn cờ, phải không? Em không thích bị nhắc nhớ ra điều này à?”
“Không.”
“Nhưng chắc chắn là em đã nghe đủ những lời than khóc về nó. Tất cả những người khổng lồ về tinh thần mà tôi đã đốn ngã. Tôi nghĩ là chưa có ai nhận ra tôi thích thú làm những việc này đến thế nào. Nó là một thứ dục vọng. Tôi hoàn toàn thờ ơ với những con ốc sên như Ellsworth Toohey hay anh bạn Alvah của chúng ta. Tôi rất sẵn lòng để cho họ được yên ổn. Nhưng cứ để cho tôi thấy một kẻ nào đó có tầm vóc lớn hơn một chút thôi – tôi sẽ buộc phải biến hắn thành một dạng Toohey. Tôi phải làm thế. Nó như một ham muốn tình dục.”
“Tại sao?”
“Tôi không biết.”
“Tiện thể, anh hiểu sai về Ellsworth Toohey rồi.”
“Cũng có thể. Em không mong tôi lãng phí đầu óc của mình để tìm hiểu cái con sên đấy chứ?”
“Anh cũng mâu thuẫn với chính bản thân anh nữa.”
“Ở chỗ nào?”
“Tại sao anh đã không hủy diệt tôi?”
“Thì tạo ngoại lệ mà, Dominique. Tôi yêu em. Tôi buộc phải yêu em. Nếu em là một người đàn ông thì… cầu Chúa phù hộ cho em…”
“Gail – tại sao?”
“Tại sao tôi đã làm tất cả những điều đó à?”
“Đúng.”
“Quyền lực, Dominique ạ. Đó là điều duy nhất mà tôi ham muốn. Để thấy rằng không có bất kỳ một sinh vật sống nào mà tôi không thể bắt làm bất kỳ điều gì. Bất cứ điều gì tôi chọn. Người mà tôi không thể bẻ gãy sẽ là người hủy diệt tôi. Nhưng tôi đã mất nhiều năm trời để hiểu rõ mình an toàn đến mức nào. Người ta nói rằng tôi chẳng có một chút lòng tự trọng nào, rằng tôi đã thiếu một thứ trong cuộc sống. Chà, tôi không thiếu nhiều lắm, đúng không? Cái mà tôi thiếu – nó không hề tồn tại.”
Ông nói bằng một âm điệu bình thường, nhưng ông chợt nhận ra rằng cô đang lắng nghe với sự tập trung chăm chú mà người ta thường có khi muốn nghe một lời nói thầm quan trọng đến mức người ta không thể bỏ qua bất cứ âm tiết nào.
“Có chuyện gì vậy, Dominique? Em đang nghĩ về cái gì vậy?”
“Tôi đang nghe anh, Gail.”
Cô không nói rằng cô đang nghe những lời của ông và những lý do đằng sau nó. Bỗng nhiên, cô thấy rõ là cô đang lắng nghe những lý do đó như những mệnh đề bổ sung vào mỗi câu ông nói, mặc dù ông không hề biết ông đang để lộ điều gì.
“Thứ tồi tệ nhất về những kẻ không trung thực là quan niệm của họ về sự trung thực.” ông nói. “Tôi biết một người phụ nữ chưa bao giờ tin được điều gì lâu quá ba ngày, nhưng khi tôi nói với bà ta rằng bà ta chẳng hề có sự chính trực, bà ta mím chặt môi và nói rằng quan niệm về sự chính trực của bà ta khác với của tôi; có vẻ như bà ta chưa bao giờ lấy trộm tiền. Chà, người như bà ta không bao giờ gặp nguy hiểm với tôi. Tôi không căm ghét bà ta. Tôi căm ghét cái khái niệm không hề tồn tại mà bà ta say mê một cách cuồng nhiệt, Dominique ạ.”
“Anh căm ghét điều đó thật ư?”
“Tôi đã rất thích thú khi chứng minh điều đó.”
Cô đi lại phía ông và ngồi xuống sàn tàu cạnh ghế ông, những tấm ván tàu nhẵn nhụi và nóng dưới đôi chân trần của cô. Ông tự hỏi tại sao cô nhìn ông thật dịu dàng như vậy. Ông cau mày. Cô biết rằng trong mắt cô vẫn còn đọng lại những điều mà cô vừa nhận ra – và cô nhìn ra phía khác, tránh ánh mắt của ông.
“Gail, tại sao anh lại nói với em tất cả những điều đó? Đó không phải là những gì anh muốn em nghĩ về anh.”
“Không. Không phải. Tại sao tôi lại nói với em bây giờ à? Em muốn biết sự thật à? Bởi vì tôi cần phải nói những điều đó. Bởi vì tôi muốn trung thực với em. Chỉ với em và với chính tôi. Nhưng tôi sẽ không đủ can đảm để nói với em ở bất cứ nơi nào khác. Không phải ở nhà. Không phải ở trong đất liền. Chỉ có ở đây – bởi vì ở đây, mọi thứ dường như không có thực. Có phải không em?”
“Đúng thế.”
“Tôi đã hy vọng rằng em sẽ chấp nhận điều đó – và vẫn nghĩ về tôi như em đã nghĩ và em gọi tên tôi theo cái cách mà tôi muốn ghi âm lại.”
Cô tựa đầu vào ghế của ông, áp mặt vào đầu gối ông, bàn tay cô buông thõng, nhưng ngón tay hơi khép lại trên những tấm ván sàn lấp lánh. Cô không muốn để lộ cái mà cô đã thực sự nghe thấy ông bộc lộ về bản thân ngày hôm nay.
*
* *
Vào một buổi cuối mùa thu, họ cùng nhau đứng bên lan can khu vườn treo trên sân thượng và ngắm nhìn thành phố. Những khung nhà cao làm cho những cửa sổ sáng đèn trông như những dòng suối ánh sáng, nứt ra từ bầu trời đen và nhỏ từng giọt xuống biển lửa khổng lồ ở bên dưới.
“Chúng kia rồi, Dominique – những tòa nhà vĩ đại. Những tòa nhà chọc trời. Em có nhớ không? Chúng là mối liên kết đầu tiên giữa chúng ta. Cả em và tôi đều say mê những tòa nhà này.”
Cô nghĩ rằng đáng ra cô nên khó chịu khi ông tự cho mình cái quyền nói ra những điều này. Nhưng cô chẳng cảm thấy sự bực bội trong lòng.
“Đúng thế, Gail. Em yêu chúng.”
Cô ngắm nhìn những cột ánh sáng thẳng đứng của tòa nhà Cord; cô nhấc những ngón tay lên khỏi lan can, vừa đủ để chạm vào chỗ mà hình dáng của tòa nhà nhập vào nền trời phía xa. Cô cảm thấy tòa nhà ấy không trách cứ cô.
“Anh muốn nhìn thấy một người đứng ở dưới chân của một tòa nhà chọc trời,” ông nói. “Nó làm anh ta nhỏ như con kiến – câu ví von sáo rỗng này thật hợp với trường hợp này đúng không? Những kẻ ngu ngốc đáng nguyền rủa! Chính con người đã tạo nên nó – cả cái khối sắt thép khổng lồ đến mức không thể tin nổi ấy. Cái tòa nhà không hề nuốt chửng anh ta, nó làm cho anh ta vĩ đại hơn cả công trình kiến trúc ấy. Nó làm lộ rõ tầm vóc thực sự của anh ta trong thế giới này. Dominique, điều làm chúng ta say mê những tòa nhà này là khả năng sáng tạo, là bản chất anh hùng của con người.”
“Anh có thích tính anh hùng trong con người không, Gail?”
“Anh thích nghĩ về điều đó, nhưng anh không tin nó.”
Cô tựa vào lan can, ngắm nhìn những vệt sáng xanh lá cây trải thành một vệt dài ở phía xa xa. Cô nói:
“Ước gì em có thể hiểu được anh.”
“Anh tưởng là anh phải rõ ràng với em lắm rồi chứ. Anh không bao giờ giấu em điều gì.”
Ông nhìn những ngọn đèn điện nhấp nháy một cách quy củ trên dòng sông đen ngòm. Rồi ông chỉ một cột ánh sáng mờ mờ màu xanh da trời ở phía nam.
“Đó là tòa nhà Ngọn cờ. Em thấy không, đằng kia – cái cột sáng màu xanh da trời ấy. Anh đã làm rất nhiều việc, nhưng anh vẫn chưa làm một việc – việc quan trọng nhất. Vẫn chưa có một tòa nhà Wynand ở New York. Một ngày nào đó anh sẽ xây dựng trụ sở mới cho tờ Ngọn cờ. Đó sẽ là một công trình vĩ đại nhất thành phố và nó sẽ mang tên anh. Anh đã khởi đầu từ một đống rác tồi tàn và tờ báo có tên là Thời báo. Anh chỉ là một kẻ chạy việc vặt cho những kẻ bẩn thỉu. Nhưng lúc đó anh đã nghĩ đến một ngày, khi tòa nhà Wynand mọc lên. Và anh vẫn luôn nghĩ về nó trong suốt những năm qua.”
“Thế tại sao anh vẫn chưa xây nó?”
“Anh đã không sẵn sàng cho việc này.”
“Tại sao?”
“Bây giờ anh cũng vẫn chưa sẵn sàng làm việc này. Anh không biết tại sao. Anh chỉ biết rằng nó rất quan trọng đối với . Nó sẽ là một biểu tượng cuối cùng. Anh sẽ biết khi nào là thời điểm thích hợp.”
Ông xoay người nhìn về hướng tây, về phía chỉ có những ánh sáng ảm đạm, nằm rải rác. Ông chỉ tay về phía đó:
“Kia là nơi anh sinh ra. Hell’s Kitchen.” Cô chăm chú lắng nghe; rất hiếm khi ông nói về xuất thân của mình. “Khi mười sáu tuổi, anh đã đứng trên một mái nhà và ngắm nhìn thành phố, giống như tối hôm nay. Và anh đã quyết định mình sẽ trở thành người thế nào.”
Giọng điệu của ông như một dấu gạch chân ở dưới khoảnh khắc này; nó như nói với cô: hãy lắng nghe, điều này quan trọng đấy. Không nhìn ông, cô thầm nghĩ rằng đây là những gì cô đã chờ đợi, nó sẽ cho cô lời giải đáp, chìa khóa để mở tâm hồn ông. Những năm về trước, khi nghĩ về Gail Wynand, cô đã băn khoăn rằng không biết một người đàn ông như vậy sẽ đối mặt với cuộc sống và công việc của chính mình như thế nào. Cô đã mong đợi sự khoe khoang và một cảm giác nhục nhã thầm kín, hoặc một sự tự phụ lấn lướt cả cảm giác tội lỗi. Cô nhìn ông. Đầu ông ngẩng cao, ánh mắt nhìn ngang với bầu trời trước mặt; trông ông không hề có bóng dáng bất cứ cảm giác nào mà cô đã mong đợi. Ông toát ra một phẩm chất mà người ta không thể tin là hiện hữu trong bối cảnh này: sự can đảm.
Cô biết đó chính là một cái chìa khóa, nhưng nó làm cho những thắc mắc trong cô càng lớn hơn. Tuy thế, một cái gì đó trong cô vẫn nhận biết nó, vẫn biết công dụng của chiếc chìa khóa đó và nó làm cô cất tiếng:
“Gail, hãy đuổi việc Ellsworth Toohey đi.”
Ông quay về phía cô, ngạc nhiên:
“Tại sao?”
“Gail, hãy nghe em nói,” Giọng nói của cô chứa đựng sự giục giã chưa bao giờ có khi cô nói chuyện với ông. “Em chưa bao giờ muốn ngăn cản Toohey. Thậm chí em từng giúp đỡ ông ta. Em đã nghĩ rằng cái thế giới này xứng đáng với hạng người như thế. Em chưa bao giờ cố gắng cứu lấy bất kỳ cái gì… hoặc bất kỳ ai… khỏi ông ta. Em chưa bao giờ từng nghĩ rằng thứ mà em muón cứu thoát khỏi Toohey lại chính là tờ Ngọn cờ – cái tờ báo tương xứng nhất của ông ta.”
“Em đang nói về chuyện gì thế?”
“Gail, khi cưới anh, em không biết rằng sẽ có lúc em trở nên trung thành với anh như thế này. Nó mâu thuẫn với tất cả những điều em đã từng làm, mâu thuẫn nhiều hơn những gì em có thể nói với anh – nó là một thảm họa với em, một bước ngoặt – đừng hỏi em tại sao – em sẽ mất nhiều năm để hiểu được điều đó – em chỉ biết rằng đây là cái em nợ anh. Đuổi cổ Ellsworth Toohey đi. Hãy tống cổ ông ta đi trước khi quá muộn. Anh đã phá hoại những người ít xấu xa, ít nguy hiểm hơn nhiều so với ông ta. Tống cổ Toohey đi, truy sát ông ta và đừng dừgn lại cho đến khi anh tiêu diệt được ông ta hoàn toàn.”
“Tại sao? Tại sao tự nhiên em lại nghĩ đến ông ta?”
“Bởi vì em biết ông ta đang nhắm tới cái gì?”
“Cái gì vậy?”
“Quyền kiểm soát những tờ báo Wynand.”
Ông cười lớn đó không phải là tiếng cười chế nhạo hay phẫn nộ, mà là một tiếng cười hoàn toàn vô tư trước một câu đùa ngớ ngẩn.
“Gail…” cô khẩn khoản.
“Ôi, vì Chúa, Dominique! Thế mà lúc nào anh cũng tôn trọng khả năng đánh giá của em đấy.”
“Anh chưa bao giờ hiểu được con người Toohey.”
“Và anh không thèm quan tâm tìm hiểu. Em có thể tưởng tượng được việc anh đi theo gót Ellsworth Toohey không? Một cái xe tăng đi đè một con gián? Tại sao anh lại cần phải tống cổ Ellsworth? Ông ta là dạng người kiếm được tiền cho anh. Công chúng thích đọc những câu chuyện nhăng nhít của ông ta. Anh không sa thải những cái bẫy treo tốt như thế. Với anh, ông ta cũng đáng giá như một hũ mật bẫy ruồi.”
“Đấy chính là sự nguy hiểm. Một phần của nó.”
“Đám tín đồ trung thành của ông ta ấy à? Anh từng có hàng tá những kẻ bồi bút lớn hơn và khá hơn thế đang ăn lương. Khi một vài người trong số họ bị tống cổ ra đường, thì số phận họ thế là hết. Danh tiếng của họ chấm hết ở ngưỡng cửa tờ Ngọn cờ. Nhưng tờ Ngọn cờ thì vẫn tiếp tục tồn tại.”
“Đây không phải là chuyện danh tiếng của ông ta. Đây là chuyện bản chất đặc biệt của việc ông ta nổi tiếng. Anh không thể chiến đấu với ông ta theo những luật lệ của ông ta. Anh là một cái xe tăng – đấy là một thứ vũ khí trong sạch và ngây thơ. Một thứ vũ khí hồn nhiên đi tiên phong, một thứ ở ngay tuyến đầu và đè bẹp mọi thứ hoặc là sẽ phải hứng tất cả sự phản công. Còn ông ta là một loại khí ăn mòn. Cái loại ăn dần những lá phổi. Em nghĩ rằng có một bí mật dẫn tới cốt lõi của cái xấu và ông ta nắm được cái bí mật ấy. Em không biết nó là cái gì. Nhưng em biết ông ta dùng nó thế nào và ông ta theo đuổi cái gì.”
“Kiểm soát những tờ báo của Wynand ư?”
“Kiểm soát những tờ báo của Wynand – như một phương tiện để đi đến một cái đích.”
“Đích nào?”
“Kiểm soát cả thế giới này.”
Ông nói với một vẻ phẫn nộ kiềm chế:
“Cái gì thế hả Dominique? Em đùa kiểu gì thế và để làm gì?”
“Em đang rất nghiêm túc, Gail. Em thực sự nghiêm túc.”
“Kiểm soát thế giới, em yêu quý, là công việc của những con người như anh. Những kẻ như Toohey trên trái đất này thậm chí còn không biết cách mơ về điều đó.”
“Em sẽ cố gắng để giải thích. Nó rất khó. Điều khó giải thích nhất chính là những thứ hiển nhiên đập vào mắt khiến người ta không thể nào nhận ra được nữa. Nhưng nếu mà anh chịu khó lắng nghe…”
“Anh sẽ không nghe gì cả. Thứ lỗi cho anh, nhưng bàn luận về việc Ellsworth Toohey là mối hiểm họa với anh là một điều lố bịch. Bình luận về nó một cách nghiêm túc là một sự lăng mạ.”
“Gail, em…”
“Không, em yêu quý. Anh không nghĩ rằng em thực sự hiểu rõ tờ Ngọn cờ. Và anh cũng không muốn em hiểu. Anh không muốn em có một chút liên quan nào đến nó. Quên nó đi. Để nó đấy cho anh.”
“Đây là mệnh lệnh hả Gail?”
“Đây là tối hậu thư.”
“Được thôi.”
“Quên nó đi. Đừng tự chuốc lấy những chứng hoang tưởng sợ hãi về những kẻ vĩ đại như Ellsworth Toohey. Như thế chẳng giống em chút nào cả.”
“Được thôi, Gail. Chúng ta đi vào trong thôi. Ở đây lạnh quá mà anh thì không mang áo khoác.”
Ông tặc lưỡi nhè nhẹ. Từ trước đến giờ, cô chưa từng thể hiện sự quan tâm với ông như thế này. Ông cầm lấy tay cô và hôn vào lòng bàn tay, rồi áp chặt nó vào má mình.
*
* *
Trong nhiều tuần sau đó, khi chỉ có hai người, họ nói rất ít và không bao giờ nói về nhau. Nhưng đó không phải là sự im lặng bực bội, mà là sự im lặng của một mối đồng cảm quá tinh tế, đến mức vượt quá giới hạn của ngôn từ. Buổi tối, họ sẽ ở trong phòng cùng nhau, không chuyện trò, bằng lòng với cảm giác sự hiện diện của người kia. Họ có thể đột nhiên nhìn nhau và cùng mỉm cười, nụ cười quấn quýt như những cái nắm tay.
Thế rồi, một buổi tối, cô biết rằng ông sẽ lên tiếng. Cô ngồi bên bàn trang điểm. Ông đi tới, đứng tựa lưng vào bức tường cạnh cô. Ông ngắm nhìn bàn tay cô, rồi đến đôi vai trần của cô nhưng cô cảm thấy ông dường như không phải ngắm nhìn cô; ông đang ngắm nhìn cái gì đó lớn hơn cả vẻ đẹp của thân thể cô, lớn hơn cả tình yêu mà ông dành cho cô. Ông đang nhìn chính bản thân ông – và điều này, cô biết, là một quà tặng có một không hai.
“Anh hít thở khí trời vì nhu cầu của chính anh, để cung cấp năng lượng cho cơ thể anh, cho sự sống của anh. Anh đã dâng cho em, không phải sự hy sinh hay lòng thương hại của anh, mà là cái tôi của anh và cái nhu cầu trần trụi của anh…” Cô nghe thấy những lời nói của Roark; Roark đang nói thay cho Gail Wynand – và cô không hề cảm thấy sự phản bội với Roark khi để một người đàn ông khác bộc lộ tình yêu với cô bằng những lời nói bộc lộ tình yêu của anh.
“Gail,” cô dịu dàng nói, “một ngày nào đó em sẽ phải xin anh tha thứ vì đã lấy anh.”
Ông lắc đầu nhè nhẹ và mỉm cười. Cô nói:
“Em đã muốn anh trở thành người xích em vào thế giới này. Nhưng thay vào đó, anh lại trở thành hàng rào bảo vệ em khỏi nó. Điều đó làm cho cuộc hôn nhân của em trở nên không thành thật.”
“Không. Anh đã nói với em là anh chấp nhận bất cứ lý do nào em chọn.”
“Nhưng anh đã thay đổi tất cả mọi thứ của em. Hay chính là em đã thay đổi chúng? Em không biết. Chúng ta đã làm một điều kỳ lạ với nhau. Em đã cho anh những gì em muốn từ bỏ. Cái ý nghĩ đặc biệt về sự tồn tại – em đã nghĩ cuộc hôn nhân này sẽ giúp em hủy hoại nó. Cái cảm giác về cuộc sống như một sự thăng hoa. Còn anh – anh đã làm tất cả những việc mà đáng ra em đã phải làm. Anh có biết rằng chúng ta giống nhau đến thế nào không?”
“Anh đã biết điều đó ngay từ đầu.”
“Điều này đáng ra không thể xảy ra. Gail, bây giờ thì em lại muốn ở lại với anh, vì một lý do khác. Để chờ một câu trả lời. Em nghĩ rằng khi em hiểu được con người anh, em cũng sẽ hiểu được bản thân mình. Phải có câu trả lời ở đâu đó. Phải có một tên gọi cho những điều giống nhau của anh và em. Em không biết nó là gì, em chỉ biết rằng điều đó rất quan trọng.”
“Có lẽ thế. Anh đoán là anh cũng nên mong muốn hiểu được nó. Nhưng anh không. Anh không có khả năng quan tâm đến bất cứ cái gì bây giờ. Anh thậm chí không cả có khả năng sợ hãi.”
Cô ngước mắt nhìn ông và bình thản nói:
“Em thì sợ, Gail ạ.”
“Em yêu quý, em sợ cái gì chứ?”
“Những điều mà em đang làm với anh.”
“Tại sao?”
“Em không yêu anh, Gail.”
“Anh thậm chí không thể quan tâm cả đến điều đó.”
Cô gục đầu xuống. Ông nhìn xuống mái tóc của cô, nó tựa như một cái mũ bảo hiểm kim loại được đánh bóng.
“Dominique.”
Cô ngoan ngoãn ngẩng mặt lên nhìn ông.
“Anh yêu em, Dominique. Anh yêu em nhiều đến mức chẳng cái gì còn quan trọng với anh nữa – ngay cả chính em. Em có hiểu được điều đó không? Chỉ có tình yêu của anh – chứ không phải câu trả lời của em. Thậm chí sự thờ ơ của em cũng không. Anh chưa bao giờ tước đoạt cái gì quá lớn từ thế giới này. Anh cũng chẳng ham muốn gì nhiều. Anh chưa bao giờ thực sự mong muốn bất cứ cái gì. Không phải theo kiểu mong muốn tột cùng, mong muốn trọn vẹn; không phải theo kiểu một mong muốn có ý nghĩa như một tối hậu thư, hoặc có hoặc không, và người ta không thể chấp nhận câu trả lời ‘không’ mà lại vẫn có thể sống tiếp được. Em là tất cả những điều đó với anh. Nhưng khi một người đã đạt đến giai đoạn đó, thì cái đối tượng của ham muốn cũng chẳng quan trọng nữa, chỉ có bản thân cái ham muốn là quan trọng. Không phải em, mà là anh. Là cái khả năng ham muốn như thế. Bất cứ cái gì không được như thế đều không đáng cảm nhận hay tôn vinh. Và trước đây anh cũng chưa từng cảm nhận thấy điều này. Dominique, anh chưa bao giờ biết gọi cái gì là ‘của anh’. Không phải theo cách mà anh gọi em là của anh. Của anh. Có phải em đã gọi nó là cảm giác cuộc sống như một sự thăng hoa? Em đã nói thế. Em có hiểu. Anh không thể sợ hãi. Anh yêu em, Dominique, anh yêu em. Em đang để cho anh nói điều đó vào lúc này, anh yêu anh.”
Cô với tay gỡ bức điện tín khỏi cái gương. Cô vò nát nó, những ngón tay chậm rãi vò nát mẩu giấy trong lòng bàn tay. Ông đứng yên, lắng nghe tiếng giấy lạo xạo. Cô cúi người về phía trước, mở bàn tay thả cho mẩu giấy rơi xuống thùng rác. Bàn tay cô giữ nguyên trong giây lát, những ngón tay mở ra, rủ xuống phía dưới, như lúc nó mở ra.