Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Suối Nguồn

Chương VII

Tác giả: Ayn Rand

Chỉ khi người thợ sơn cuối cùng ra về, Peter Keating mới cảm nhận thấy sự cô độc và sự yếu ớt đến tê liệt của khuỷu tay mình. Anh đứng trong sảnh và nhìn lên trần nhà. Dưới lớp sơn thô, anh vẫn có thể nhìn thấy đường nét của một hình vuông, nơi cái cầu thang vừa bị tháo đi và cái lỗ hổng đã được người ta bịt lại. Văn phòng cũ của Guy Francon đã không còn. Hãng Keating & Dumont giờ đây chỉ còn lại một tầng.

Anh nghĩ đến cái cầu thang, nhớ lại lần đầu tiên anh đã đi trên những bậc thang trải nhung đỏ ấy, cầm một bản vẽ trên các đầu ngón tay. Anh nghĩ về vưn phòng Guy Francon với những ánh sáng lung linh tráng lệ. Anh nghĩ về bốn năm qua khi văn phòng đó thuộc về anh.

Trong những năm gần đây, anh đã biết điều gì đang xảy ra với công ty của anh. Anh đã biết rất rõ khi những người mặc đồng phục công nhân tháo dỡ chiếc cầu thang và vá cái lỗ hổng trên trần. Nhưng chính cái hình vuông dưới lớp sơn trắng ấy là cái làm cho anh ý thức rằng mọi việc đang thật sự xảy ra, và không thể thay đổi.

Anh đã phó mặc cái sự tụt dốc này, từ lâu rồi. Không phải tự anh lựa chọn để phó mặc mọi sự – như thế đã là một quyết định tích cực – đơn giản là nó cứ thế xảy ra và anh đã để mặc cho nó xảy ra. Mọi việc diễn ra rất giản đơn, hầu như không gây đau đớn gì, giống như sự uể oải cũng không gây ra cho người ta điều gì tồi tệ ngoài một giấc ngủ ngon. Nỗi đau âm ỉ đến từ cái ước muốn hiểu được tại sao điều đó lại xảy ra.

Cuộc triển lãm Hành trình của Những thế kỷ đã diễn ra, nhưng chỉ mình cuộc triển lãm ấy thì không thành vấn đề. Hành trình của Những thế kỷ đã khai mạc vào tháng Năm và đã thất bại. Thì đã sao nào, Keating nghĩ, tại sao lại không dùng một từ chính xác? Một thất bại. Một thất bại lớn. “Tên của dự án này đáng lẽ sẽ là cái tên phù hợp nhất,” Ellsworth Toohey đã viết, “nếu chúng ta giả thiết rằng các thế kỷ đã vụt qua trên lưng ngựa.”

Tất cả các bài viết khác về những giá trị kiến trúc của cuộc triển lãm này cũng tương tự như vậy.

Keating cay đắng nghĩ về việc anh và bảy kiến trúc sư khác đã làm việc tận tình như thế nào khi thiết kế những tòa nhà đó. Đúng là anh đã đẩy mình ra phía trước và nhận được nhiều sự quan tâm của dư luận hơn, nhưng anh đã không làm thế trong những thứ liên quan đến thiết kế. Họ đã làm việc trong sự hòa thuận, thông qua các cuộc họp liên tiếp, mỗi người nhượng bộ những người kia trong một tinh thần tập thể thực sự, không một ai cố áp đặt những định kiến cá nhân hay những ý tưởng ích kỷ của riêng mình đối với những người khác. Thậm chí Ralston Holcombe đã quên đi phong cách Phục hưng. Họ thiết kế các tòa nhà hiện đại, hiện đại hơn bất kỳ những gì từng có, hiện đại hơn những cửa sổ bày hàng của Trung tâm Thương mại Slottern. Anh không nghĩ rằng những tòa nhà ấy trông giống như “thuốc đánh răng phòi ra thành từng sợi khi có ai đó dẫm lên tuýp thuốc, hay những phiên bản được cách điệu hóa của trực tràng”, như một nhà phê bình đã nói.

Nhưng công chúng dường như nghĩ vậy – nếu quả đúng là công chúng có suy nghĩ chung. Anh không biết chắc. Anh chỉ biết rằng người ta đã đổi vé vào cổng của Hành trình của Những thế kỷ lấy thẻ chơi trò Screeno ở các rạp hát, và rằng sự kiện gây náo động cũng là cứu cánh về tài chính cho cuộc triển lãm lại là màn nhảy múa trần truồng của một anh hề mang tên Juanita Fay với một con công.

Nhưng việc hội chợ này thất bại thì đã sao nào? Việc đó chẳng làm tổn hại gì tới các kiến trúc sư khác của hội đồng. Gordon L.Prescott đang phất lên hơn bao giờ hết. Không phải là vì cái hội chợ này – Keating nghĩ. Mọi việc đã bắt đầu từ trước đó rồi. Anh cũng không biết là khi nào.

Có thể có nhiều lời giải thích. Sự suy thoái đã ảnh hưởng tới tất cả bọn họ; một số công ty khác đã hồi phục trong một chừng mực nhất định, còn công ty Keating & Dumont thì không. Khi Guy Francon nghỉ hưu, công ty và cả sức hút của nó đối với khách hàng dường như dã bị mất đi một cái gì đó. Keating nhận ra rằng đó là nghệ thuật, kỹ năng và một thứ năng lượng nghề nghiệp không theo một lô-gíc nào của Guy Francon, thậm chí ngay cả khi thứ nghệ thuật ấy chỉ nằm ở sự duyên dáng trong giao thiệp và cái năng lượng ấy chỉ được dùng để giăng bẫy những nhà triệu phú do dự. Các khách hàng thường có những thay đổi đột ngột về thẩm mỹ khi làm việc với Guy Francon.

Anh không thể tìm ra một chìa khóa nào để giải đáp một cách hợp lý những phản ứng của khách hàng bây giờ. Chủ soái hiện tại trong ngành – dĩ nhiên chỉ ở quy mô khiêm tốn thôi, vì rằng chẳng còn có cái gì có quy mô lớn nữa – là Gordon L.Prescott, Chủ tịch Hội đồng các Nhà Xây dựng Mỹ; Gordon L.Prescott – người giảng bài về chủ nghĩa thực dụng của kiến trúc, về quy hoạch xã hội; Gordon L.Prescott – người gác chân lên bàn trong các phòng khách, người mặc quần chẽn đến dự các các bữa tiệc tối trang trọng và lớn tiếng chê bai món súp. Những người ở tầng thượng lưu nói rằng họ thích một kiến trúc sư cách tân. Hiệp hội Kiến trúc sư Hoa Kỳ vẫn tồn tại với những giá trị cứng nhắc và đã bị thương tổn, nhưng mọi người nhắc đến nó bằng cái tên Nhà Dưỡng lão. Hội đồng các Nhà Xây dựng Mỹ thống trị ngành xây dựng và đang bàn luận về việc làm cho nó trở thành một hội kín, mặc dù chưa có ai tìm ra cách để đạt được điều đó. Bất kỳ khi nào tên của một kiến trúc sư xuất hiện trong cột báo của Ellsworth Toohey thì cái tên đó luôn luôn là Augustus Webb. Ở độ tuổi ba mươi chín, Keating nghe thấy mình bị nhắc đến như một người đã hết thời.

Anh đã từ bỏ những nỗ lực để tìm hiểu chuyện này. Anh lờ mờ hiểu rằng lời giải thích cho cái thay đổi đang nuốt chửng lấy thế giới này là một thứ mà anh không muốn biết. Khi còn trẻ, anh cảm thấy có chút co thường những công trình của Guy Francon hay Ralston Holcombe, và việc tranh đua với họ hầu như chỉ là do sự hiếu chiến ngây thơ. Nhưng anh biết rằng Gordon L.Prescott và Gus Webb là hiện thân cho một sự lừa gạt phi lý và xấu xa đến mức việc bỏ qua những bằng chứng chính anh đã tận mắt trông thấy nằm ngoài khả năng của anh. Anh từng tin rằng người ta tìm thấy sự vĩ đại ở Holcombe và đã cảm thấy thỏa mãn một cách hợp lý trong việc vay mượn sự vĩ đại vay mượn của ông ta. Anh biết là không có ai nhìn rõ Prescott. Anh cảm thấy có cái gì đó đen tối và đểu cáng trong cách người ta nói về thiên tài của Prescott, như thể không phải họ đang tỏ lòng kính trọng Prescott mà đang khạc nhổ vào thiên tài đó. Lần đầu tiên, Keating không thể chạy theo công chúng bởi vì anh thấy quá rõ ràng rằng sự ưa chuộng của công chúng không còn là một sự công nhận tài năng, mà nó gần như trở thành một dấu hiệu của sự nhục nhã.

Anh vẫn tiếp tục làm việc theo quán tính. Anh không có đủ tiền trả cho những văn phòng rộng và không sử dụng hết một nửa số phòng, nhưng anh vẫn giữ chúng lại. Anh bỏ tiền túi của mình để trả cho khoản thâm hụt này. Anh phải tiếp tục. Anh đã mất một phần lớn tài sản của mình trong một vụ đầu cơ cổ phiếu thiếu thận trọng. Nhưng anh vẫn còn đủ để đảm bảo một cuộc sống tiện nghi từ nay đến cuối đời. Điều này không làm phiền anh. Tiền bạc đã không còn là mối quan tâm chính của anh. Chính tình trạng vô công rồi nghề là cái mà anh sợ hãi; nó là dấu chấm hỏi lờ mờ ở đằng xa – liệu có một lúc nào đó, người ta lấy đi cả những công việc hằng ngày của anh.

Anh đi bộ chậm rãi, hai cánh tay ép vào người, vai gồng lên như để chống lại sự lạnh giá thường trực. Anh đang tăng cân. Mặt anh phị ra. Anh cúi mặt xuống, và cái ngấn cằm thứ hai đè lên nút thắt cà-vạt. Trên gương mặt anh vẫn còn sót lại vẻ khôi ngô và nó làm anh trông còn tệ hơn; cứ như thể những đường nét của gương mặt anh được vẽ trên một tờ giấy thấm, cứ lan dần ra, nhòe đi. Những đốm tóc hoa râm trên hai thái dương của anh đậm hơn. Anh uống rượu thường xuyên mà không có hứng thú gì.

Anh đã đề nghị mẹ anh quay trở về sống cùng với anh. Bà đã quay về. Họ ngồi cùng nhau suốt các buổi tối dài trong phòng khách, không ai nói một lời, không phải vì bực bội nhau, mà để tìm kiếm sự an ủi từ phía người kia. Bà Keating không có một gợi ý hay trách mắng nào. Thay vào đó là sự âu yếm mang màu sắc hoang mang mới dành cho cậu con trai. Bà chuẩn bị bữa sáng cho anh mặc dù họ có người giúp việc. Bà chuẩn bị món bánh pancake[135] kiểu Pháp cho anh – đây là món mà anh đã rất thích khi anh lên chín tuổi và bị lên sởi. Nếu anh để ý tới những cố gắng của bà và có vài lời bày tỏ sự hài lòng, bà gật gật đầu, chớp mắt và quay đầu đi, tự hỏi tại sao điều đó lại làm bà hạnh phúc đến vậy, và nếu đúng là bà hạnh phúc thì tại sao mắt bà lại đầy lệ.

Sau một lúc yên lặng, bà có thể bất ngờ hỏi: “Mọi chuyện rồi sẽ ổn chứ, Petey? Có phải thế không con?” Anh không hỏi lại ý bà là gì, mà trả lời một cách trầm lặng: “Vâng, thưa mẹ, sẽ ổn thôi,” và dành mọi khả năng cuối cùng của tình thương để cố làm cho giọng nói của mình nghe có vẻ thuyết phục.

Một lần bà hỏi: “Con hạnh phúc, phải không Petey? Có đúng không?” Anh nhìn bà và nhận ra rằng bà không cười nhạo anh. Mắt bà mở to và hoảng sợ. Và khi anh không thể trả lời, bà khóc: “Nhưng con phải hạnh phúc! Petey, con phải được hạnh phúc! Bằng không thì mẹ đã sống vì cái gì?” Anh muốn đứng dậy, ôm chầm lấy bà và nói rằng mọi chuyện đều ổn… rồi khi ấy anh nhớ tới những gì Guy Francon đã nói với anh trong ngày cưới của anh: “Tôi muốn cậu cảm thấy tự hào về tôi, Peter… Tôi muốn cảm thấy rằng điều đó có một ý nghĩa gì đó.” Và anh không thể đứng dậy. Anh cảm thấy anh đang đối diện với một cái gì đó mà anh không hiểu nổi và không bao giờ được cho phép nó lẻn vào tâm trí anh. Anh quay mặt đi khỏi mẹ anh.

Một buổi tối, bà nói mà không rào đón trước: “Petey, mẹ nghĩ con nên cưới vợ. Mẹ nghĩ nếu con cưới vợ thì sẽ tốt hơn nhiều.” Anh chẳng biết trả lời bà như thế nào. Và khi anh đang cố gắng tìm một chuyện gì đó vui vẻ để nói với bà, thì bà lại nói tiếp: “Petey, sao con không cưới Catherine Halsey nhỉ?” Anh cảm thấy sự tức giận dâng đầy trong mắt, cảm thấy sức ép trên hai mí mắt căng phồng khi anh quay người chầm chậm về phía bà. Rồi anh nhìn thấy cái dáng béo lùn của bà trước mặt anh, cứng đờ và yếu đuối, với một niềm kiêu hãnh tuyệt vọng, sẵn sàng đón nhận mọi cú đánh của anh, và sẵn sàng tha thứ trước cho anh – và anh nhận ra rằng đây là cử chỉ can đảm nhất mà bà từng có. Cơn giận tan đi, bởi vì anh nhận ra rằng nỗi đau của bà còn lớn hơn cú sốc của anh. Anh nhấc một tay lên và thả nó rơi xuống – để cử chỉ ấy giấu đi mọi thứ. Anh chỉ nói: “Mẹ ơi, đừng để…”

Một hoặc hai lần trong tháng, vào dịp cuối tuần, anh biến mất khỏi thành phố. Không ai biết anh đi đâu. Bà Keating rất lo lắng, nhưng không thắc mắc gì. Bà nghi ngờ rằng anh có một người phụ nữ ở đâu đó – và hẳn không phải một người đàn bà đức hạnh, nếu không thì anh đã chăng yên lặng một cách rầu rĩ đến thế khi nói về chuyện này. Bà thấy mình thầm hy vọng rằng anh đã rơi vào lưới tình của một ả đàn bà hư hỏng, tồi tệ và tham lam nhất, người đủ khôn ngoan để buộc anh phải cưới cô ta.

Anh đi tới căn lều anh thuê trên những quả đồi của một ngôi làng ít người biết đến. Anh cất sơn, cọ vẽ, và vải vẽ trong căn lều này. Cả ngày anh ở trên đồi và vẽ. Anh không biết vì sao mà anh có thể nhớ được cái hoài bão đã bị chôn vùi từ thời trai trẻ ấy, cái hoài bão mà mẹ anh đã làm cạn kiệt và chuyển hướng nó sang kiến trúc. Anh không biết làm thế nào mà nó lại thôi thúc và làm anh không thể cưỡng lại được; chỉ biết anh đã tìm thấy căn lều và muốn tới đó.

Anh không thể nói rằng anh thích vẽ. Đây không phải là sự thỏa mãn hay sự khuây khỏa, mà là sự tự tra tấn; nhưng theo một cách nào đó, điều này cũng chẳng quan trọng. Anh ngồi trên một chiếc ghế đẩu, mặt ghế có căng vải bạt, trước giá vẽ, nhìn vào những mảng đồi trọc, nhìn vào những cánh rừng và bầu trời phía trên. Anh muốn bày tỏ một nỗi đau thầm kín, một cảm giác dịu dàng khiêm nhường và không thể kìm nén với cảnh vật của thế giới xung quanh – và một cái gì đó nén chặt, tê liệt – đó là cách duy nhất để diễn tả trạng thái của anh. Anh tiếp tục vẽ. Anh gắng sức. Anh nhìn vào các bức vẽ và biết rằng những nét vẽ thô ráp trẻ con ấy chẳng nắm bắt được một điều gì cả. Nhưng cũng chẳng sao. Không có ai nhìn những bức vẽ đó. Anh cất chúng cẩn thận trong góc của căn lều và khóa cửa lại trước khi quay về thành phố. Khi ngồi một mình trước khung vẽ, anh không cảm thấy vui thích, không kiêu hãnh, không lối thoát, chỉ có một cảm giác bình yên.

Anh cố không nghĩ về Ellsworth Toohey. Một bản năng lờ mờ mách bảo anh rằng anh có thể giữ được một sự yên ổn mong manh cho tâm hồn chừng nào anh không động chạm gì tới chủ đề đó. Chỉ có một cách giải thích thái độ mới của Toohey với anh – và anh không muốn nghĩ đến nó.

Toohey đã bỏ rơi anh. Cứ mỗi năm, khoảng cách giữa các cuộc gặp của họ tăng dần. Anh chấp nhận điều đó và tự nói với mình rằng đó là do Toohey bận rộn. Sự yên lặng của Toohey trước công chúng về anh đúng là một trở ngại. Anh tự nhủ rằng Toohey đối với Hành trình của Những thế kỷ như một cú nốc-ao. Anh tự nhủ rằng công trình của anh đáng bị như vậy. Anh chấp nhận bất kỳ lời buộc tội nào. Anh có thể hoài nghi chính mình, chứ không thể hoài nghi Ellsworth Toohey.

Neil Dumont là người buộc anh nhớ tới Toohey. Neil nói một cách nóng nảy về tình hình thế giới, về sự hối tiếc những chuyện đã qua, về việc thay đổi là một quy luật của sự tồn tại, về sự thích nghi, và về tầm quan trọng của việc phải nhảy trở lại vào trong cuộc đua. Keating rút ra được từ bài phát biểu dài và lẫn lộn ấy rằng cái kiểu kinh doanh như họ biết đã kết thúc, rằng cho dù họ có thích hay không thì chính phủ cũng sẽ bắt đầu kiểm soát, rằng ngành xây dựng đang chết dần và chính phủ sẽ sớm trở thành nhà thầu duy nhất, và họ nên nhập cuộc bây giờ – nếu như họ vẫn còn có thể nhập cuộc.[136] “Hãy nhìn Gordon Prescott kìa,” Neil Dumont nói, “ông ta chiếm được hợp đồng độc quyền với các dự án xây dựng chung cư và các bưu điện. Hãy nhìn Gus Webb đang lên như diều nữa.”

Keating không trả lời. Neil Dumont ném vào anh những suy nghĩ của chính anh mà anh không muốn thú nhận. Anh đã biết rằng rồi anh sẽ sớm phải đối diện với điều này, và anh đã cố gắng trì hoãn thời khắc này.

Anh không muốn nghĩ về Dự án chung cư Cortlandt.

Dự án chung cư Cortlandt là một dự án nhà của chính phủ. Nó sẽ được xây dựng ở Astoria, bên bờ sông Đông. Kế hoạch này là một thử nghiệm khổng lồ cho mô hình nhà rẻ tiền và sẽ được nhân rộng ra cả nước, cả thế giới. Keating đã nghe giới kiến trúc sư bàn luận về dự án này suốt cả năm nay. Ngân sách đã được duyệt, vị trí xây dựng đã được lựa chọn, nhưng kiến trúc sư thì chưa. Keating không muốn thừa nhận với chính mình rằng anh rất muốn có được dự án Cortlandt, và cơ hội của anh để làm được điều đó thì rất nhỏ.

“Nghe này, Peter, chúng ta hãy nói trắng ra nhé,” Neil Dumont nói. “Chúng ta đang trượt dốc và anh biết điều đó. Phải, chúng ta sẽ cầm cự được thêm một hay hai năm nữa bằng cách ăn bám vào danh tiếng của anh. Và sau đó thì sao? Đây không phải là lỗi của chúng ta. Chỉ là bởi vì các doanh nghiệp tư nhân đang chết dần chết mòn. Đây là một tiến trình lịch sử. Cơn sóng của tương lai. Vậy nên chúng ta cần nắm lấy ván lướt sóng ngay khi có thể. Có một tấm ván tốt, đủ chắc chắn đang chờ ai đủ khôn ngoan để mà nắm lấy. Đó là dự án chung cư Cortlandt.”

Giờ thì anh đã nghe thấy điều đó nói ra bằng lời. Keating tự hỏi sao cái tên ấy nghe như một tiếng chuông bị nghẹt, như thể cái tên ấy đã mở ra và khép lại cho một chuỗi các sự kiện tiếp theo mà anh sẽ không thể dừng được.

“Ý anh là gì hả Neil?”

“Dự án chung cư Cortlandt. Ellsworth Toohey. Bây giờ anh biết tôi muốn nói gì rồi đấy.”

“Neil, tôi…”

“Có chuyện gì với anh vậy Peter? Nghe này, mọi người đang cười về chuyện ấy đấy. Họ bảo nếu họ là cục cưng của Toohey như anh thì họ sẽ dành được Dự án chung cư Cortlandt nhanh như thế này này” – anh ta bật những ngón tay được cắt tỉa cẩn thận của mình đánh tách một cái – “thế đấy, không một ai có thể hiểu anh còn chờ đợi gì nữa. Anh biết ông bạn Ellsworth của anh là người điều khiển cái dự án này mà.”

“Không phải vậy đâu. Không phải ông ấy. Ông ấy chẳng có vị trí chính thức nào. Ông ấy chưa bao giờ có bất kỳ vị trí chính thức nào cả.”

“Anh đang đùa với ai thế? Hầu hết những gã trai quan trọng trong tất cả các văn phòng kiến trúc đều là người của ông ta. Quỷ tha ma bắt nếu tôi biết được ông ta đã làm thế nào để nhét họ vào những chỗ đó, nhưng ông đã làm được. Có chuyện gì vậy hả, Peter? Anh sợ cầu xin ân huệ từ Ellsworth Toohey à?”

Thế đấy, Keating nghĩ; giờ thì không có đường lui nữa rồi. Anh không thể thừa nhận với chính mình rằng anh sợ phải cầu xin Ellsworth Toohey.

“Không,” anh nói với giọng thẫn thờ. “Tôi không sợ gì cả, Neil. Tôi sẽ… Được thôi, Neil. Tôi sẽ nói chuyện với Ellsworth.”

*

* *

Ellsworth Toohey mặt một chiếc áo choàng dài và ngồi dạng được viết một cách cẩu thả: hai tay duỗi thẳng theo mép mấy chiếc gối kê lưng, hai chân xoạc rộng như một chạc cây. Chiếc áo choàng dài của ông làm bằng lụa, với họa tiết độc quyền của công ty phấn trang điểm Coty – đó là hình những miếng bông thoa phấn trắng trên nền màu cam. Trông chúng táo bạo và hài hước. Một vẻ tao nhã tuyệt đỉnh nổi bật lên trên sự xoàng xinh của bản thân trang phục. Bên dưới chiếc áo choàng là bộ quần áo ngủ nhàu nát làm bằng vải lanh màu xanh lá cây.[137] Ống quần ông rộng thùng thình ở quanh mắt cá chân.

Keating nghĩ đây đúng như hình ảnh của Toohey; cái tư thế này, cùng với sự chọn lựa kỹ càng của đồ đạc trong phòng khách. Một bức tranh lụa của một họa sĩ nổi tiếng là vật trang trí duy nhất trên bức tường sau lưng ông… những thứ còn lại của căn phòng đều khiêm tốn như căn phòng của một người tu hành. Không phải thế, Keating nghĩ, mà giống như cảnh sống của một hoàng đế đang bị đi đày, một người coi thường sự phô trương vật chất.

Ánh mắt Toohey ấm áp, vui vẻ và khích lệ. Toohey đã trực tiếp trả lời điện thoại. Toohey ngay lập tức hẹn gặp anh. Keating nghĩ: được đón tiếp một cách thân mật như thế này thật tốt. Mình đã sợ cái gì nhỉ? Mình đã hoài nghi điều gì? Ông ấy và mình là bạn bè lâu năm.

“Ôi, tội nghiệp tôi, thật là mệt quá,” Toohey vừa nói vừa ngáp, “Mỗi ngày đều có những lúc mà người ta cảm thấy cần phải được nghỉ ngơi ngay lập tức, như một kẻ lười biếng vô công rồi nghề. Tôi về nhà và cảm thấy rằng không thể mặc quần áo trên người thêm một phút nào nữa. Cảm thấy như một gã nông dân khốn kiếp… ngứa ngáy khắp người… và phải cởi bỏ hết quần áo ra. Anh không phiền lòng chứ hả Peter? Với một số người thì cần phải nghiêm chỉnh, đàng hoàng, chứ với anh thì điều đó không cần thiết.”

“Vâng, tất nhiên là không cần.”

“Tôi đang nghĩ là một chút nữa tôi sẽ đi tắm. Thật chẳng có gì bằng tắm nước nóng, nó làm cho người ta cảm thấy nhẹ nhõm, quên hết mọi chuyện trên đời. Anh có thích tắm nước nóng không hả Peter?”

“Ồ… có chứ… tôi đoán thế…”

“Anh đang tăng cân đấy, Peter. Anh sẽ sớm trở nên chật chội trong cái bồn tắm mất thôi. Anh đang tăng cân và trông anh tiều tụy. Đó là sự kết hợp tồi. Hoàn toàn tồi về mặt thẩm mỹ. Người béo lẽ ra phải hạnh phúc và tươi vui…”

“Tôi… Tôi không sao cả, Ellsworth, chỉ là…”

“Anh từng có một dáng vẻ bảnh bao. Anh không được đánh mất nó. Người ta sẽ thấy chán anh đấy.”

“Tôi không thay đổi mà Ellsworth.” Đột nhiên anh nhấn mạnh từng từ. “Tôi thực sự là chẳng thay đổi chút nào cả, tôi vẫn như khi tôi thiết kế tòa nhà Cosmo-Slotnick.”

Anh nhìn Toohey đầy hy vọng. Anh nghĩ đây là một gợi ý lộ liễu đủ để Toohey hiểu. Toohey hiểu những thứ còn tế nhị hơn thế. Anh chờ được đỡ lời. Toohey tiếp tục nhìn anh, ánh mắt thân tình và trống rỗng.

“Ồ, Peter, đó là một lời tuyên bố chẳng có tính triết học chút nào cả. Thay đổi là nguyên tắc cơ bản của vũ trụ. Mọi thứ đều thay đổi. Mùa, hoa lá, chim muông, đạo đức, con người và các công trình kiến trúc. Một quá trình biện chứng, Peter ạ.”

“Vâng, dĩ nhiên là như thế. Mọi thứ đều thay đổi, thật nhanh và theo một cách thật buồn cười. Người ta thậm chí không nhận ra nó thay đổi như thế nào, và bất ngờ một buổi sáng, nó đã ở đó. Ông có nhớ không, chỉ vài năm trước, Lancelot Clokey, Gordon Prescott, và Ike và Lance đều chẳng là cái gì cả. Thế mà, Ellsworth, họ đều đang trên đỉnh cao, và tất cả bọn họ đều là người của ông. Bất kỳ nơi đâu tôi nhìn vào, bất kỳ tên tuổi lớn nào tôi nghe thấy, đều là một trong số những chàng trai của ông. Ông thật tuyệt vời, Ellsworth. Làm thế nào để có thể làm được điều đó… chỉ trong một vài năm.”

“Việc đó đơn giản hơn anh tưởng, Peter. Bởi vì anh suy nghĩ trên phương diện cá thể. Anh nghĩ những việc đó đã được thực hiện từng bước từng bước một. Nhưng Chúa ơi, làm thế thì dù có cả trăm nhà báo làm việc cả đời cũng chẳng đủ. Việc đó có thể được thực hiện nhanh hơn thế nhiều. Bây giờ là thời đại của các thiết bị tiết kiệm thời gian. Nếu anh muốn phát triển cái gì đó, anh không nuôi dưỡng từng hạt mầm một cách riêng biệt. Anh chỉ cần rải một loại phân bón nhất định. Tự nhiên sẽ làm phần việc còn lại. Tôi tin rằng anh đang nghĩ tôi là người duy nhất chịu trách nhiệm về chuyện này. Nhưng không phải là tôi. Chúa ơi, không. Tôi chỉ là một trong số rất nhiều người, là một cái đòn bẩy trong một chuyển động lớn. Rất lớn và rất cổ xưa. Chỉ ngẫu nhiên là tôi đã chọn nghệ thuật – lĩnh vực mà anh quan tâm, bởi vì tôi nghĩ rằng nó hội tụ những yếu tố quyết định với cái nhiệm vụ mà chúng ta phải hoàn thành.”

“Vâng, tất nhiên rồi, nhưng ý tôi là ông thật giỏi giang. Ông biết chọn lấy những thanh niên có tài năng, có triển vọng. Quỷ tha ma bắt tôi đi nếu tôi biết ông đã dự đoán trước mọi việc như thế nào. Ông có nhớ cái gác xép mà chúng ta lấy làm chỗ họp cho Hiệp hội Các nhà xây dựng Mỹ hay không? Và chẳng ai coi chúng ta ra gì. Mọi người từng cười ông vì đã lãng phí thời gian cho những thể loại tổ chức ngớ ngẩn.”

“Peter thân mến của tôi, mọi người hành động dựa trên qua nhiều giả thiết sai lầm của họ. Ví dụ như một giả thiết cũ cũ rích – chia nhỏ và chinh phục. Ừ thì việc đó cũng có những ứng dụng của nó. Nhưng thế kỷ của chúng ta phát hiện ra một phương thức có hiệu lực hơn nhiều: sáp nhập và thống trị.”

“Ý ông là gì?”

“Anh không thể nắm bắt hoàn toàn được đâu. Và tôi cũng không nên đòi hỏi quá sức của anh. Trông anh không có vẻ còn nhiều sức lực lắm.”

“Ồ, tôi ổn mà. Tôi có lẽ trông hơi lo lắng, bởi vì…”

“Lo lắng là một sự lãng phí cảm xúc. Rất ngốc nghếch. Không xứng đáng với một người đã được khai sáng. Bởi vì chúng ta chỉ đơn thuần là những sinh vật của quá trình trao đổi chất và của các yếu tố kinh tế của một tầng lớp xã hội nhất định, chúng ta chẳng thể làm được bất cứ cái của nợ gì với bất cứ cái gì. Thế thì tại sao lại phải lo lắng? Tất nhiên là có những ngoại lệ mang tính chất hiển nhiên. Rất hiển nhiên. Khi hoàn cảnh đánh lừa chúng ta, làm cho chúng ta nghĩ rằng cần phải có những hành động tự do. Chẳng hạn như việc anh đến đây để nói về Dự án chung cư Cortlandt.”

Keating chớp mắt rồi mỉm cười biết ơn. Anh nghĩ: thật đúng là Toohey – ông ấy phải đoán ra và đỡ cho anh khỏi lòng vòng gợi chuyện.

“Đúng vậy, Ellsworth. Đó đúng là điều tôi muốn nói với ông. Ông thật tuyệt vời. Ông biết rõ về tôi như một cuốn sách.”

“Loại sách nào vậy hả, Peter? Một cuốn tiểu thuyết rẻ tiền? Một câu chuyện tình? Một vụ án hình sự? Hoặc chỉ là một bản thảo bị đạo văn? Không, để xem nào, giống như một truyện nhiều kỳ. Một truyện nhiều kỳ hay, dài, thú vị… nhưng còn thiếu phần kết. Phần kết này bị để nhầm ở một chỗ nào đó. Sẽ không có bất kỳ phần kết nào. Trừ khi, dĩ nhiên rồi, đó là Dự án chung cư Cortlandt. Đúng thế, đó có lẽ sẽ là một phần kết thích hợp.”

Keating chờ đợi, ánh mắt nhìn chăm chú và trần trụi, quên mất cả sự xấu hổ, sự khẩn nài mà đáng lẽ cần phải che đậy lại.” Một dự án vĩ đại – Khu chung cư Cortlandt. Lớn hơn cả Stoneridge. Anh còn nhớ dự án Stoneridge không Peter?”

Ông ấy đang lấy mình ra để tiêu khiển – Keating nghĩ, ông ấy đang mệt mỏi, ông ấy không thể lúc nào cũng khéo léo, ông ấy không nhận ra rằng ông ấy…

“Stoneridge. Dự án phát triển khu dân cư vĩ đại của Gail Wynand. Anh đã bao giờ nghĩ về sự nghiệp của Gail Wynand chưa hả Peter? Từ một con chuột ở bến tàu tới Stoneridge… ac ó biết mỗi bước tiến đó có ý nghĩa gì không? Anh có quan tâm tới việc thử tính xem những cố gắng, sức lực, những gian khổ mà Gail Wynand đã phải trả giá cho mỗi bước trên đường tiến thân của ông ta chưa? Và tôi đây, tôi đang nắm trong lòn gbàn tay một dự án lớn hơn nhiều so với Stoneridge, mà không cần đến bất cứ một sự nỗ lực nào.” Ông thả tay xuống và nói thêm: “Nếu như tôi thực sự nắm giữ nó. Có thể chỉ là cách nói hình ảnh thôi. Đừng có hiểu theo nghĩa đen những điều tôi nói, Peter.”

“Tôi căm thù Wynand,” Keating vừa nói vừa nhìn xuống sàn nhà, giọng nặng nề. “Tôi căm thù ông ta hơn bất kỳ một người nào khác trên đời.”

“Wynand ư? Ông ta là người rất ngây thơ. Ông ta ngây thơ đến mức cho rằng động cơ chủ yếu của con người là tiền.”

“Ông thì không thế, Ellsworth. Ông là người chính trực. Đó là lý do tại sao tôi tin tưởng ở ông. Đó là tất cả những gì tôi có. Nếu tôi không còn tin ông, thì, thì tôi sẽ chẳng còn gì nữa… ở bất kỳ đâu.”

“Cám ơn anh Peter. Anh thật tốt bụng… Hoang mang, nhưng tốt bụng.”

“Ellsworth… ông biết tôi cảm thấy thế nào về ông mà.”

“Tôi cũng biết đại khái thôi.”

“Ông biết không, chính vì thế mà tôi không thể hiểu được.”

“Không hiểu cái gì?”

Anh phải nói điều đó ra. Anh đã quyết định sẽ không bao giờ nói ra, nhưng anh phải nói.

“Ellsworth, tại sao ông lại bỏ rơi tôi? Tại sao ông không viết gì nữa về tôi? Tại sao trong mọi bài viết của ông, ở bất cứ đâu… trong mọi vụ làm ăn mà ông xoay xở để có được… lại luôn luôn là Gus Webb?”

“Peter, tại sao lại không nhỉ?”

“Nhưng… Tôi…”

“Tôi thật tiếc khi thấy là anh không hiểu tôi chút nào. Trong ngần ấy năm trời, anh cũng không học được bất cứ điều gì về những nguyên tắc của tôi. Tôi không tin vào chủ nghĩa cá nhân, Peter. Tôi không tin rằng một người nào đó là một cái gì đó mà những người khác không thể. Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều bình đẳng và có thể hoán đổi. Vị trí của anh ngày hôm nay có thể được giữ bởi bất kỳ người nào vào ngày mai. Sự luân chuyển của chủ nghĩa bình quân. Không phải là tôi đã thuyết giảng điều đó cho anh rồi sao? Tại sao anh lại nghĩ rằng tôi đã chọn anh? Tại sao tôi đã đặt anh vào nơi anh đã đứng? Để bảo vệ ngành kiến trúc khỏi bị chiếm giữ bởi những kẻ không thể thay thế được. Để òcn giữ được một cơ hội cho những người như Gus Webb trong thế giới này. Tại sao anh cho rằng tôi đã chống lại, chẳng hạ, Howard Road?”

Đầu óc Keating tím bầm. Anh nghĩ đó là một vết bầm, bởi vì anh cảm thấy có một vật gì đó nặng và phẳng đập vào đầu anh, làm nó thâm đen lại, xanh tím đi và rồi sưng vù lên. Bây giờ thì anh chẳng còn cảm thấy điều gì khác ngoài sự chết lặng tê tái. Những mảnh vụn suy nghĩ mà anh còn cảm nhận được mách bảo anh rằng những điều anh vừa được nghe thuộc về một trật tự đạo đức cao cả; anh đã luôn chấp nhận cái trật tự đó; nó chẳng thể làm gì hại anh và nó cũng chẳng định hại anh. Mắt Toohey nhìn thẳng vào anh, âm u, dịu dàng và bao dung. Có thể sau này… anh sẽ biết sau… Nhưng có một thứ đã đâm xuyên qua và vẫn để lại một vài mảnh vỡ của nó trong tâm trí anh. Anh đã hiểu điều đó. Chính là cái tên “Howard Road.”

Và khi anh chỉ còn đang trông chờ ở chút nhân từ còn sót lại của Toohey, một suy nghĩ không thể giải thích được len lỏi trong anh. Anh cúi hẳn người về phía trước, anh biết điều này hẳn sẽ làm Toohey tổn thương, anh hy vọng nó sẽ làm Toohey bị tổn thương. Môi anh bất chợt cong lên và nở thành một nụ cười phô cả răng lợi:

“Đây chính là thất bại của ông, phải không Ellsworth? Hãy thử nhìn xem anh ta hiện giờ đang đứng ở đâu, Howard Road ấy.”

“Ôi lạy Chúa, lý luận với những cái đầu chỉ bám chằng chằng vào những điều hiển nhiên thật là chán ngấy. Anh hoàn toàn không có khả năng nắm bắt các nguyên tắc, Peter ạ. Anh chỉ nghĩ đến các cá thể. Anh có thực sự cho rằng là tôi không có việc gì trong đời để lo lắng ngoài cái số phận cái anh chàng Howard Road của anh chẳng? Ngài Roark đơn thuần chỉ là một trong vô vàn các tiểu tiết. Tôi đã giải quyết anh ta khi cần. Tôi vẫn còn tiếp tục giải quyết anh ta… mặc dù không trực tiếp. Dù sao thì tôi cũng thừa nhận với anh rằng ngài Howard Road của anh có sức hấp dẫn lớn đối với tôi. Cũng có lúc tôi cảm thấy thật là tiếc nếu như tôi không bao giờ được đối đầu với anh ta nữa. Nhưng điều đó có lẽ cũng chẳng còn cần thiết nữa. Peter này, khi anh giải quyết việc theo các nguyên tắc, anh sẽ tránh được rắc rối phải đối đầu với các cá nhân cụ thể.”

“Ý ông là gì?”

“Ý tôi là anh có thể làm theo một trong hai cách. Anh có thể dành cả cuộc đời anh để nhặt từng ngọn cỏ dại khi nó mọc ra… và mười cuộc đời cũng không đủ cho việc đó. Hoặc anh có thể chuẩn bị đất bằng cách rải một hóa chất nhất định nào đó chẳng hạn, làm cho cỏ dại không thể mọc được. Cách sau nhanh hơn. Tôi nói về cỏ dại bởi vì đó là biểu tượng truyền thống và sẽ không làm anh sợ. Kỹ thuật ấy tất nhiên cũng có thể áp dụng với bất kỳ thực vật nào mà anh muốn loại bỏ: kiều mạch, khoai tây, cam, phong lan hay bìm bìm.”

“Ellsworth, tôi không hiểu ông đang nói về cái gì.”

“Tất nhiên là anh không hiểu tôi. Đó là lợi thế của tôi. Hàng ngày tôi nói những điều này một cách công khai.. và không một ai hiểu tôi đang nói cái gì.”

“Ông đã nghe tin Howard Road đang xây một ngôi nhà riêng cho Gail Wynand chưa?”

“Peter thân mến, anh nghĩ là tôi phải chờ đợi để biết điều đó từ anh à?”

“Ồ, thế ông thấy điều đó thế nào?”

“Tại sao việc đó lại liên quan tới tôi nhỉ?”

“Ông có nghe người ta nói rằng Roark và Wynand là bạn thân của nhau không? Và như tôi nghe được thì đấy là một tình bạn rất gắn bó! Hừm, ông biết Wynand có thể làm được những gì đấy. Ông biết ông ta có thể biến Roark thành cái gì. Cố gắng chặn Roark lại ngay bây giờ đi! Cố gắng chặn anh ta lại! Hãy cố…”

Anh nghẹn lời và cứng người. Anh thấy mình đang nhìn chòng chọc vào mắt cá chân trần nằm giữa ống quần của Toohey và đám lông tua dày của chiếc dép viền da cừu. Anh chưa bao giờ tưởng tượng Toohey khỏa thân. Không biết vì sao anh chưa bao giờ nghĩ về Toohey như là một người có một thân thể hữu hình. Mắt cá chân Toohey có một cái gì đó ẩn chứa vẻ khiếm nhã: làn da trắng xanh, bọc ngoài phần xương trông có vẻ quá giòn. Nó làm anh nghĩ tới những mẩu xương gà còn sót lại trên đĩa ăn sau bữa tối, hết sạch thịt; và chỉ cần bất kỳ ai chạm nhẹ ào là chúng sẽ vỡ vụn ra. Anh thấy mình muốn vươn người ra, dùng ngón cái và ngón trỏ nắm lấy cái mắt cá chân ấy, và bóp vụn nó giữa những đầu ngón tay.

“Ellsworth, tôi đến đây để nói chuyện về Dự án chung cư Cortlandt!” Anh không thể rời mắt khỏi cái mắt cá chân đó. Anh hy vọng rằng những từ này sẽ giải thoát anh.

“Đừng có hét lên như thế. Có chuyện gì thế?… Khu chung cư Cortlandt? Được rồi, anh muốn nói gì về nó nào?”

Lúc này là lúc anh phải nhìn lên, mắt nó vẫn còn kinh ngạc. Toohey chờ đợi một cách vô tư lự.

“Tôi muốn thiết kế Khu chung cư Cortlandt,” anh nói, giọng anh như một đám bột nhão đang được lọc qua một tấm vải. “Tôi muốn ông trao dự án đó cho tôi.”

“Tại sao tôi nên trao nó cho anh?”

Anh không có câu trả lời. Nếu anh nói rằng: bởi vì ông đã từng viết rằng tôi là kiến trúc sư đương thời vĩ đại nhất, thì chính sự gợi nhớ lại đấy sẽ nói lên rằng Toohey không còn tin vào điều đó một chút nào nữa. Anh không dám đối diện với phép thử đó, cũng như điều mà Toohey có thể trả lời. Anh nhìn vào hai sợi lông đen trên mắt cá chân Toohey. Anh có thể nhìn chúng thật rõ ràng: một thẳng, một xoắn lại. Sau một lúc lâu, anh mới trả lời:

“Bởi vì tôi rất cần nó, Ellsworth.”

“Tôi biết anh cần nó.”

Chẳng còn gì hơn để nói. Toohey dịch cổ chân, nhấc chân lên và đặt nó nằm trên thành ghế đi văng, hai cẳng chân duỗi ra một cách thoải mái.

“Ngồi thẳng lên nào, Peter. Anh trông như một cái tượng nửa người nửa thú vậy.”

Keating không động đậy.

“Điều gì làm anh cho rằng tôi là người quyết định việc lựa chọn kiến trúc sư cho Khu chung cư Cortlandt?”

Keating ngẩng đầu lên; thấy nhẹ cả người. Anh đã phỏng đoán quá nhiều và làm Toohey bực mình. Đó là lý do, là lý do duy nhất.

“Ồ, tôi biết… người ta nói thế… Tôi nghe người ta nói rằng ông có ảnh hưởng lớn tới dự án này… với những người ở Washington… và các nơi khác…”

“Chỉ là một vai trò không chính thức. Đại loại như một chuyên gia về các vấn đề kiến trúc. Không có gì khác.”

“Đúng vậy, tất nhiên rồi… đó là… ý tôi cũng thế.”

“Tôi có thể giới thiệu một kiến trúc sư. Thế thôi. Tôi không thể đảm bảo điều gì. Lời nói của tôi không phải là quyết định cuối cùng.”

“Tôi cũng chỉ cần thế thôi, Ellsworth. Sự giới thiệu của ông…”

“Nhưng này, Peter, nếu tôi giới thiệu ai đó, tôi phải đưa ra một lý do. Tôi không thể sử dụng những ảnh hưởng mà tôi có thể có để nâng đỡ một người bạn vào, phải không nào?”

Keating nhìn soi vào cái áo choàng và nghĩ: những miếng bông thoa phấn, tại sao lại là những miếng bông thoa phấn? Đấy, vấn đề của mình là thế đấy; giá mà ông ấy cởi cái áo đấy ra.

“Vị thế nghề nghiệp của anh không còn như trước đây, Peter ạ.”

“Ông đã nói là ‘nâng đỡ một người bạn’, Ellsworth…” Anh thì thầm.

“Ồ, tất nhiên tôi là bạn của anh. Tôi đã luôn luôn là bạn của anh. Anh không nghi ngờ về điều đó chứ?”

“Không… Tôi không thể, Ellsworth…”

“Được rồi, thế thì hãy vui lên chứ. Nghe này, tôi sẽ nói với anh sự thật. Chúng tôi đang bí với cái dự án chết tiệt Cortlandt. Việc này có dính dáng tới một vấn đề nhỏ khốn kiếp. Tôi đã thử lấy dự án này cho Gordon Prescott và Gus Webb… Tôi nghĩ nó phù hợp với họ hơn. Tôi không nghĩ anh thật sự quan tâm đến vụ này. Nhưng không một ai trong số họ có thể thực hiện được. Anh có biết một vấn đề lớn với các dự án về nhà cửa là gì không? Là vấn đề kinh tế, Peter. Làm thế nào để thiết kế một căn hộ hiện đại, tươm tất mà có thể cho thuê với giá mười lăm đô la một tháng? Anh đã từng tìm hiểu việc đó chưa? Đó, đó là điều mà người ta trông chờ ở người kiến trúc sư sẽ thực hiện dự án Cortlandt… nếu họ tìm được anh ta. Dĩ nhiên việc lựa chọn người thuê nhà cũng giúp ích ít nhiều, họ sẽ định ra những mức tiền thuê nhà khác nhau. Những gia đình thu nhập một ngàn hai trăm đô năm sẽ trả nhiều hơn cho một căn hộ y như thế để giúp cho những gia đình thu nhập sáu trăm đô một năm… anh biết đấy, lá rách ít đùm lá rách nhiều… Nhưng vẫn còn một vấn đề là giá xây dựng và bảo dưỡng phải ở mức càng thấp càng tốt. Những chú nhóc ở Washington không muốn bất cứ một dự án nào khác trong số đó… anh đã nghe về chuyện đó đây, một dự án mở rộng khu dân cư nhỏ của chính phủ chỉ xây dựng một căn hộ với giá mười ngàn đô một căn, trong khi một nhà thầu tư nhân có thể cộng thêm vào đó hai ngàn nữa. Cortlandt phải là một dự án mẫu. Một tấm gương cho toàn thế giới. Nó phải thật hoành tráng, một bằng chứng có sức thuyết phục nhất về việc lập kế hoạch toàn thế giới. Nó phải thật hoành tráng, một bằng chứng có sức thuyết phục nhất của việc lập kế hoạch một cách khéo léo và quản lý chi tiêu công trình chưa có nơi nào từng làm được. Đó là điều những sếp lớn yêu cầu. Gordon và Gus đã không thể làm được. Họ đã thử và thất bại. Anh sẽ ngạc nhiên khi có biết bao nhiêu người đã thử sức ở công trình này. Peter, tôi không thể bán anh cho họ, ngay cả với trình độ nghề nghiệp của anh. Tôi có thể nói họ nghe điều gì về anh nhỉ? Tất cả những gì tạo nên hình ảnh của anh là vải nhung, mạ vàng, đá cẩm thạch, lão Guy Francon già, tòa nhà Cosmo-Slotnick, ngân hàng quốc gia, và cái thứ rác rưởi Hành trình của Những thế kỷ mà không bao giờ đủ để trang trải được chi phí cho chính nó. Cái mà họ muốn là một căp bếp của một triệu phú cho một người có thu nhập thấp. Hãy nghĩ xem anh có thể làm việc đó không?”

“Tôi… Tôi có những ý tưởng, Ellsworth. Tôi đã quan sát lĩnh vực này… Tôi đã… nghiên cứu các phương pháp mới… Tôi có thể…”

“Nếu anh có thể, nó là của anh. Nếu anh không thể, tình bạn của tôi sẽ không giúp anh được. Và Chúa biết là tôi muốn giúp anh ra sao. Anh trông giống như một bà già đi trong mưa. Đây là điều tôi sẽ làm cho anh, Peter: đến văn phòng của tôi vào ngày mai, tôi sẽ đưa cho anh mọi thông tin riêng, mang về nhà và xem liệu anh có còn muốn nát óc về nó nữa hay không. Hãy nhận lấy cơ hội, nếu anh có quan tâm. Trình bày cho tôi một phương án sơ bộ. Tôi không thể hứa trước điều gì. Nhưng nếu anh có khả năng tựhc hiện, tôi sẽ gửi nó tới người thích hợp và tôi sẽ tác động với mọi khả năng tôi có. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm cho anh. Việc đó không phụ thuộc vào tôi. Nó thực sự phụ thuộc vào anh.”

Keating ngồi nhìn ông, ánh mắt lo lắng, tha thiết và tuyệt vọng.

“Anh có muốn thử không, Peter?”

“Ông sẽ để tôi thử sức sao?”

“Tất nhiên rồi. Tại sao không? Tôi sẽ vui nếu anh là người vượt qua những người khác để tìm ra lời giải đáp cho bài toán này.”

“Về vẻ ngoài của tôi, Ellsworth,” anh đột ngột nói, “về vẻ ngoài của tôi… không phải là vì tôi nghĩ quá nhiều đến việc tôi thất bại… mà bởi vì tôi không thể hiểu vì sao tôi tuột dốc như thế… từ đỉnh cao… chẳng có một lý do nào…”

“Ồ, Peter, nghĩ đến những việc như thế thật là khủng khiếp. Những điều không thể giải thích được luôn luôn kinh khủng. Nhưng sẽ chẳng có gì đáng sợ nữa, nếu như anh dừng việc tự vấn bản thân rằng liệu có bất kỳ lý do nào lý giải cho việc đáng ra mình phải đang ở trên đỉnh cao… Ồ, nào Peter, cười lên nào, tôi chỉ đùa thôi. người ta sẽ mất tất cả khi đánh mất đi sự hài hước của mình.”

*

* *

Sáng hôm sau Keating đi tới văn phòng của anh sau khi ghé qua văn phòng làm việc của Ellsworth Toohey ở tòa nhà Ngọn cờ. Anh mang theo một cặp sách chứa dữ liệu về Dự án chung cư Cortlandt. Anh trải các tờ giấy lên chiếc bàn rộng trong văn phòng và khóa cửa lại. Anh yêu cầu một người vẽ sơ đồ thiết kế mang đến cho anh một chiếc bánh mì kẹp thịt vào buổi trưa và yêu cầu một cái nữa cho bữa tối.

“Anh có cần tôi giúp gì không Peter?” Neil Dumont hỏi. “Chúng ta có thể bàn bạc, thảo luận và…”

Keating lắc đầu.

Anh ngồi ở bàn mình cả đêm. Sau một lúc, anh thôi không nhìn vào các tờ giấy nữa và ngồi yên lặng, ngẫm nghĩ. Anh không nghĩ về những biểu đồ và hình ảnh trải ra trước mặt. Anh đã nghiên cứu chúng. Anh đã hiểu ra rằng anh không thể làm được.

Khi anh nhận ra rằng trời đã sáng, khi anh nghe thấy những bước chân đằng đẵng sau cánh cửa khóa, tiếng động của những người quay lại làm việc, anh mới biết rằng giờ làm việc đã bắt đầu tại đây và các nơi khác trong thành phố. Anh đứng dậy, đi tới bàn làm việc và tìm cuốn niên giám điện thoại. Anh quay số.

“Tôi là Peter Keating. Tôi cần hẹn gặp ông Roark.”

Chúa ơi, anh nghĩ trong khi chờ đợi, đừng để anh ta gặp con. Hãy làm cho anh ta từ chối và con sẽ có quyền căm ghét anh ta tới cuối đời. Đừng để anh ta gặp con.

“Bốn giờ chiều ngày mai có được không, ông Keating?” giọng nói dịu dàng điềm đạm của người thư ký vang lên. “Ông Roark sẽ gặp ông lúc đó.”

Bình luận