Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ! Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản

Suối Nguồn

Chương II

Tác giả: Ayn Rand

“Sao em lại không đeo chiếc vòng ngọc lục bảo?” Peter Keating hỏi, “Tất cả mọi người đều nhìn chằm chằm vào chiếc vòng sa-phia mà vợ chưa cưới của lão Gordon Prescott đeo.”

“Em xin lỗi, Peter. Lần sau em sẽ đeo nó”, Dominique nói.

“Bữa tiệc thật vui. Em có được vui không?”

“Em luôn luôn vui.”

“Anh cũng thế… Chỉ có điều… Lạy Chúa, em có muốn biết sự thật không?”

“Không.”

“Dominique, anh phát ngấy. Vincent Knowlton là một kẻ chán ngấy. Một tên hợm hĩnh. Anh không thể chịu được hắn.” Anh nói thêm, vẻ lo lắng. “Nhưng anh không để lộ ra đấy chứ?”

“Không, anh cư xử rất hoàn hảo. Anh cười trước các câu pha trò của anh ta, ngay cả khi không có ai cười.”

“Ồ, em nhận ra à? Mánh đấy luôn hiệu quả.”

“Có, em có nhận ra.”

“Em nghĩ là anh không nên làm thế phải không?”

“Em không nói thế.”

“Em nghĩ là nó… bần tiện, đúng không.”

“Em không nghĩ điều gì là bần tiện cả.”

Anh gục đầu sâu hơn trong chiếc ghế bành; tư thế dó làm cằm của anh ép vào ngực một cách khó chịu, nhưng anh không muốn thay đổi tư thế. Ngọn lửa kêu lách cách trong lò sưởi phòng khách. Anh đã tắt hết các đèn, ngoại trừ cây đèn cầy có bóng màu vàng lụa, nhưng ánh sáng trong phòng không tạo ra không khí thư giãn thân mật, mà chỉ làm cho căn phòng thêm xa lạ, như thể một căn hộ bỏ không, bị tắt hết đèn đuốc.

Dominique ngồi ở đầu kia của căn phòng. Tấm thân mảnh dẻ của cô ngoan ngoãn nép vào đường viền của chiếc ghế có lưng thẳng. Trông cô không cứng nhắc, nhưng cô quá tự chủ để có thể coi là đang thư giãn. Chỉ có hai người trong phòng, nhưng cô ngồi như một mệnh phụ phu nhân đang ngồi ở một buổi chiêu đãi công cộng; như một ma-nơ-canh đứng trong một cửa kính ngoài đường – và cửa kính lại ở ngay một ngã tư đông đúc. Họ vừa về nhà từ bữa tiệc trà tại nhà Vincent Knowlton, một anh chàng trẻ tuổi, mới nổi lên trong giới thượng lưu và là người bạn mới của Keating. Họ đã có bữa tối yên tĩnh với nhau, và giờ đây họ rảnh rỗi cả buổi tối. Không còn buổi tiếp tân nào, cho tới ngày hôm sau.

“Lẽ ra em không nên cười khi nói chuyện lý thuyết thần bí với bà Marsh”, anh nói. “Bà ấy tin chuyện đó mà.”

“Em xin lỗi. Em sẽ cẩn thận hơn.”

Anh chờ cô mở đầu một cuộc nói chuyện. Cô không nói gì. Anh đột nhiên nghĩ là chưa bao giờ cô mở lời với anh trước – trong suốt hai mươi tháng họ lấy nhau. Anh tự nhủ rằng điều đó thật vớ vẩn và phi lý, anh cố nhớ lại một dịp nào đó cô gợi chuyện với anh. Chắc chắn là có, anh nhớ là cô đã hỏi anh “Tối nay sẽ về nhà lúc mấy giờ?” hay “Anh có muốn mời nhà Dixon vào bữa tối hôm thứ Ba không” và những câu tương tự.

Anh liếc nhìn cô. Trông cô không có vẻ buồn chán, cũng chẳng có vẻ muốn tảng lờ anh. Cô ngồi đó, tỉnh táo và sẵn sàng, như thể sự có mặt của anh choán hết mọi quan tâm của cô; cô không với tay lấy sách, cô cũng không mơ màng theo đuổi một ý nghĩ riêng nào đó. Cô nhìn thẳng vào anh – chứ không nhìn lướt qua anh- như thể cô đang chờ đợi một cuộc nói chuyện.

Anh nhận thấy cô luôn nhìn thẳng vào anh, đúng như thế này; và anh tự hỏi không biết anh có thích việc đó không. Có, anh có thích, nó cho phép anh không có lý do nào để ghen tuông, ngay cả với những ý nghĩ thầm kín của cô. Không, anh không thích, không hoàn toàn thích, nó không để lại một lối thoát nào, cho cả anh và cô.

“Anh vừa đọc xong cuốn Viên sỏi mật dũng cảm“, anh nói “Một cuốn sách xuất sắc. Sản phẩm của một bộ não xuất chúng, một anh chàng Puck với nước mắt chảy ròng ròng trên mặt,[106] một gã hề có trái tim vàng đang nắm giữ ngai vàng của Thượng đế trong giây lát.”

“Em cũng đọc bài điểm sách ấy. Trên tờ Ngọn cờ hôm Chủ nhật.”

“Anh đã đọc cả cuốn sách đó. Em biết là anh đã đọc mà.”

“Anh thật là tốt.”

“Sao cơ?” Anh nghe thấy sự tán đồng trong giọng cô và cảm thấy hài lòng.

“Như thế là chu đáo với tác giả. Em chắc chắn là bà ấy muốn mọi người đọc sách của bà ấy. Thế nên thật tốt khi anh bỏ thời gian ra đọc – nhất là khi anh đã biết trước anh sẽ nghĩ gì về nó.”

“Anh không hề biết trước. Có điều, thật tình cờ là anh lại đồng ý với người điểm sách.”

“Tờ Ngọn cờ có những người điểm sách giỏi nhất.”

“Đúng vậy. Tất nhiên. Thế nên chẳng có gì sai trái khi đồng tình với họ phải không?”

“Chẳng có gì sai cả. Em luôn luôn đồng ý.”

“Với ai?”

“Với tất cả mọi người.”

“Em đang nhạo báng anh đấy à?”

“Anh có cho em lý do nào để nhạo báng không?”

“Không. Anh không. Không, tất nhiên là không.”

“Thế thì em không nhạo báng anh.”

Anh chờ đợi. Anh lắng nghe tiếng xe tải rú lên ở đường phố phía dưới. Tiếng động đó giúp lấp đi vài giây đồng hồ, nhưng khi nó lắng xuống, anh lại phải tiếp tục nói:

“Dominique, anh muốn biết em nghĩ gì.”

“Về cái gì cơ?”

“Về… về…” Anh tìm kiếm một chủ đề quan trọng và kết thúc bằng: “… về Vincent Knowlton.”

“Em nghĩ anh ta là người xứng đáng được người khác liếm mông.”

“Lạy Chúa, Dominique!”

“Em xin lỗi. Em đã dùng từ thô tục và cư xử không hay. Rõ là em sai rồi. Được rồi, để xem nào: Vincent Knowlton là người dễ chịu. Các gia đình dòng dõi cần phải được châm chước và chúng ta cần phải khoan dung với quan điểm của những người khác, bởi vì khoan dung là một phẩm chất tuyệt vời, và do đó sẽ là bất công khi anh áp đặt quan điểm của anh lên Vincent Knowlton, và nếu như anh để choa ta tin những điều anh ta muốn tin thì rồi anh ta cũng sẽ sẵn lòng để anh tin những điều anh muốn tin, bởi vì anh ta là một người rất có lòng nhân.”

“Nào, thế mới phải chứ”, Keating nói; anh cảm thấy thoải mái với thứ ngôn ngữ quen thuộc.

“Anh nghĩ khoan dung là rất quan trọng, bởi vì…” Anh dừng lại. Anh kết thúc, bằng một giọng trống rỗng “Em đã nói y hệt như thế trước đây.”

“Anh nhận ra à,” cô nói. Cô nói mà không phải để hỏi, một cách thờ ơ, như thể là một chuyện đương nhiên. Đó không phải là sự châm biếm – thà như vậy còn hơn; châm biếm còn có nghĩa là cô thừa nhận cá nhân con người anh – thừa nhận cái ham muốn làm anh tổn thương. Nhưng giọng của cô chưa bao giờ hàm chứa một quan hệ cá nhân nào với anh – chưa hề, trong suốt cả hai mươi tháng.

Anh nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Đây chính là điều làm một người đàn ông cảm thấy hạnh phúc – được ngồi, nhìn mơ màng vào ngọn lửa từ chính lò sưởi của mình, trong căn nhà của chính mình. Anh vẫn hay nghe thấy và đọc thấy như thế. Anh nhìn chằm chằm vào ngọn lửa, không nháy mắt, cố ép mình tuân thủ hoàn toàn cái chân lý đã được xác lập ấy. Chỉ thêm một phút nữa thôi và ta sẽ cảm thấy hạnh phúc – anh nghĩ và cố tập trung. Nhưng chẳng có gì xảy ra.

Anh nghĩ tới việc anh có thể mô tả cảnh tượng này một cách thuyết phục như thế nào cho bạn bè và khiến họ ghen tỵ với sự viên mãn của anh. Tại sao anh lại không thể tự thuyết phục chính mình? Anh đã có tất cả những thứ mà anh muốn. Anh muốn sự nổi trội – và trong cả năm vừa qua anh trở thành một thủ lĩnh không thể chối cãi trong ngành kiến trúc. Anh muốn nổi tiếng – và anh đã có năm album sưu tập đầy ắp các bài báo viết về anh. Anh muốn giàu có – và anh đã có đủ để sống xa hoa tới hết đời. Anh có tất cả những thứ mà mọi người đều muốn. Đã có bao nhiêu người cũng phấn đấu và chịu đựng để đạt được những gì anh đã có? Đã có bao nhiêu người mơ ước, đổ máu và chết vì những thứ này, và vẫn không thể có được chúng?

“Peter Keating là người may mắn nhất thế giới.” Đã bao nhiêu lần anh nghe thấy người ta nói như thế?

Năm ngoái là năm tốt nhất trong đời anh. Anh đã có thêm một vật sở hữu tưởng như không thể có được – đó là Dominique Francon. Thật sung sướng được cười thoải mái khi bạn bè nhiều lần hỏi anh “Peter, làm thế quái nào mà anh làm được thế nhỉ?” Anh từng vui sướng khi giới thiệu cô với người lạ, bằng câu nói đơn giản “Vợ tôi”, rồi ngắm nhìn sự ghen tỵ thẫn thờ, không kiểm soát được trong mắt họ. Một lần, tại một bữa tiệc lớn, một gã say rượu trông rất hào nhoáng đã hỏi anh, với một cái nháy mắt thể hiện dụng ý rõ ràng: “Nào, anh bạn, anh có quen tạo vật tuyệt vời ở đằng kia không?”

“Cũng hơi quen”, Keating đã sung sướng trả lời, “cô ấy là vợ tôi.”

Anh thường tự lấy làm mừng vì cuộc hôn nhân của họ hóa ra tốt đẹp hơn anh từng nghĩ. Dominique đã trở thành người vợ lý tưởng. Cô cống hiến hết mình cho lợi ích của anh: cô lấy lòng các khách hàng, cô tiếp đãi bạn bè và trông coi ngôi nhà của anh. Cô không thay đổi bất cứ thứ gì trong cuộc sống của anh: giờ giấc, món ăn anh thích, ngay cả đến cách sắp xếp đồ đạc của anh. Cô không mang theo bất kỳ cái gì, ngoài quần áo của cô; cô không mua thêm dù chỉ một quyển sách hay một chiếc gạt tàn cho căn nhà của anh. Khi anh nói quan điểm của mình về bất kỳ chủ đề gì, cô không tranh cãi mà luôn đồng ý với anh. Một cách duyên dáng, như lẽ tự nhiên phải thế, cô luôn chấp nhận vị trí thứ hai, và biến mất ở đằng sau anh.

Anh đã từng chờ đợi một cơn lũ sẽ nhấc anh lên và ném anh vào các tảng đá ngầm nào đó. Nhưng anh thậm chí không thấy cả một nhánh suối nào trên dòng sông phẳng lặng của anh. Tất cả diễn ra như thể dòng sông cứ tiếp tục chảy và có ai đó lặng lẽ bơi theo dòng cùng với anh; không, thậm chí không phải là bơi – bơi là một hành động mạnh mẽ, có ý thức – còn ở đây chỉ là sự lờ lững trôi theo sau anh cùng với dòng nước. Nếu như người ta cho anh quyền quyết định cách cư xử của Dominique sau khi họ cưới nhau, hẳn anh cũng sẽ đòi hỏi cô hành xử y hệt như hiện nay.

Chỉ có điều, những buổi tối của họ luôn khiến cho anh bất mãn một cách khốn khổ. Cô chiều theo anh bất cứ khi nào anh muốn cô. Nhưng chuyện xảy ra cũng giống y như đêm đầu tiên của họ: một thân thể ơ thờ trong vòng tay anh, không xúc cảm, không đáp lại. Cho tới tận bây giờ, đối với anh, cô vẫn là một trinh nữ vì anh chưa từng bắt cô phải trải qua kinh nghiệm gì mới. Mỗi lần như thế, lòng tràn ngập hổ thẹn, anh lại quyết định sẽ không bao giờ chạm vào người cô nữa. Nhưng ham muốn của anh lại trở lại, được kích thích bởi sắc đẹp hiện hữu liên tục của cô. Anh đầu hàng mỗi khi anh không thể cưỡng được nữa. Nhưng việc đó cũng không thường xuyên.

Chính mẹ anh là người đã nói ra điều mà anh không dám tự thú nhận với bản thân về cuộc hôn nhân này. “Mẹ không thể chịu đựng được”, mẹ anh nói, sáu tháng sau đám cưới. “Nếu nó giận dữ với mẹ dù chỉ một lần, chửi bới mẹ, ném các thứ vào người mẹ thì còn có thể chấp nhận được. Nhưng như thế này thì mẹ không thể chịu được.”

“Sao hả mẹ?”, anh hỏi, cảm thấy mơ hồ một nỗi sợ hãi tê điếng. “Vô ích thôi, Peter,” bà mẹ trả lời. Mẹ anh, người mà anh chưa bao giờ có thể ngăn những ý kiến, quan điểm, hay lời trách móc của bà, không bao giờ nói thêm một lời nào nữa về cuộc hôn nhân của anh. Bà mua một căn hộ nhỏ cho riêng mình và chuyển ra khỏi nhà anh. Bà thường xuyên đến thăm anh và luôn luôn lịch sự với Dominique, với một vẻ cam chịu kỳ lạ. Anh thường tự bảo mình là anh sẽ sung sướng khi không phải sống cùng mẹ anh, nhưng rồi anh đã không thấy sung sướng. Anh cũng không hiểu Dominique đã làm gì để có thể gây ra nỗi kinh sợ ngày càng tăng trong anh. Anh không thể tìm được một lời nói hay cử chỉ nào để trách móc cô. Nhưng trong vòng hai mươi tháng qua, lúc nào cũng giống như đêm nay: anh không thể chịu được nếu phải ở một mình với cô, nhưng anh cũng không muốn tách ra khỏi cô và cô cũng không muốn tránh mặt anh.

“Không có ai đến chơi tối nay à?” anh hỏi bằng một giọng đơn điệu và quay mặt khỏi lò sưởi.

“Không”, cô trả lời, và mỉm cười – nụ cười như cầu nối với các từ tiếp theo của cô: “Anh muốn ở một mình không, Peter?”

“Không!” Nó gần như là một tiếng gào. Mình không được kêu gào giống như một kẻ tuyệt vọng như thế, anh nghĩ, trong khi nói to “tất nhiên là không. Anh rất thích khi có cả một buổi tối riêng với vợ anh.”

Anh cảm thấy trực giác mơ hồ mách bảo là anh phải giải quyết được chuyện này, phải biết cách làm cho những giây phút họ ở bên cạnh nhau trở nên có thể chịu được, và anh không được trốn chạy khỏi chúng. Và anh phải làm việc đó là vì lợi ích của chính anh chứ không phải vì cô.

“Em muốn làm gì tối nay, Dominique?”

“Bất cứ điều gì anh muốn.”

“Đi xem phim nhé?”

“Anh có muốn không?”

“Anh không biết. Nó giúp giết thời gian.”

“Tốt thôi, nào hãy giết thời gian.”

“Không. Tại sao chúng ta lại phải thế? Điều đó nghe thật tệ.”

“Thật ư?”

“Tại sao chúng ta lại phải chạy khỏi căn nhà của chính mình? Hãy ở lại đây.”

“Vâng, Peter.”

Anh chờ đợi. Nhưng im lặng, anh nghĩ, cũng là chạy trốn, và còn là sự chạy trốn tồi tệ hơn.

“Em có muốn chơi trò Ngân hàng Nga không?”[107] anh hỏi.

“Anh thích chơi Ngân hàng Nga không?”

“Dào, nó giết thời…” Anh dừng lại. Cô mỉm cười.

“Dominique”, anh nói, nhìn vào cô, “em đẹp quá. Em luôn luôn rất… rất, hết sức đẹp. Anh luôn muốn nói cho em biết anh cảm thấy như thế nào.”

“Em muốn nghe anh cảm thấy như thế nào, Peter.”

“Anh rất thích ngắm nhìn em. Anh luôn nghĩ tới những gì Gordon Prescott nói. Lão ấy bảo em là một công trình hoàn hảo của Thượng đế về toán kết cấu. Còn Vincent Knowlton thì nói em là một buổi sáng mùa xuân. Và Ellsworth – Ellsworth bảo rằng em như một sự nhạo báng với tất cả thân thể phụ nữ trên trái đất này.”

“Thế còn Ralston Holcombe?” cô hỏi.

“Thôi, không nói nữa”, anh đột ngột ngắt lời, và quay mặt lại lò sưởi.

Mình biết tại sao mình không thể chịu được sự im lặng, anh nghĩ. Đó là vì đối với cô ta thì việc mình nói hay không nói chẳng có gì khác nhau, cứ như thể mình không tồn tại và chưa bao giờ tồn tại… điều này còn khó chấp nhận hơn là cái chết – vì như thế có nghĩa là chưa bao giờ được sinh ra… Anh đột nhiên cảm thấy một ham muốn tuyệt vọng mà anh không thể gọi tên – ham muốn được trở nên có thật đối với cô.

“Dominique, em có biết anh đang nghĩ gì không?” anh hỏi một cách hăm hở.

“Em không. Anh đang nghĩ gì?”

“Anh đã nghĩ về nó trong một thời gian, và hoàn toàn một mình. Anh chưa từng nói về nó cho bất kỳ ai. Và cũng không ai gợi ý cho anh. Nó là ý tưởng của anh.”

“Thế thật tốt. Anh nghĩ gì?”

“Anh nghĩ anh muốn chuyển đến vùng nông thôn và xây một ngôi nhà cho chúng ta. Em có thích như thế không?”

“Em rất thích. Cũng như anh vậy. Anh sẽ tự thiết kế nhà chứ?”

“Đời nào! Không. Bennett sẽ vẽ cho anh. Anh ta thiết kế tất cả các căn nhà nông thôn cho hãng. Anh ta là bậc thầy về loại nhà này.”

“Anh thích đi lại hàng ngày giữa nhà và nơi làm việc?”

“Không, anh rất ghét chuyện đó. Nhưng em biết đấy, ngày nay tất cả những người có danh phận một tí đều sống như vậy. Anh cảm thấy mình như một thằng nhà nghèo chết dẫm khi phải thú nhận là anh đang sống ở trong thành phố.”

“Anh có thích ngắm cây cối, vườn tược và thiên nhiên xung quanh anh không?”

“Toàn những thứ vô bổ. Anh làm gì có thời gian chứ? Một cái cây chỉ là một cái cây. Khi xem một đoạn phim tài liệu về khu rừng trong mùa xuân là chúng ta đã thấy hết cả rồi.”

“Anh có thích làm vườn không? Người ta bảo tự tay vun xới đất đai là một việc làm rất dễ chịu.”

“Chúa ơi, không đời nào! Em nghĩ chúng ta là hạng người nào thế? Chúng ta đủ tiền thuê một người làm vườn, thậm chí một người làm vườn giỏi – và khu vườn của chúng ta sẽ khiến cho hàng xóm phải lác mắt.”

“Anh có muốn thử chơi một môn thể thao nào không?”

“Ừ. Anh muốn thế.”

“Môn gì?”

“Anh nghĩ anh chơi golf thì tốt hơn. Em biết đấy, là thành viên của một câu lạc bộ golf ngay tại cộng đồng mà mình là thành viên ưu tú sẽ khác hẳn với việc thỉnh thoảng đi chơi golf vào ngày cuối tuần. Và những người mình sẽ gặp ở đó cũng sẽ khác. Thuộc tầng lớp cao hơn nhiều. Và các mối quan hệ mà mình có thể có được…” Anh tự giật mình, và nói thêm một cách giận dữ. “Anh cũng sẽ thử cưỡi ngựa.”

“Em thích cưỡi ngựa. Anh có thích không?”

“Anh chưa bao giờ có nhiều thời gian để cưỡi ngựa. Với lại chơi môn này quả thật là xóc bụng. Nhưng Gordon Prescott là cái thá gì mà dám cho rằng hắn là đấng mày râu duy nhất trên trái đất và hắn trưng ảnh hắn mặc đồ cưỡi ngựa ngay trong phòng khách.”

“Em đoán là anh muốn có một chút riêng tư?”

“Hừm, anh không tin vào mấy thứ linh tinh kiểu ốc đảo này nọ. Anh nghĩ căn nhà cần nằm gần xa lộ lớn, để mọi người có thể chỉ trỏ nhau rằng đây là biệt thự nhà Keating. Claude Stengel là cái thá gì mà đã có biệt thự ở nông thôn trong khi anh vẫn phải sống trong một căn hộ cho thuê? Hắn bắt đầu sự nghiệp vào cùng khoảng thời gian với anh, và xem thử hắn đã làm được gì và anh đã làm được gì, đấy, may lắm thì hắn cũng chỉ có được hai người rưỡi từng nghe tới tên hắn, thế mà tại sao hắn lại có nhà ở Westchester và…” Anh dừng lại. Cô nhìn vào anh, khuôn mặt bình thản.

“Quỷ tha ma bắt!”, anh kêu lên “nếu em không muốn chuyển tới sống ở nông thôn, sao em không nói toẹt ra?”

“Em rất muốn làm bất cứ điều gì anh muốn, Peter. Em muốn tuân theo tất cả những ý kiến mà anh tự mình có được.”

Anh ngồi lặng yên một lúc lâu.

“Tối mai chúng ta sẽ làm gì?” anh hỏi trước khi có thể kiềm chế được mình.

Cô đứng dậy, bước tới bàn và lấy cuốn lịch của mình.

“Chúng ta sẽ ăn tối với nhà Palmer vào tối mai,” cô nói.

“Chúa tôi!”, anh than vãn “Bọn họ thật chán ngấy! Tại sao chúng ta phải ăn tối với họ chứ?”

Cô đứng, những đầu ngón tay kẹp quyển lịch ngửa về phía trước, như thể cô là một tấm ảnh mà trọng tâm là quyển lịch còn hình hài chính của cô thì nhòe đi để làm nền cho nó.

“Chúng ta phải ăn tối với nhà Palmer”, cô nói “để có thể nhận được hợp đồng nhà kho mới của họ. Chúng ta phải có hợp đồng này để có cái mà nói chuyện trong bữa tối với nhà Eddington vào thứ Bảy. Nhà Eddington không có hợp đồng nào cho chúng ta, nhưng họ có tên trong Danh mục Đăng ký Xã hội. Nhà Palmer làm anh phán chán và nhà Eddington thì khinh bỉ anh. Nhưng anh phải tâng bốc những người mà anh khinh bỉ để có thể gây ấn tượng được với những người khinh bỉ anh.”..

“Tại sao em cứ phải nói những điều như thế?”

“Anh có muốn xem cuốn lịch này không, Peter?”

“Thì ai mà chả làm như vậy. Tất cả mọi người đều sống vì những thứ đó.”

“Phải, Peter. Hầu như tất cả mọi người.”

“Nếu em không đồng ý thì tại sao em không nói?”

“Em đã nói câu nào về chuyện không đồng ý chưa?”

Anh cẩn thận nhớ lại. “Không”, anh thừa nhận “Không, em chưa nói… Nhưng cái cách mà em nói…”

“Thế anh có thích em nói ý kiến của em không – như là em đã nói về Vincent Knowlton?”

“Anh muốn…” và anh kêu lên – “Anh muốn em bày tỏ quan điểm, quỷ bắt tôi đi, dù chỉ một lần!”

Cô hỏi lại, vẫn với giọng đơn điệu như cũ: “Quan điểm của ai cơ hả Peter? Của Gordon Prescott? Của Ralston Holcombe? Hay của Ellsworth Toohey?”

Anh quay sang cô, dựa vào tay ghế, nửa như nhổm dậy và đột nhiên căng thẳng. Cái tồn tại giữa họ bắt đầu có hình hài rõ ràng. Anh có được những từ đầu tiên để có thể gọi tên nó.

“Dominique,” anh nói nhẹ nhàng và chừng mực, “chính là thế đấy. Giờ thì anh biết. Giờ thì anh biết vấn đề trong cuộc sống của chúng ta là gì.”

“Đã có vấn đề gì sao?”

“Chờ đã. Việc này rất quan trọng. Dominique, em chưa bao giờ nói, dù chỉ một lần, em nghĩ gì. Dù là về cái gì. Em chưa bao giờ bộc lộ một ham muốn. Bất kể là ham muốn gì.”

“Như thế thì có gì sai?”

“Nhưng như thế… như thế giống như là chết. Em không có thực. Em chỉ là một cái xác. Nghe này, Dominique, em không biết đâu, anh sẽ cố giải thích. Em biết chết là thế nào chứ? Khi phần xác không thể cử động, khi nó không có… không có ý chí, không có ý nghĩa. Em hiểu không? Không có gì cả. Hoàn toàn không có gì. Tất nhiên, thân thể em vẫn cử động – nhưng chỉ có mỗi thế thôi. Phần kia, cái phần ở bên trong em, phần – ồ, đừng hiểu lầm anh, anh không nói tới tôn giáo, nhưng không có từ nào thay thế cho nó, nên anh sẽ nói: phần linh hồn của em – linh hồn của em không tồn tại. Không ý chí, không ý nghĩa. Sẽ không còn thực sự là em nữa.”

“Thế thực sự em là cái gì?” – Cô hỏi. Lần đầu tiên, trông cô tỏ ra quan tâm. Cô không hào hứng, nhưng ít nhất là có quan tâm.

“Một người thực sự là gì à?” – anh nói, cảm thấy được khích lệ, “đó không chỉ là thân thể. Đó là… đó là linh hồn.”

“Linh hồn là gì?”

“Là – em. Là cái ở bên trong em.”

“Là cái khiến ta suy nghĩ, đánh giá và ra quyết định.”

“Đúng vậy! Đúng rồi, chính nó. Và là cái biết cảm giác nữa. Em – em đã đánh mất nó.”

“Như thế là có hai thứ mà chúng ta không thể đánh mất là ý nghĩ và ham muốn phải không?”

“Đúng rồi! Ồ, em có hiểu đấy chứ! Đấy, em thấy đấy, em giống như một cái xác với tất cả những người quanh em. Như một cái xác chết biết đi. Nó còn tồi tệ hơn bất cứ một tội ác thực sự nào. Nó là…”

“Sự trống rỗng?”

“Đúng. Hoàn toàn trống rỗng. Em không ở đây. Em chưa bao giờ ở đây cả. Nếu em bảo với anh là tấm rèm trong căn phòng này trông thật nhơ nhuốc rồi em xé bỏ nó để thay bằng cái khác mà em thích – như thế tức là em còn có thực, em ở đây, trong căn phòng này. Nhưng em chưa bao giờ làm thế cả. Em chưa bao giờ nói với đầu bếp là em thích tráng miệng gì vào bữa tối. Em không ở đây, Dominique. Em không hề sống. Cái Tôi của em ở đâu thế?”

“Của anh thì ở đâu, Peter?” cô hỏi lặng lẽ.

Anh ngồi yên, mắt mở to. Cô hiểu rằng ý nghĩ của anh, trong phút này, hiện ra rõ ràng và trực tiếp như thể anh đang nhìn thấy nó, và việc anh suy nghĩ cũng giống như việc nhìn vào những năm tháng đã nối nhau ở lại sau lưng anh.

“Không đúng”, cuối cùng anh nói, giọng trống rỗng, “Không phải thế.”

“Cái gì không đúng?”

“Điều em vừa nói.”

“Em không nói gì cả. Em chỉ hỏi anh một câu hỏi.”

Mắt anh cầu xin cô hãy nói, hãy phủ nhận. Cô đứng dậy trước mặt anh; dáng người thẳng đứng của cô là dấu hiệu của sự sống, một sự sống mà anh đã đánh mất và đang cầu xin; nó biểu hiện một mục đích, và đó là biểu hiện của một vị quan tòa.

“Anh bắt đầu nhận ra rồi phải không, Peter? Em sẽ làm rõ hơn nhé. Anh chưa bao giờ muốn em có thực. Anh chưa bao giờ muốn bất kỳ ai có thực. Nhưng anh không muốn bộc lộ ra. Anh muốn người ta đóng kịch để giúp cho vai kịch của anh – một vai kịch đẹp đẽ, phức tạp với tất cả những sự kịch tính, sự tỉa tót, và lời lẽ của nó. Tất cả chỉ là lời lẽ. Anh không thích những gì em nói về Vincent Knowlton. Nhưng anh thích nếu em nói những điều y hệt vậy dưới vỏ bọc của đức hạnh. Anh không muốn em thực sự tin. Anh chỉ muốn em làm anh nghĩ là em tin vào điều đó.

Linh hồn của em ư, Peter? Nó chỉ có thực khi nó tồn tại độc lập – anh nhận ra rồi phải không? Nó chỉ có thực khi nó chọn rèm cửa và món tráng miệng – anh nói đúng điểm này – rèm cửa, món tráng miệng, tôn giáo, Peter, và kiến trúc các tòa nhà nữa. Nhưng anh chưa bao giờ muốn thế. Anh muốn một chiếc gương. Mọi người đều không muốn gì khác ngoài những chiếc gương xung quanh họ. Để phản chiếu họ trong khi họ cũng phản chiếu những thứ khác. Anh biết đáy, giống như những hình ảnh vô tận vớ vẩn khi anh đặt hai chiếc gương đối diện nhau trong một khoảng không hẹp. Họ vẫn hay đặt thế ở những loại khách sạn rẻ tiền. Phản chiếu của phản chiếu và tiếng vọng của tiếng vọng. Không có khởi đầu và không có kết thúc. Không có trung tâm và không có mục đích. Em đã cho anh cái mà anh muốn. Em trở thành người như anh, như bạn bè anh, như hầu hết loài người đang cố gắng trở thành – nhưng em không thèm rườm rà trang điểm. Em không mất công đọc hết các bài điểm sách để che giấu sự thiếu khả năng xét đoán của bản thân – em nói thẳng là em không có khả năng xét đoán. Em không vay mượn các thiết kế để che giấu sự bất lực trong sáng tạo – em chẳng sáng tạo gì cả. Em không nói rằng bình đẳng là một khái niệm cao cả và đoàn kết là mục đích chính của loài người – em cứ thế đồng ý với tất cả mọi người. Anh gọi đó là cái chết ư, Peter? Cái chết đó – em đã phủ nó lên anh và tất cả những người xung quanh chúng ta. Nhưng còn anh – anh không làm điều đó. Mọi người đều thoải mái khi ở bên cạnh anh, họ thích anh, họ thích sự có mặt của anh. Anh không phủ lên họ cái chết trống rỗng. Bởi vì anh đã phủ nó lên chính bản thân anh.”

Anh không nói gì. Cô bước ra xa khỏi anh, và lại ngồi xuống, chờ đợi.

Anh đứng dậy. Anh bước vài bước về phía cô. Anh nói: “Dominique…” Sau đó anh quỳ xuống trước mặt cô, nắm chặt lấy cô, đầu anh gục xuống chân cô.

“Dominique, điều đó không đúng – không phải là anh chưa bao giờ yêu em. Anh yêu em, anh luôn yêu em, chứ không phải là… chỉ để chứng tỏ cho người khác – hoàn toàn không phải thế – anh có yêu em. Có hai người – em và một người nữa, một người đàn ông, người đó cũng luôn làm anh cảm thấy có cùng cảm giác – không hẳn là nỗi sợ, mà giống như một bức tường, một bức tường thẳng đứng khó trèo – như mệnh lệnh bắt phải tiến lên – anh không biết từ đâu – nhưng là cảm giác tiến lên – anh luôn căm ghét người đó – nhưng với em, anh muốn em – lúc nào cũng muốn – đó là lý do anh cưới em – dù lúc đó anh biết là em khinh bỉ anh – lẽ ra em nên tha đừng lấy anh – lẽ ra em không nên trả thù như thế này – không phải như thế này, Dominique – Dominique, anh không thể chống lại, anh…”

“Người đàn ông anh ghét là ai, Peter?”

“Điều đó không quan trọng.”

“Anh ta là ai?”

“Không ai cả. Anh…”

“Nói tên anh ta đi.”

“Howard Roark.”

Cô im lặng một lúc lâu. Rồi cô đặt tay lên tóc anh. Cử chỉ đó có một vẻ dịu dàng.

“Em chưa bao gờ muốn trả thù anh, Peter”, cô nói nhẹ nhàng.

“Thế thì – tại sao?”

“Em cưới anh vì lý do riêng của em. Em đã hành động như cái thế giới này đòi hỏi người ta phải thế. Chỉ có điều em không thể làm gì nửa chừng được. Những người làm được thế đều có một vết nứt ở đâu đó bên trong họ. Hầu hết mọi người có nhiều vết nứt như thế. Họ tự lừa dối bản thân – và họ không biết như thế. Em chưa bao giờ tự lừa dối mình. Và vì thế em phải làm những gì mà tất cả người khác đều làm – chỉ có điều nhất quán và trọn vẹn hơn. Có thể em đã hủy hoại anh. Nếu em còn có thể quan tâm tới việc này, thì em sẽ nói là em xin lỗi. Đó không phải mục đích của em.”

“Dominique, anh yêu em. Nhưng anh sợ. Vì em đã thay đổi điều gì đó ở trong anh, kể từ đám cưới của chúng ta, kể từ lúc anh trả lời đồng ý với em – ngay cả nếu bây giờ anh đánh mất em, anh cũng không thể nào trở lại như khi chưa có em – em đã lấy đi một cái gì đó mà anh có…”

“Không, em lấy đi cái mà anh chưa bao giờ có. Em cho rằng như thế còn tồi tệ hơn với anh.”

“Cái gì cơ?”

“Người ta vẫn nói điều tồi tệ nhất mà ta có thể làm với một người là giết chết lòng tự trọng của anh ta. Nhưng điều đó không đúng. Lòng tự trọng là cái không thể bị giết chết. Điều tồi tệ nhất phải là giết chết khả năng giả vờ có lòng tự trọng.”

“Dominique, anh… anh không muốn nói tiếp nữa.”

Cô nhìn xuống khuôn mặt anh đang ngả trên đầu gối cô, và anh thấy sự thương hại trong mắt cô. Trong chốc lát, anh nhận ra lòng thương hại thực sự mới kinh khủng làm sao. Nhưng anh không còn biết gì về nó nữa, bởi vì anh đã đóng chặt trí óc mình trước những lời lẽ mà anh sắp sửa dùng để định nghĩa cảm giác ấy.

Cô cúi người và hôn lên trán anh. Đó là nụ hôn đầu tiên cô dành cho anh.

“Em không muốn anh phải đau khổ, Peter”, cô nói dịu dàng “Những gì anh đang thấy, vào lúc này, mới là thực – đây chính là em – là lời lẽ của em – Em không muốn anh đau khổ – Em không cảm thấy gì khác – nhưng em biết chắc em không muốn anh đau khổ.”

Anh áp môi mình vào bàn tay cô. Khi anh ngẩng đầu dậy, cô nhìn anh như thể, trong giây lát, anh đúng là chồng cô. Cô nói: “Peter, nếu anh có thể bám lấy nó – nếu anh có thể giữ anh như chính anh lúc này.”

“Anh yêu em”, anh nói.

Họ ngồi im lặng với nhau rất lâu. Anh không cảm thấy căng thẳng trong những phút im lặng đó.

Điện thoại reo.

Không phải là tiếng chuông điện thoại mà chính là vẻ hớn hở khi Keating bật dậy và chạy tới trả lời điện thoại đã phá vỡ khoảnh khắc họ đang có. Cô nghe thấy tiếng anh qua khung cửa để ngỏ, giọng nói suồng sã với vẻ nhẹ nhõm: “Alô?… Ồ, xin chào, Ellsworth!… Không, không có gì cả… Rảnh rỗi như chim trời… Tất nhiên rồi, ông đến đi, đến ngay đi!… Được rồi!”.

“Là Ellsworth” – anh nói khi quay lại phòng khách. Giọng anh vui vẻ và có chút đắc thắng – “Ông ấy muốn đến chơi.”

Cô không nói gì.

Anh tất bật đi đổ cái gạt tàn chỉ chứa một que diêm hay một mẩu thuốc. Anh vơ gọn đống báo. Anh thêm củi vào lò sưởi một cách không cần thiết. Anh thắp sáng thêm đèn. Anh huýt sáo một giai điệu từ một trích đoạn opera nào đó.

Anh chạy vội ra mở cửa khi nghe thấy tiếng chuông.

“Đẹp làm sao”, Toohey nói khi bước vào “Một lò sưởi và một đôi vợ chồng. Xin chào Dominique. Hy vọng là tôi không quấy rầy chứ.”

“Chào Ellsworth”, cô nói.

“Ông không bao giờ quấy rầy cả”, Keating nói, “Tôi không thể nói cho ông biết là tôi vui mừng thế nào khi gặp lại ông.” Anh đẩy một chiếc ghế về phía lò sưởi. “Ngồi xuống đây, Ellsworth. Có chuyện gì đây? Ông biết không, khi tôi nghe thấy giọng ông trên điện thoại… tôi đã muốn nhảy lên và sủa như chó cún vậy.”

“Nhưng đừng có vẫy đuôi,” Toohey nói. “Không, tôi không uống gì đâu, cảm ơn. Cô thế nào, Dominique?”

“Vẫn như tôi cách đây một năm,” cô nói.

“Nhưng không như cô cách đây hai năm?”

“Không.”

“Tầm này cách đây hai năm, chúng ta làm gì nhỉ?” Keating hỏi vu vơ.

“Anh chưa cưới vợ” – Toohey nói. “Thời tiền sử. Để tôi xem, lúc đó có chuyện gì xảy ra. Tôi nghĩ khi đó Đền Stoddard vừa mới xây xong.”

“À, cái đó,” Keating nói.

Toohey hỏi: “Anh có nghe thấy tin tức gì về cậu Roark bạn anh không Peter?”

“Không. Tôi nghĩ là cậu ta không có việc gì làm cả năm vừa rồi. Lần này thì cậu ấy đi đứt rồi.”

“Đúng, tôi cũng nghĩ vậy… Gần đây anh làm gì, Peter?”

“Cũng không có gì nhiều… À, tôi vừa mới đọc xong cuốn Viên sỏi mật dũng cảm.”

“Thích nó chứ?”

“Vâng! Ông biết đấy, tôi nghĩ đó là một cuốn sách rất quan trọng. Bởi vì đúng là không tồn tại những thứ như ý chí tự do. Chúng ta không thể quyết định được chúng ta là ai hay làm gì. Đó không phải là lỗi của chúng ta. Không ai có lỗi gì cả. Tất cả đều do nguồn gốc của anh và… và do tuyến dịch của anh. Nếu anh thành công thì đó cũng không phải là thành quả của anh mà chỉ vì anh đã may mắn với với tuyến địch của mình. Nếu anh có hư hỏng thì người ta cũng không nên trừng phạt anh – tất cả chỉ vì anh đã không gặp may.”

Anh nói một cách quả quyết, với sự quá khích không phù hợp cho việc thảo luận văn chương. Anh không nhìn vào Toohey hay nhìn vào Dominique mà nói với căn phòng và với những gì mà căn phòng này đã chứng kiến.

“Rất đúng”, Toohey nói “Nhưng nói một cách lô-gíc, chúng ta không nên nghĩ tới chuyện trừng phạt những kẻ hư hỏng. Bởi vì đó không phải là lỗi của họ mà chỉ vì họ không gặp may và không được thiên phú. Họ cần phải được đền bù cái gì đó – giống như một phần thưởng.”

“Đúng, đúng thế”, Keating kêu lên “Như thế… thế thật hợp lý.”

“Và công bằng nữa”, Toohey nói.

“Ông đã lái được tờ Ngọn cờ theo đúng ý ông muốn, phải không Ellsworth?”, Dominique hỏi.

“Ý cô là về chuyện gì?”

Viên sỏi mật can đảm.”

“À, không, không thể nói là tôi đã làm được như thế. Chưa hẳn. Vẫn luôn có những thứ – những thứ không thể lường được.”

“Các vị đang nói về chuyện gì thế?”, Keating hỏi.

“Chuyện nghề nghiệp tầm phào ấy mà”, Toohey nói.

Ông duỗi tay mình về phía ngọn lửa và vặn vẹo các ngón tay một cách vui vẻ. “Nhân tiện, Peter, anh có định làm gì với vụ Stoneridge không?”

“Quỷ tha ma bắt”, Keating nói.

“Chuyện gì thế?”

“Ông cũng biết thừa rồi còn gì. Ông biết thằng cha đó rõ hơn tôi. Có được một dự án như thế vào lúc này, thì khác gì gặp ốc đảo trong sa mạc. Nhưng mọi việc lại do lão quái thai Wynand quyết định.”

“Wynand thì làm sao nào?”

“Thôi nào, Ellsworth! Ông biết rất rõ rằng nếu là ai khác thì tôi đã nhận được hợp đồng nhanh như thế này” – anh bật ngón tay đánh tách một cái – “Tôi thậm chí sẽ không cần phải hỏi nữa vì chủ nhân sẽ chạy đến tìm tôi. Nhất là khi hắn biết rằng một kiến trúc sư như tôi lại để mắt đến dự án của hắn, mặc dù văn phòng thì đã bận lắm rồi. Nhưng mà Gail Wynand! Người ta hẳn phải nghĩ lão ấy là một vị thánh mắc bệnh dị ứng với cái không khí mà các kiến trúc sư thở ra mất!”

“Tôi đoán là anh đã thử?”

“Thôi, không nói về chuyện đó nữa. Nó làm tôi phát ốm. Tôi đã tiêu đến 300 đôla để mời ăn trưa và chuốc rượu cho đủ loại rác rưởi chỉ vì bọn chúng cam đoan với tôi là sẽ giúp tôi gặp được ông ta. Tất cả những gì tôi nhận được chỉ là sự váng đầu. Tôi nghĩ đi gặp Đức Giáo hoàng còn dễ hơn.”

“Tôi đoán là anh muốn có hợp đồng Stoneridge?”

“Ông đang đùa à, Ellsworth? Tôi sẵn sàng mất cánh tay phải của mình để có nó.”

“Không nên thế. Khi đó anh sẽ không thể nào vẽ, hay giả vờ vẽ được. Sẽ tốt hơn nếu anh chịu mất cái gì đó ít vật chất hơn.”

“Tôi sẵn sàng bán cả linh hồn.”

“Thật ư, Peter?”, Dominique hỏi.

“Ông nghĩ ra cái gì rồi, Ellsworth?” Keating cắt ngang.

“Chỉ là một gợi ý thực tế thôi nhé,” Toohey nói “Ai là người bán hàng hiệu quả nhất của anh từ trước tới giờ và đã giúp anh có được những hợp đồng béo bở nhất?”

“Thì… Tôi nghĩ là Dominique.”

“Đúng vậy. Và vì anh không thể gặp được Wynand và kể cả khi gặp được thì cũng chẳng ích, chẳng lẽ anh không nghĩ rằng chính Dominique mới có thể thuyết phục được ông ta sao?”

Keating nhìn chằm chằm vào Toohey. “Ông điên rồ, Ellsworth.”

Dominique rướn người về phía trước. Cô tỏ ra quan tâm.

“Từ những gì tôi nghe thấy”, cô nói, “Gail Wynand không giúp không phụ nữ, trừ khi họ xinh đẹp. Và nếu họ xinh đẹp thì việc ông ta làm cho họ cũng không phải là không công.”

Toohey nhìn cô, khẳng định ý cô bằng cách không bác bỏ.

“Thật ngớ ngẩn”, Keating cắt ngang giận dữ. “Làm thế nào mà Dominique có thể gặp được ông ta cơ chứ?”

“Thì gọi điện tới văn phòng ông ta và hẹn gặp”, Toohey nói.

“Ai bảo với ông là ông ta sẽ đồng ý?”

“Chính ông ta.”

“Khi nào?!”

“Đêm qua. Hay chính xác hơn là sáng sớm hôm nay.”

“Ellsworth!”, Keating thở gấp. Anh nói thêm “Tôi không tin.”

“Tôi tin”, Dominique nói, “nếu không Ellsworth đã chẳng khơi chuyện này ra.”

Cô mỉm cười với Toohey “Vậy là Wynand hứa với ông là sẽ gặp tôi?”

“Đúng thế, cô gái của tôi ạ.”

“Ông làm việc đó bằng cách nào?”

“À, tôi đưa ra một lý lẽ thuyết phục. Tuy nhiên, không nên chần chừ. Cô phải gọi điện cho ông ta vào ngày mai – nếu cô muốn làm điều đó.”

“Tại sao cô ấy không thể gọi điện ngay bây giờ?” Keating nói. “À, giờ thì muộn rồi. Việc đầu tiên em cần làm sáng mai là gọi điện cho ông ta.”

Cô nhìn anh. Mắt cô nheo lại và cô không nói gì.

“Lâu lắm rồi cô mới quan tâm tới sự nghiệp của Peter”, Toohey nói “Liệu cô có sẵn lòng thực hiện một nhiệm vụ khó khăn như thế – vì Peter không?”

“Nếu Peter muốn tôi làm.”

“Nếu anh muốn em làm?” Keating kêu lên. “Cả hai người đều điên rồi à? Đó là cơ hội cả đời có một, là…” Anh nhận ra cả hai đều nhìn anh một cách tò mò. Anh ngắt lời “À, thật vớ vẩn”.

“Cái gì vớ vẩn, Peter?” Dominique hỏi.

“Chẳng nhẽ em sẽ lại để những lời đồn đại ngu ngốc đó ngáng đường em sao? Vợ của bất kỳ kiến trúc sư nào cũng sẽ quỳ bằng cả hai tay hai chân để có được một cơ hội như thế để…”

“Không có vợ của kiến trúc sư nào khác được cho một cơ hội như thế”, Toohey nói “Không có kiến trúc sư nào khác lại có được người vợ như Dominique. Anh vẫn luôn tự hào về điều đó mà, Peter.”

“Dominique luôn có thể tự bảo vệ mình trong mọi tình huống.”

“Không có gì phải nghi ngờ về điều đó.”

“Được rồi, Ellsworth”, Dominique nói “Tôi sẽ gọi điện cho Wynand vào ngày mai.”

“Ellsworth, ông thật tuyệt!”, Keating nói, không nhìn vào cô.

“Tôi tin là bây giờ tôi muốn uống một ly rượu”, Toohey nói, “Chúng ta phải ăn mừng.”

Trong lúc Keating vội vàng chạy vào bếp, Toohey và Dominique nhìn nhau. Ông mỉm cười. Ông liếc nhìn về phía cánh cửa mà Keating vừa đi qua, sau đó gật đầu nhè nhẹ với cô với vẻ thích thú…

“Ông biết trước sẽ như vậy”, Dominique nói.

“Tất nhiên.”

“Nào, mục đích thực sự của ông là gì hả Ellsworth?”

“Sao cơ, tôi muốn giúp cô lấy được hợp đồng Stoneridge cho Peter. Đó là một hợp đồng cực tốt.”

“Tại sao ông lại sốt sắng muốn tôi ngủ với Wynand đến thế?”

“Thế cô không nghĩ rằng đó sẽ là một chuyện thú vị cho tất cả các bên liên quan sao?”

“Ông không hài lòng với kết quả cuộc hôn nhân của tôi, phải không Ellsworth?”

“Không hoàn toàn. Chỉ khoảng năm mươi phần trăm. Nhưng không có gì là hoàn hảo trên thế giới này cả. Người ta gặt hái những gì có thể và cố gắng hơn nữa.”

“Ông từng rất sốt sắng muốn Peter cưới tôi. Ông đã biết trước kết quả sẽ thế nào, biết nhiều hơn cả Peter hay là tôi.”

“Peter thì có biết gì đâu.”

“Thì, ông thành công đấy – được năm mươi phần trăm. Ông đã có Peter Keating như ông muốn – kiến trúc sư hàng đầu của cả nước bây giờ chẳng khác gì cục bùn bám dính lấy ủng của ông.”

“Tôi chưa bao giờ thích cách diễn đạt của cô cả, nhưng nó luôn luôn chính xác. Nếu là tôi thì tôi sẽ nói: anh ta bây giờ là một linh hồn đang ngoe nguẩy đuôi. Phong cách của cô vẫn cứ mềm mại hơn.”

“Thế năm mươi phần trăm kia thì sao, Ellsworth? Thất bại à?”

“Gần như hoàn toàn. Lỗi của tôi. Lẽ ra phải biết trước rằng một kẻ như Peter, cho dù chỉ ở cương vị người chồng, cũng không thể nào hủy hoại cô được.”

“Ông thành thực đấy.”

“Tôi đã nói với cô một lần rằng đó là cách duy nhất có hiệu quả đối với cô. Hơn nữa, chắc chắn là cô không mất đến hai năm mới biết được tôi muốn gì từ đám cưới đó?”

“Thế ông nghĩ rằng Gail Wynand sẽ làm nốt việc đó?”

“Có thể. Cô nghĩ sao?”

“Tôi nghĩ lần này tôi cũng chỉ là chi tiết phụ. Chẳng phải ông từng gọi nó bằng từ ‘nước sốt’ đó sao? Tại sao ông lại chống lại Wynand?”

Ông ta cười, tiếng cười cho thấy ông đang giả vờ bị bất ngờ với câu hỏi của cô. Cô nói một cách khinh bỉ “Đừng có ra vẻ là ông đang bị sốc nữa, Ellsworth.”

“Tốt thôi. Chúng ta nói thẳng nhé. Tôi chẳng chống lại cái gì cụ thể của ông Gail Wynand cả. Tôi đã lập kế hoạch để ông ta gặp cô từ lâu lắm rồi. Nếu cô muốn biết thêm các tiểu tiết thì sáng hôm qua, ông ta có làm một việc khiến tôi bực mình. Ông ta tỏ ra quá tinh ý. Thế nên tôi quyết định đã đến lúc.”

“Và còn có vụ Stoneridge nữa.”

“Và còn có vụ Stoneridge. Tôi biết chuyện này sẽ hấp dẫn cô. Cô sẽ không bao giờ bán mình để cứu tổ quốc, linh hồn hay cuộc sống của người đàn ông cô yêu. Nhưng cô sẽ bán mình để đổi lấy một hợp đồng cho Peter Keating – hợp đồng mà anh ta không xứng đáng được có. Để xem sau đó, cô sẽ như thế nào. Cả Gail Wynand nữa. Tôi cũng muốn xem chuyện đó.”

“Rất chính xác, Ellsworth.”

“Tất cả à? Kể cả phần về người đàn ông cô yêu – nếu như cô có yêu?”

“Đúng.”

“Cô sẽ không bán mình vì Roark? Mặc dù, tất nhiên là cô không muốn nghe thấy cái tên đó được nhắc tới.”

“Howard Roark”, cô nói giọng lạnh băng.

“Cô thực sự rất can đảm, Dominique.”

Keating đã quay lại, tay cầm khay rượu cocktail. Mắt anh đỏ ngầu và anh liên tục vung tay.

Toohey nâng ly của mình lên. Ông ta nói “Vì Gail Wynand và tờ Ngọn cờ New York!”

Bình luận