Dominique đưa mắt nhìn quanh phòng ngủ của cô trên căn hộ áp mái. Đấy là liên lạc đầu tiên của cô với thế giới xung quanh, sau khi cô tỉnh lại. Cô biết là mình đã được chuyển về đây sau nhiều ngày nằm viện. Căn phòng tràn ngập ánh sáng. Cô nghĩ: cái cảm giác nhận biết mọi thứ rõ ràng như pha lê vẫn còn ở lại, nó sẽ còn ở lại mãi mãi. Cô nhìn thấy Wynand đang đứng bên giường. Ông quan sát cô. Trông ông vui mừng.
Cô nhớ đã nhìn thấy ông ở bệnh viện. Lúc đó trông ông không vui. Cô cũng nhớ là ngay trong đêm đầu tiên nhập viện, bác sĩ đã nói với Wynand rằng cô khó có thể qua khỏi. Lúc đó cô muốn nói với tất cả mọi người rằng cô phải sống, cô chẳng có lựa chọn nào khác ngoài sống, chỉ có điều hình như việc nói cho mọi người biết cũng chẳng quan trọng gì – chẳng bao giờ còn quan trọng nữa.
Bây giờ thì cô đã quay trở lại với cuộc sống. Cô có thể cảm thấy băng quấn khắp thân thể cô – ở cổ họng, ở hai chân và ở cánh tay trái. Hai bàn tay cô được đặt phía trước mặt cô, trên tấm chăn. Người ta đã tháo gạc và hai tay chỉ còn lại vài vết xước đỏ.
“Em thật là đồ ngốc!” Wynand nói với vẻ sung sướng “Tại sao em lại phải làm việc đó hoàn hảo đến vậy?”
Cô nằm trên giường với bộ tóc vàng mềm mại xõa trên chiếc gối màu trắng, người mặc một bộ đồng phục cao cổ màu trắng của bệnh viện. Trông cô trẻ trung hơn cả lúc cô còn trẻ. Một vẻ rạng rỡ lặng lẽ tỏa trên khuôn mặt cô – cô đã không bao giờ có điều đó kể cả trong thời thơ ấu, nó là sự nhận biết trọn vẹn về sự thanh thản, về sự trong trắng và sự bình yên.
“Xe của em bị hết xăng” cô nói, “em đang ngồi đợi trong xe thì…”
“Anh đã nói thế với cảnh sát và người trực đêm cũng nói điều đó với họ. Nhưng chẳng nhẽ em không biết là phải cẩn thận với kính hay sao?”
Gail trông thư thái – cô nghĩ – và rất tự tin. Sự việc vừa xảy ra đã làm thay đổi mọi thứ với ông ấy – cũng như đối với mình.
“Nó không làm đau em” – cô nói thêm.
“Lần sau nếu em muốn đóng vai kẻ qua đường vô tội thì hãy để anh dạy em trước đã nhé.”
“Nhưng mà họ tin, có đúng không?”
“Phải rồi, họ tin chứ. Họ phải tin. Vì em gần chết cơ mà. Anh chỉ không hiểu là tại sao anh ta phải cứu sống gã trực đêm, trong khi suýt lấy đi mạng sống của em.”
“Ai cơ?”
“Howard, em yêu quý. Howard Roark.”
“Anh ấy thì có dính dáng gì ở đây?”
“Em yêu quý, bây giờ thì cảnh sát chưa hỏi em, nhưng rồi họ sẽ hỏi, và khi đó em phải tỏ ra đáng tin hơn thế này nhiều. Tuy nhiên, anh nghĩ là em sẽ thành công. Họ sẽ không nghĩ tới vụ Stoddard.”
“Ồ.”
“Em đã làm điều đó và em sẽ luôn làm. Dù em nghĩ về con người anh ấy thế nào đi nữa, em vẫn cảm thấy giống hệt như anh về các công trình của anh ấy.”
“Gail, anh mừng vì em đã làm điều đó?”
“Phải.”
Cô thấy ông đang nhìn xuống bàn tay của cô đặt ở mép giường. Sau đó ông quỳ xuống, môi áp vào tay cô, ngón tay ông không nâng, không chạm vào nó, chỉ có miệng là chạm vào. Đó là sự thú nhận duy nhất ông cho phép mình bộc lộ về những gì ông cảm thấy trong những ngày cô nằm viện. Cô nhấc bàn tay còn lại và đặt nó lên tóc ông. Cô nghĩ: mọi chuyện sẽ còn tồi hơn so với việc em chết, Gail, nhưng không sao, nó sẽ không thể làm đau anh được, sẽ không còn có đau đớn trên thế giới, không là gì so với việc chúng ta tồn tại: anh ấy, anh và em – anh đã hiểu tất cả những điều quan trọng nhất, mặc dù anh không biết là anh đã mất em.
Ông ngẩng đầu lên và đứng dậy.
“Anh không có ý trách em đâu. Tha lỗi cho anh.”
“Em sẽ không chết đâu, Gail. Em cảm thấy rất tuyệt vời.”
“Trông em đúng là như vậy.”
“Có phải là họ đã bắt anh ấy?”
“Anh ấy được bảo lãnh tại ngoại.”
“Anh hạnh phúc chứ?”
“Anh mừng vì em đã làm điều đó và đó là vì anh ấy. Anh cũng mừng vì anh ấy đã làm như vậy. Anh ấy phải làm thế.”
“Vâng. Và nó sẽ lại là phiên tòa Stoddard một lần nữa.”
“Không hẳn.”
“Anh đã luôn muốn có một cơ hội nữa, phải không Gail? Trong chừng ấy năm?”
“Đúng vậy.”
“Em đọc báo được không?”
“Không. Em không được đọc cho đến khi khỏi hẳn.”
“Thậm chí không được đọc cả tờ Ngọn cờ!”
“Tờ Ngọn cờ thì càng không.”
“Em yêu anh, Gail. Nếu anh có thể đứng vững đến cùng…”
“Đừng có hối lộ anh. Chuyện này không phải là giữa em với anh. Thậm chí cũng không phải là giữa anh ấy với anh.”
“Mà là giữa anh và Thượng đế?”
“Nếu em muốn gọi nó như thế cũng được. Nhưng chúng ta sẽ không thảo luận về chuyện này, cho đến ngày mọi chuyện xong xuôi đã. Có một người đang đợi em ở dưới. Anh ấy đã ở đây hàng ngày.”
“Ai vậy?”
“Người tình của em Howard Roark. Có muốn để anh ta cảm ơn em vào lúc này không?”
Vẻ chế giễu hài hước của ông, cái giọng ông khi nói ra cái điều phi lý nhất mà ông có thể nghĩ ra mách bảo với cô rằng ông không hề đoán được sự thật. Cô nói:
“Vâng. Em muốn gặp anh ấy. Gail, nếu em quyết định biến anh ấy thành người tình của em?”
“Anh sẽ giết chết cả hai người. Nào, đừng có nhúc nhích, nằm yên, bác sĩ nói rằng em nên thư giãn, em đã có tổng cộng hai mươi sáu mũi khâu trên khắp người.”
*
* *
Khi viên cảnh sát đầu tiên đến hiện trường của vụ nổ, ông ta tìm thấy, ở sau tòa nhà, bên bờ sông, cái pít-tông dùng để châm ngòi cho khối thuốc nổ. Roark đứng bên cạnh cái pít-tông đó, tay đút trong túi áo, mắt nhìn vào khối đổ nát còn sót lại của Cortlandt.
“Này anh kia, anh có biết gì về vụ này không?” viên cảnh sát hỏi.
“Ông nên bắt tôi,” Roark nói. “Tôi sẽ nói tại phiên tòa.”
Anh không nói thêm một từ nào để đáp lại những câu thẩm vấn chính thức liền sau đó.
Chính Wynand đã bảo lãnh cho anh được tại ngoại, vào sáng sớm hôm sau. Wynand đã rất bình tĩnh tại bệnh viện cấp cứu khi ông nhìn thấy những vết thương trên người Dominique, cả vào lúc người ta đã nói với ông rằng Dominique sẽ không qua khỏi. Ông đã rất bình tĩnh khi gọi điện thoại, lôi một viên thẩm phán của hạt ra khỏi phòng ngủ và thu xếp cho Roark tại ngoại. Nhưng khi ông đứng trong phòng giám trại của cái nhà giam bé nhỏ trong hạt thì ông bất thần run người. “Một bọn ngu ngốc khát máu!” Ông rít lên qua kẽ răng và tiếp đó là tất cả những câu chửi bẩn thỉu nhất mà ông đã học được ở bến cảng. Ông quên hết mọi khía cạnh của tình trạng hiện tại, chỉ trừ một thứ: việc Roark đang ở đường sau song sắt. Ông lại là Wynand Kều ở Hell’s Kitchen và đây là kiểu thịnh nộ mà thỉnh thoảng ông vẫn để nổ ra, giống như khi ông phải đứng đằng sau một bức tường gạch đổ vỡ, chờ đợi bị giết chết. Chỉ đến lúc này ông mới nhận ra rằng ông cũng còn là Gail Wynand, ông chủ của một đế chế, và ông không hiểu tại sao người ta cần có những thủ tục luật pháp lằng nhằng đến vậy, tại sao ông không phá tan cái phòng tạm giam này, bằng nắm đấm hoặc những bài báo của ông, tất cả chỉ là một đối với ông trong thời điểm này, ông muốn được giết, ông phải giết, giống như cái đêm đó ở đằng sau bức tường, ông đã phải giết để bảo vệ mạng sống của mình.
Ông đã kiềm chế để ký các loại giấy tờ, đã kiềm chế trong lúc đợi Roark được đưa ra gặp ông. Họ cùng nhau bước ra ngoài, Roark cầm cổ tay ông lôi đi, và khi họ tới xe thì Wynand đã bình tĩnh trở lại. Ở trong xe Wynand hỏi:
“Tất nhiên là anh đã làm việc đó?”
“Tất nhiên.”
“Chúng ta sẽ cùng chiến đấu.”
“Nếu như ông muốn biến nó thành trận chiến của ông.”
“Theo ước tính hiện tại thì tài sản của tôi có khoảng 40 triệu đô la. Như thế là đủ để thuê bất cứ luật sư nào anh muốn, hoặc tất cả ngành luật của cái nước này.”
“Tôi sẽ không sử dụng luật sư.”
“Howard! Anh không định nộp các bức ảnh nữa đấy chứ?”
“Không, lần này thì không.”
*
* *
Roark đi vào phòng ngủ và ngồi xuống một cái ghế ở cạnh giường. Dominique vẫn nằm im, mắt nhìn anh. Họ mỉm cười với nhau. Không cần phải nói gì cả, kể cả lần này – cô nghĩ.
Cô hỏi:
“Anh đã bị giam?”
“Chỉ vài giờ thôi.”
“Nó như thế nào?”
“Đừng có phản ứng giống Gail.”
“Gail phản ứng tệ lắm à?”
“Rất tệ.”
“Em sẽ không như thế.”
“Có thể anh sẽ phải quay lại ở tù trong nhiều năm. Em đã biết điều đó khi em nhận lời giúp anh.”
“Vâng. Em biết.”
“Anh trông chờ vào em để cứu Gail, nếu như anh phải vào tù.”
“Trông chờ vào em?”
Anh nhìn vào cô và lắc đầu. “em yêu…” tiếng anh như thể là lời trách móc.
“Vâng” cô thì thầm.
“Đến giờ em vẫn không biết rằng đó là một cái bẫy anh đặt ra để lừa em sao?”
“Thế nào cơ?”
“Em sẽ làm gì nếu anh đã không nhờ em giúp anh?”
“Em sẽ ở chỗ anh, trong phòng của anh, trong nhà Enright, ngay lúc này, công khai và đàng hoàng.”
“Đúng rồi. Nhưng bây giờ thì em không thể làm được việc đó. Em là bà Gail Wynand, không ai nghi ngờ em cả, và mọi người đều tin rằng em tình cờ có mặt ở hiện trường. Cứ để cho mọi người nghĩ như vậy về chúng ta – và đó sẽ là bằng chứng anh đã làm việc đó.”
“Em hiểu rồi.”
“Anh muốn em giữ im lặng. Nếu em có ý định muốn chia sẻ gánh nặng này với anh thì hãy từ bỏ đi nhé. Anh sẽ không nói cho em biết anh định làm gì bởi vì đó là cách duy nhất anh có thể kiểm soát được em cho đến phiên tòa. Dominique, nếu anh bị kết án, anh muốn em ở lại với Gail. Anh tin tưởng vào em về chuyện đó, anh muốn em vẫn tiếp tục sống với Gail và không bao giờ nói với ông ấy về chuyện của chúng ta, bởi vì em và ông ấy sẽ cần đến nhau.”
“Còn nếu anh được xử trắng án?”
“Thì…” anh nhìn lướt qua căn phòng, phòng ngủ của Wynand. “Anh không muốn nói điều đó ở đây. Nhưng em biết điều đó.”
“Anh rất yêu quý ông ấy phải không?”
“Đúng thế.”
“Đủ để hy sinh…”
Anh mỉm cười. “Em đã sợ điều đó kể từ lần đầu tiên anh đến đây phải không?”
“Vâng.”
Anh nhìn thẳng vào mắt cô. “Em có nghĩ là điều đó có thể xảy ra không?”
“Không.”
“Không thể, với công việc của anh hoặc là em, Dominique. Không bao giờ. Nhưng anh có thể làm đến mức này vì ông ấy. Anh có thể để em lại cho ông ấy, nếu như anh phải ra đi.”
“Anh sẽ được trắng án.”
“Đó không phải là điều anh muốn nghe em nói.”
“Nếu họ kết tội anh – nếu họ đưa anh vào tù hoặc còng anh lại – nếu họ bôi bẩn tên anh trên những dòng tít báo nhơ nhuốc – nếu họ không cho anh thiết kế một tòa nhà nào nữa – nếu họ không bao giờ cho em được nhìn thấy anh nữa – thì nó cũng chẳng quan trọng. Không quá quan trọng. Chỉ xuống đến một điểm nào đó thôi.”
“Dominique, anh đã chờ nghe em nói điều đó suốt bảy năm qua.” Anh cầm lấy tay cô, anh nâng nó lên và ghé môi hôn, và cô cảm thấy môi anh đặt đúng chỗ mà Wynand đã hôn lúc trước. Sau đó anh đứng dậy.
“Em sẽ chờ,” cô nói. “Em sẽ giữ im lặng. Em sẽ không lại gần anh. Em hứa.”
Anh mỉm cười và gật đầu. Sau đó anh đi.
*
* *
“Chuyện là, vào những tình huống hiếm hoi, các lực lượng to lớn của thế giới mà chúng ta vốn không thể hiểu được lại cùng tụ lại trong một sự việc đơn lẻ, giống như những tia sáng đi qua một cái thấu kính hội tụ sẽ tụ lại thành một điểm sáng chói, để cho tất cả chúng ta cùng nhìn thấy. Đó là vụ phá hoại tòa nhà Cortlandt. Tại đây, trong một thế giới vi mô, chúng ta có thể quan sát được giống ác quỷ đã phá hoại hành tinh tội nghiệp của chúng ta từ ngày nó được sinh ra từ dòng máu vũ trụ. Cái tôi của một người dám chống lại tất cả những khái niệm về tình thương, lòng nhân đạo và tình bằng hữu. Một người dám phá hủy ngôi nhà tương lai của những người nghèo. Một người đẩy hàng ngàn người khác về với sự kinh hoàng của những khu nhà ổ chuột, của sự hôi thối, của bệnh tật và chết chóc. Khi một xã hội – nhờ được giác ngộ và có một quan niệm mới về bổn phận và nhân đạo – đã nỗ lực hết mình để cứu vớt những người thiệt thòi, khi những tài năng lớn nhất của cả xã hội đã tập trung lại để tạo ra một khu nhà ở tử tế cho họ – thì cái tôi của một kẻ khác đã phá tan tành tất cả thành tựu ấy. Và để làm gì cơ chứ? Để thỏa mãn thói hám danh phù phiếm, thỏa mãn thói kiêu ngạo rỗng tuếch nào đó. Tôi thật lấy làm tiếc là luật pháp của chúng ta chỉ dừng lại ở mức phạt tù đối với tội này. Kẻ đó cần phải bị tước bỏ cuộc sống. Xã hội cần có quyền được loại bỏ ra khỏi nó những người như Howard Roark.”
Ellsworth M. Toohey đã viết như vậy trên tờ Những mặt trận mới.
Ông đã nhận được sự đồng tình từ khắp nơi. Vụ nổ của Cortlandt chỉ kéo dài nửa phút. Nhưng cơn thịnh nộ của công chúng thì cứ tiếp diễn, như có một đám mây làm từ thạch cao phủ lên bầu không khí, từ đám mây đó gỉ sắt và rác rưởi rơi xuống như mưa.
Roark đã bị truy tố bởi một bồi thẩm đoàn. Anh đã tuyên bố mình “Vô tội” và đã từ chối phát biểu bất cứ điều gì khác. Anh được thả ra theo một bản cam kết do Gail Wynand sắp đặt, và anh đang đợi phiên tòa.
Có rất nhiều phỏng đoán về động cơ của anh. Có người nói rằng đó là vì lòng đố kỵ nghề nghiệp. Người khác cho rằng có sự tương đồng giữa thiết kế Cortlandt và phong cách của Roark, rằng Keating, Prescott và Webb có thể đã vay mượn một chút từ Roark – “một sự mô phỏng hợp pháp” – “không có quyền sở hữu về ý tưởng” – “trong một xã hội dân chủ, nghệ thuận thuộc về nhân dân” – và rằng Roark đã bị kích động bới cái máu trả đũa của giới nghệ sĩ khi anh tin rằng người ta đã đánh cắp ý tưởng của anh.
Chẳng có lời giải thích nào rõ ràng, nhưng cũng chẳng ai để ý nhiều đến động cơ. Vấn đề rất đơn giải: một người chống lại nhiều người. Roark không có quyền có cả động cơ.
Một tòa nhà, được xây vì mục đích từ thiện, làm chỗ ở cho người nghèo. Tòa nhà ấy được xây dựng trên mười nghìn năm, ở đó loài người luôn được dạy dỗ rằng từ thiện và hy sinh bản thân là những khái niệm tuyệt đối không được phép nghi ngờ, đó là thước đo của phẩm giá, là lý tưởng cuối cùng. Mười ngàn năm những tiếng nói về phục vụ và hy sinh – hy sinh là nguyên tắc quan trọng nhất của cuộc sống – phục vụ và được phục vụ – tiêu diệt hay bị tiêu diệt – hy sinh là cao quý – hãy làm những gì bạn có thể, ở đầu này hoặc đầu kia – phục vụ và hy sinh – phục vụ và phục vụ và phục vụ…
Chống lại những điều ấy – là một người không muốn phục vụ mà cũng không muốn cai trị. Và vì thế người ấy đã mắc một tội lỗi không thể tha thứ được.
Đó là một vụ xì-căng-đan giật gân, và đi kèm với nó, như thường lệ, là những ồn ào và phẫn nộ chính đáng – giống như sự chính đáng của những lễ hành hình ném đá trong lịch sử loài người. nhưng hơn thế nữa, còn có cái gì đó dữ dội và rất riêng tư trong sự căm phẫn của mỗi người thể hiện khi bàn tán về chuyện này.
“Anh ta chỉ là một kẻ cực kỳ ích kỷ, hoàn toàn không có ý niệm đạo đức nào.”
– đó là lời nói của một quý bà giàu có đang mặc đồ để đi đến một hội chợ từ thiện. Bà ta không dám nghĩ xem, nếu như làm từ thiện không còn là một thứ đức hạnh có thể biện minh cho mọi thứ khác, thì bà ta còn cách nào khác để bộc lộ bản thân mình, và khi ấy làm thế nào để bà ta có thể khoe khoang với bạn bè về bản thân.
– đó là lời nói của một nhà văn, một người sẽ không biết viết gì nếu như bỏ đi chủ đề về sự phục vụ và lòng hy sinh, một kẻ thổn thức trước hàng nghìn người rằng anh ta yêu họ, rất yêu họ và xin họ làm ơn hãy yêu anh ta dù chỉ là một chút ít.
– đó là lời nói của một nhà báo, một người vừa mua một biệt thự ở ngoại ô nhờ vào những bài viết vỗ về những người thấp cổ bé họng.
– đó là lời nói của tất cả những người thấp cổ bé họng, những người muốn được nghe nói về tình yêu, tình yêu vĩ đại, tình yêu dễ dãi, tình yêu mà có thể bao bọc được mọi thứ, tha thứ tất cả và cho phép tất cả.
– đó là lời nói của một kẻ sống thứ sinh, một người không thể tồn tại được trừ khi làm một con đỉa hút linh hồn người khác.
Ellsworth Toohey ngồi thoải mái, quan sát, lắng nghe và mỉm cười.
Gordon L. Prescott và Gus Webb liên tục được mời đến dự các bữa tối và các buổi tiệc cocktail; họ được đối xử với một sự quan tâm nhẹ nhàng, hơi tò mò, như những kẻ sống sót sau một thảm họa. Họ nói họ không thể hiểu được động cơ nào khiến cho Roark làm điều đó, và họ đòi phải có công lý.
Peter Keating không đi đâu cả. Anh từ chối gặp gỡ báo chí. Anh từ chối gặp bất cứ ai. Nhưng anh đã viết một bản tuyên bố rằng anh tin Roark vô tội. Nó có một câu khá lạ, câu cuối cùng. Câu đó nói: “Hãy để cho anh ấy yên thân, làm ơn, các người không thể để cho anh ấy yên được sao?”
Những người biểu tình thuộc Hiệp hội những người xây dựng Hoa Kỳ diễu qua diễu lại trước tòa nhà Cord. Nhưng điều ấy chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì hiện công ty của Roark đã ngừng làm việc. Tất cả những dự án sắp được triển khai của anh đều đã bị hủy bỏ.
Đây là tinh thần đoàn kết. Những cô diễn viên mới vào nghề đang ngồi làm móng chân – những bà vợ đang mua cà-rốt từ một hàng rong – những người thủ thư từng muốn trở thành một nghệ sĩ Piano nhưng đã từ bỏ với lý do phải kiếm sống nuôi em gái mình – những người công nhân ghét công việc – những người trí thức ghét tất cả mọi người – tất cả đều đoàn kết lại như anh em một nhà vì họ có chung một cơn giận dữ. Cơn giận ấy có thể giải tỏa được những buồn chán của họ, giải phóng họ ra khỏi bản thân, và họ biết được giải phóng khỏi bản thân thật là một ơn phước lớn. Tất cả bạn đọc đều nhất trí đồng lòng. Báo chí cũng vậy.
Gail Wynand chống lại dòng thác đó.
“Gail” Alvah Scarret đã há hốc miệng. “Chúng ta không thể bảo vệ một kẻ phá nhà bằng thuốc nổ!”
“Đừng nói nữa, Alvah,” Wynand đã nói, “trước khi tôi đấm gãy răng của anh.”
Gail Wynand đứng ở giữa phòng làm việc, đầu ông ngửa ra phía sau, ông mừng vì ông đang sống, giống như ông đã cảm thấy thế khi đứng ở bến cảng trong đêm tối, nhìn về ánh đèn của thành phố.
“Trong những tiếng gào thét hỗn loạn đang bao trùm lên chúng ta” – một bài xã luận của tờ Ngọn Cờ, ký tên “Gail Wynand”, đã viết với chữ phóng to – “dường như không có ai nhớ rằng Howard Roark đã tự nguyện nộp mình cho nhà chức trách. Nếu chính anh ta làm nổ tòa nhà đó – thì anh ấy có cần phải ở lại hiện trường để bị bắt không? Thế mà chúng ta đã không đợi để biết lý do của anh ấy. Chúng ta đã kết tội Roark mà không cần nghe bào chữa. Chúng ta muốn anh ta mắc tội. Chúng ta sung sướng vì có vụ án này. Những gì các bạn đã nghe không phải là sự phẫn nộ – đó là sự hả hê. Bất cứ một kẻ vô học nào, bất cứ một kẻ vô đạo đức phạm tội giết người nào cũng đều nhận được một chút thương cảm từ chúng ta, thậm chí được cả một đội quân những người bảo vệ nhân quyền ủng hộ. Nhưng một thiên tài lại luôn bị mặc định là có tội. Chúng ta luôn mặc nhiên cho rằng việc kết án một người chỉ vì người đó yếu đuối và bé nhỏ là bất công. Như vậy, một xã hội đã xuống cấp đến mức nào khi nó kết án một người chỉ vì người đó mạnh mẽ và vĩ đại? Thế nhưng đó lại là cả cái bầu không khí đạo đức trong thời đại chúng ta – thời đại của những kẻ đạo đức giả.”
“Chúng ta đã được nghe người ta gào lên,” một bài xã luận khác của Wynand viết “rằng Howard Roark đã dành cả sự nghiệp của anh ta để đi vào các phiên tòa. Điều đó rất đúng. Một người như Roark sinh ra là để suốt đời đứng trước phiên tòa xét xử của cả xã hội. Nhưng ai được quyền kết tội ai đây – Roark hay là xã hội này?”
“Chúng ta chưa từng cố gắng hiểu điều gì tạo nên sự vĩ đại ở con người và làm thế nào để nhận ra sự vĩ đại đó” lại một bài xã luận nữa của Wynand. “Chúng ta thường cho rằng – và đây là một kiểu nhận thức hết sức cải lương – sự vĩ đại được đo bởi mức độ hy sinh bản thân. Chúng ta nhai đi nhai lại rằng hy sinh bản thân là phẩm chất cao quý nhất. Hãy dừng lại một giây và suy nghĩ xem. Có thật hy sinh là một phẩm chất cao quý? Liệu một người có thể hy sinh sự chính trực của anh ta? Danh dự của anh ta? Tự do của anh ta? Lý tưởng của anh ta? Niềm tin của anh ta? Sự trung thực trong cảm giác của anh ta? Khả năng tư duy độc lập của anh ta? Những thứ này là những tài sản quý giá nhất của một con người. Bất cứ cái gì anh ta phải từ bỏ để giữ lại được chúng đều không phải là hy sinh, mà chỉ đơn giản là một thỏa hiệp dễ dãi. Những thứ này nằm bên trên phạm vi những thứ có thể hy sinh, dù vì bất cứ sự nghiệp nào hay lý do nào. Như vậy, có lẽ chúng ta nên chấm dứt việc rao giảng những lý thuyết độc ác và nguy hiểm. Hy sinh bản thân ư? Nhưng chính bản thân lại là thứ không thể và không được phép hy sinh. Chính cái tôi-không-chịu-hy-sinh này là thứ mà chúng ta cần phải kính trọng nhất ở một con người.”
Bài xã luận này đã được trích lại ở tờ Những mặt trận mới và nhiều tờ báo khác. Nó được in, đóng khung dưới dòng chữ tiêu đề: “Hãy nhìn xem ai đang nói kìa!”
Gail phá lên cười. Sự phản đối có tác dụng như nguồn nhiên liệu với ông. Nó làm ông mạnh mẽ hơn. Đây là một cuộc chiến, và đã lâu rồi ông chưa từng tham gia một cuộc chiến thực sự nào cả. Lần cuối cùng là khi ông đặt nền móng cho đế chế của mình giữa sự phản đối kịch liệt của toàn bộ những người làm báo. Ông đang có trong tay cái không-thể-có, cái mà mỗi người đều mơ ước đó là cơ hội và sức lực của tuổi trẻ, kết hợp với kinh nghiệm. Một khởi đầu mới và sự sung sức – cùng tụ lại một chỗ. Ta đã đợi và đã sống, ông nghĩ, chỉ để cho điều này.
Tất cả hai mươi tờ báo, tạp chí và kênh thời sự của ông đều nhận được lệnh: bảo vệ Roark, lăng-xê Roark trước công chúng. Cản trở việc xử giáo của đám đông.
“Bất kể sự thật là gì”, Wynand giải thích với các nhân viên của ông, “đây sẽ không phải là một phiên tòa dựa trên sự thật. Nó là một phiên tòa dựa trên công luận. Chúng ta luôn là những người đẻ ra công luận. Hãy đẻ ra nó đi, lăng-xê Roark. Tôi không quan tâm các anh làm như thế nào. Tôi đã đào tạo các anh. Các anh là những chuyên gia về chuyện đó. Bây giờ hãy cho tôi xem các anh giỏi đến đâu.”
Đáp lời ông là sự im lặng, các nhân viên của ông đưa mắt nhìn nhau. Alvah Scarret xoa xoa trán. Nhưng họ đều tuân lệnh ông.
Tờ Ngọn cờ in một bức tranh tòa nhà Enright, với dòng chú thích: “Đây có phải là người mà các vị muốn hủy hoại?” Một bức ảnh chụp ngôi nhà của Wynand: “Cố mà xây một ngôi nhà như thế này, nếu quý vị có thể.” Một bức về Thung lũng Monadnock “Đây có phải là người không đóng góp gì cho xã hội?”
Tờ Ngọn cờ đăng tiểu sử của Roark, do một người chưa ai từng biết tên viết, chính Gail Wynand đã viết bài đó. Tờ Ngọn cờ còn đăng hàng loạt những vụ án nổi tiếng, trong đó những người vô tội đã bị kết án bởi sự định kiến của số đông vào thời điểm đó. Tờ Ngọn cờ có những bài viết về những người đã hy sinh cho xã hội như: Socrates, Galileo, Pasteur, những nhà tư tưởng, nhà khoa học, một hàng dài những anh hùng – mỗi người trong đó đều là người đã đứng một mình, đã dám bất chấp dư luận.
“Nhưng Gail, vì chúa, Gail, đó chỉ là một dự án xây nhà!” Alvah Scarret than vãn.
Wynand nhìn ông một cách tuyệt vọng: “Tôi nghĩ không có cách nào làm cho lũ ngốc các anh hiểu được rằng chuyện này chẳng có dính dáng gì đến vụ xây nhà cả. Được thôi. Chúng ta sẽ nói chuyện về các dự án xây nhà vậy.”
Tờ Ngọn cờ đưa ra một loạt tiết lộ về các dự án nhà cửa: những vụ hối lộ, những sự bất tài, những khu nhà được xây lên với giá gấp năm lần chi phí xây dựng của một nhà thầu tư nhân, những khu chung cư được xây rồi bị bỏ hoang, những công trình có chất lượng tồi nhưng được phê duyệt, được chiêm ngưỡng, được tha thứ và bảo vệ nhờ núp bóng con bò thần có tên “vì người nghèo”. “Người ta nói chính địa ngục cũng được xây lên từ những dự định tốt đẹp”, tờ Ngọn cờ viết. “Có phải đó là do chúng ta chưa bao giờ học được cách phân biệt xem dự định nào tạo nên cái tốt? Bây giờ không phải là lúc để học sao? Thế giới của chúng ta chưa bao giờ có nhiều dự định tốt được tuyên bố ầm ĩ như bây giờ. Và hãy nhìn thế giới này mà xem.”
Những bài xã luận của tờ Ngọn cờ đều do Gail Wynand viết. Ông đứng tại một cái bàn trong phòng sáng tác và viết trên một tấm bìa lớn, bằng một chiếc bút chì xanh và những nét chữ cao đúng 1 inch. Ông phóng tay ký hai chữ “G.W.” ở cuối mãi bài viết và những chữ cái nổi tiếng ấy chưa bao giờ lại mang một vẻ kiêu hãnh bất cần như thế.
Dominique đã bình phục và trở về căn nhà ngoại ô của họ. Wynand trở về nhà muộn vào buổi tối. Ông thường xuyên kéo Roark về cùng mỗi khi có thể. Họ ngồi cùng nhau trong phòng khách, cửa sổ mở toang trong đêm mùa xuân. Những dải đất tối trên quả đồi bắt đầu từ chân tường nhà chạy thoai thoải xuống hồ và mặt nước hồ lấp lánh xuyên qua những rặng cây ở xa xa phía dưới. Họ không nói chuyện về vụ án cũng như không nói về phiên tòa sắp tới. Nhưng Wynand nói về chiến dịch của mình, một cách lạnh băng, cứ như thể nó không dính dáng gì đến Roark cả. Wynand đứng ở giữa phòng, và nói:
“Được thôi, cả sự nghiệp của tờ Ngọn cờ này chỉ là rác rưởi. Nhưng vụ này sẽ thanh tẩy tất cả. Dominique, anh biết là em chưa bao giờ hiểu được tại sao anh không thấy xấu hổ với quá khứ. Tại sao anh yêu quý tờ Ngọn cờ. Bây giờ em sẽ thấy câu trả lời. Đó là quyền lực. Anh có một quyền lực mà anh chưa từng bao giờ kiểm tra. Bây giờ em sẽ thấy anh kiểm tra nó. Họ sẽ nghĩ những gì mà anh muốn họ nghĩ. Họ sẽ làm theo những gì mà anh nói. Bởi vì đây là thành phố của anh và anh thực sự là ông chủ ở đây. Howard, cho đến lúc anh phải ra tòa, tôi sẽ khiến cho tất cả bọn họ quay ngoắt lại, đến mức không có bồi thẩm đoàn nào dám kết tội anh.”
Ông không ngủ được vào ban đêm. Ông không muốn ngủ. “Đi ngủ đi” ông sẽ nói với Roark và Dominique như vậy, “vài phút nữa tôi cũng sẽ đi ngủ.” Sau đó, Dominique từ trong phòng ngủ, và Roark từ trong phòng dành cho khách ở bên kia hành lang sẽ nghe thấy bước chân của Wynand đi đi lại lại hàng giờ ngoài hiên – tiếng bước chân ấy như chứa một niềm vui không thể ngừng nghỉ, mỗi bước như một câu nói, một lời tuyên bố được ghim chặt xuống sàn nhà.
Một lần, khi Wynand đuổi hai người đi ngủ khi đêm đã khuya, Roark và Dominique cùng đi lên cầu thang và dừng lại ở bậc chờ đầu tiên, họ nghe thấy tiếng một que diêm được quẹt rất mạnh trong phòng khách ở dưới, một âm thanh gợi lên một hình ảnh một bàn tay đã giật mạnh một cách bất cần để châm lửa điếu thuốc đầu tiên trong chuỗi dài những điếu thuốc sẽ được đốt cho tới sáng sớm, một đốm sáng nhỏ lướt qua lướt lại ngoài hiên cùng với tiếng chân chắc nịch.
Họ cùng nhìn xuống cầu thang và sau đó nhìn nhau.
“Thật kinh khủng,” Dominique nói.
“Thật tuyệt vời,” Roark nói.
“Wynand không thể giúp anh được, cho dù ông ấy có làm gì đi chăng nữa.”
“Anh biết là ông ấy không thể. Nhưng đó không phải là vấn đề chính.”
“Ông ấy đang mạo hiểm mọi thứ ông ấy có để cứu anh. Ông ấy không biết là ông ấy sẽ mất em nếu như anh được cứu thoát.”
“Dominique, điều gì tồi tệ hơn đối với ông ấy – mất em hay là thua cuộc thánh chiến của chính ông ấy?” cô gật đầu, và hiểu ra. Anh nói thêm: “Em cũng biết không phải là ông ấy muốn cứu anh. Anh chỉ là cái cớ thôi.”
Cô đưa tay lên. Cô chạm vào má anh, một cái chạm nhẹ bằng đầu ngón tay. Cô không cho phép mình làm thêm điều gì khác. Cô quay người và đi về phòng ngủ, cô nghe tiếng anh đóng cửa phòng ngủ dành cho khách.
Lancelot Clokey viết trong một bài báo: “Có gì là vô lý khi các tờ báo của Wynand đứng ra bảo vệ Howard Roark đâu nhỉ? Nếu có ai nghi ngờ về những vấn đề đạo đức có liên quan trọng vụ này, thì đây là bằng chứng về việc đạo đức là cái gì và ai là người có đạo đức. Những tờ báo của Wynand vốn là thành trì của báo chí lá cải, của sự thô tục, tham nhũng và xì-căng-đan, chúng là sự lăng mạ đối với thị hiếu và sự đứng đắn của công chúng, là thế giới tri thức côn đồ và được cai trị bởi một người có ít ý niệm về nguyên tắc sống hơn cả những kẻ ăn thịt người – những tờ báo ấy xứng đáng là bảo kê cho Howard Roark, và Howard Roark xứng đáng là người hùng của họ. Sau cả một đời cống hiến cho sự nghiệp phá hủy tính chính trực của báo chí, lẽ đương nhiên là Gail Wynand phải ủng hộ một kẻ phá hủy còn thô thiển hơn cả ông ta.”
Gus Webb nói trong một bài phát biểu trước công chúng: “Tất cả những thứ phát biểu lòe loẹt trên báo chí lúc này đều chỉ là những thứ tầm phào. Đây mới là sự thật trần trụi của vấn đề. Trong nhiều năm qua, cái lão Wynand này đã kiếm rất nhiều, ý tôi là rất nhiều bằng cách lột da róc xương những kẻ hút máu trong giới bất động sản. Liệu ông ta có vui không khi chính phủ nhúng tay vào và hất ông ta ra, nhờ đó mà những người nghèo được sống dưới những mái nhà sạch sẽ và có một cái toilet hiện đại cho con cái họ? Tôi lấy đầu đảm bảo là ông ta không thích điều đó, không thích một chút nào cả. Đây là một vụ dàn xếp của hai kẻ đó, Wynand và gã bạn tóc đỏ của ông ta, và nếu quý vị hỏi tôi, tôi cho rằng gã đó kiếm được cả núi tiền từ ông Wynand vì đã hoàn thành nhiệm vụ.”
“Theo nguồn tin đáng tin cậy mà chúng tôi không thể tiết lộ,” một tờ báo cấp tiến viết, “vụ Cortlandt chỉ là bước đầu tiên trong một kế hoạch khổng lồ nhằm phá hủy tất cả những dự án xây nhà của chính phủ, tất cả những nhà máy điện công cộng, tất cả những bưu điện và trường học trên toàn nước Mỹ. Kẻ cầm đầu là Gail Wynand – như chúng ta có thể thấy – và cả những nhà tư bản khát máu giống ông ta, bao gồm cả một vài nhân vật giàu có nhất nước.”
Sally Brent viết trên tờ Những mặt trận mới: “Mọi người đã chú ý quá ít đến vai trò của phụ nữ trong vụ này. Ít nhất người ta cũng có thể nói rằng bà Gail Wynand đã đóng một vai trò rất không minh bạch. Việc bà ấy sai người gác đêm rời khỏi vị trí thật đúng lúc có phải chỉ là một sự tình cờ nho nhỏ không? Và có phải điều đó đã làm cho ông chồng phải bằng mọi cách bảo vệ ông Roark? Nếu như chúng ta không bị bịt mắt bởi một lòng hào hiệp ngu ngốc, vô nghĩa và lỗi thời bất cứ khi nào chúng ta thấy một người phụ nữ được coi là xinh đẹp, thì chúng ta đã không thể cho phép chi tiết đó bị bưng bít. Nếu chúng ta không quá kính nể vị trí xã hội của bà Wynand và cái gọi là uy danh của ông chồng bà ấy – người đang tự biến mình thành một kẻ đại ngốc – thì chúng ta đã phải đưa ra những nghi vấn về việc bà ấy đã gần chết trong thảm họa đó. Làm sao mà chúng ta có thể biết rằng bầ ấy đã gần chết? Người ta có thể mua chuộc bác sĩ, cũng như muc chuộc bất cứ ai khác, và ông Gail Wynand thì lại là một chuyên gia trong lĩnh vực này. Nếu chúng ta xem xét mọi mặt của vấn đề này, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra được những nét bên ngoài của một cái gì đó có vẻ giống như một ‘phong cách sống’ hết sức trụy lạc.”
Một tờ báo kín tiếng và bảo thủ viết: “Vị thế mà những tờ báo của Wynand đang chọn là đáng hổ thẹn và không thể lý giải nổi.”
Lượng phát hành của tờ Ngọn cờ sụt giảm hàng tuần, tốc độ giảm càng ngày càng nghiêm trọng, như một chiếc thang máy rơi tự do. Những khuy đeo áo và những chiếc sticker mang dòng chữ “Chúng tôi không đọc Wynand” mọc lên ở những bức tường, những bảng thông báo ở ga tàu điện ngầm, ở trên thanh gạt nước trên ô-tô và những ve áo[154]. Khán giả la ó trước những mẩu tin thời sự ngắn của Wynand ở các rạp chiếu phim. Tờ Ngọn cờ biến mất khỏi các quầy báo, những người bán hàng bắt buộc phải nhận báo nhưng họ giấu báo ở dưới quầy và chỉ miễn cưỡng đưa ra khi có người hỏi mua. Mặt đất đã được dọn sạch, những trụ đỡ đã bị ăn mòn từ lâu, vụ Cortlandt chỉ là cú hích cuối cùng.
Trong làn sóng căm phẫn nhằm vào Gail Wynand, người ta hầu như đã quên hẳn Roark. Những vụ biểu tình giận dữ nhất bắt nguồn từ chính độc giả của Wynand: từ các câu lạc bộ phụ nữ, từ những vị mục sư, những bà mẹ, những nhân viên bán lẻ. Người ta đã phải đưa Alvah Scarret ra khỏi căn phòng hàng ngày bị ngập lụt trong thư độc giả, bởi vì ông bắt đầu công việc hàng ngày của mình bằng việc đọc thư – và những người thân tín trong đám nhân viên của ông phải đưa ông ra khỏi phòng để ông không tiếp tục đọc nữa, họ sợ rằng ông có thể bị đột quỵ.
Nhân viên của tờ Ngọn cờ làm việc trong im lặng. Không còn những cái liếc trộm, những câu rủa thầm, không cả những câu chuyện phiếm trong phòng vệ sinh nữa. Vài người xin nghỉ việc. Những người còn lại vẫn tiếp tục làm, chậm chạp và nặng nề, với thái độ của những người đang phải thắt dây an toàn và chờ đợi điều không thể tránh khỏi sẽ xảy ra.
Gail để ý thấy có một chút gì như là sự kéo dài trong mọi hành động xảy ra ở xung quanh ông. Khi ông đi vào tòa soạn, nhân viên của ông không ngừng làm việc khi nhìn thấy ông, khi ông gật đầu chào họ, thì lời chào đáp lại của họ đến chậm một giây so với thường lệ, khi ông bước tiếp và quay lại nhìn, ông thấy họ đang nhìn theo ông. Cái câu “Vâng thưa ngài Wynand” mà ông vẫn thường nghe thấy ngay sau khi ra lệnh – vốn không bao giờ có một khoảng khắc đứt đoạn giữa âm thanh cuối cùng trong mệnh lệnh của ông và câu nói ấy – bây giờ thường đến trễ, và khoảng ngập ngừng ở giữa trở nên rõ nét đến mức nó khiến cho câu trả lời nghe như việc đáp lại một câu hỏi chứ không phải một mệnh lệnh.
Mục Một tiếng nói nhỏ vẫn giữ im lặng về vụ Cortlandt. Wynand đã gọi Toohey đến văn phòng của ông, một ngày sau khi vụ nổ xảy ra, và đã nói: “Ông nghe đây. Không một từ nào trong mục của ông. Hiểu không? Ông làm gì hoặc gào thét cái gì ở ngoài kia tôi không thèm quan tâm – vào lúc này. Nhưng nếu ông gào to quá, thì sau khi vụ này kết thúc, tôi sẽ xử ông.”
“Vâng, thưa ông Wynand.”
“Đối với mục báo của ông, ông phải điếc, câm và mù. Ông chưa từng nghe về vụ nổ nào cả. Ông chưa từng biết một ai tên Roark. Ông không biết từ Cortlandt có nghĩa gì. Chừng nào ông còn ở trong tòa nhà này.”
“Vâng, thưa ông Wynand.”
“Và đừng để cho tôi thấy cái mặt của ông quá nhiều ở đây.”
“Vâng, thưa ông Wynand.”
Luật sư của Wynand, một người bạn cũ đã làm việc với ông trong nhiều năm cố gắng ngăn ông.
“Gail, chuyện gì vậy? Ông đang cư xử như một đứa trẻ. Như một thằng ranh chập chững học nghề. Tỉnh dậy đi.”
“Câm miệng lại.” Wynand nói.
“Gail, ông là… Ông đã là chủ bút vĩ đại nhất trái đất này. Tôi có phải nói với ông một điều rất hiển nhiên không? Trong kinh doanh, chống lại công chúng là một việc rất nguy hiểm. Đối với một tờ báo bình dân thì đó là tự sát.”
“Nếu ông không câm miệng lại thì tôi sẽ đuổi việc ông và tìm cho mình một gã luật sư khát máu khác.”
Wynand bắt đầu tranh luận về vụ này với những nhân vật lớn mà ông gặp trong các bữa trưa, bữa tối vì công việc. Trước đó ông chưa hề tranh cãi về bất cứ chủ đề nào, ông cũng chưa từng biện hộ cho ai. Ông đã luôn chỉ ném các kết luận cuối cùng vào mặt những người nghe đáng kính của ông. Bây giờ ông không tìm thấy người nghe nữa. Không có cả sự im lặng dửng dưng, nửa chán chường nửa bực bội. Những kẻ trước đó đã lắng nghe như hớp từng lời mà ông nhả ra về thị trường chứng khoán, về bất động sản, về quảng cáo, về chính trị giờ đây không thèm để ý đến quan điểm của ông về nghệ thuật, về sự vĩ đại và về công lý.
Ông nghe được vài câu trả lời như sau:
“Đồng ý, Gail, phải, chắc chắn rồi. Nhưng mặt khác, tôi nghĩ anh ta đã quá ích kỷ. Và đó là vấn đề của thế giới ngày nay – sự ích kỷ. Có quá nhiều ích kỷ ở khắp mọi nơi. Đó cũng là những gì mà Lancelot Clokey đã đề cập tới trong quyển sách của ông ta – một quyển rấy hay, về thời thơ ấu của ông ấy, ông hãy đọc nó đi, có nhìn thấy ảnh của ông chụp với Clokey. Clokey đã đi khắp thế giới, ông ta biết rõ về những gì ông ta nói.”
“Được rồi, Gail, nhưng có phải là ông hơi lỗi thời trong chuyện này không? Ba cái chuyện về con người vĩ đại là gì vậy? Một anh thợ xây nổi tiếng thì có gì là vĩ đại? Mà làm gì có ai vĩ đại? Tất cả chúng ta chỉ toàn là những tế bào, những hóa chất và những gì chúng ta ăn sáng. Tôi nghĩ là Luis Cook đã giải thích nó rất kỹ trong cái cuốn sách dễ thương – tên nó là gì nhỉ? – à, đúng rồi – Viên sỏi mật can đảm. Chính thế đấy, thưa ngài. Tờ Ngọn cờ của ngài đã lăng-xê quyển sách đấy lên tận mây xanh.”
“Nhưng nghe này, Gail, anh ta nên nghĩ về người khác trước khi nghĩ về bản thân anh ta chứ. Tôi nghĩ rằng nếu một người không có tình yêu trong tim thì anh ta chả thể nào có ích được. Tôi nghe được điều đó trong một vở kịch tối qua – một vở kịch hoành tráng – vở mới của Ike – họ của anh ta là cái quái gì nhỉ? – anh nên xem nó – chính lão Jules Fougler của anh đã nói rằng đó là một bài thơ cũng cảm và dịu dàng trên sân khấu.”
“Anh có lý, Gail, và tôi không biết nói thế nào để phản bác lại, tôi không biết là anh sai ở đâu, nhưng tôi cảm thấy điều đó không đúng, bởi vì Ellsworth Toohey – nào, đừng có hiểu nhầm tôi, tôi không đồng ý với những quan điểm chính trị của Toohey một chút nào, tôi biết ông ta là một kẻ cực đoan, nhưng mặt khác ông cũng phải thừa nhận là ông ta là một con người có lý tưởng vĩ đại, với một trái tim lớn như một ngôi nhà – à phải rồi, Ellsworth Toohey đã nói…”
Họ là những nhà triệu phú, chủ nhà băng, nhà tư bản công nghiệp và những thương gia – chính những người vẫn luôn không thể hiểu tại sao thế giới này đang rơi xuống địa ngục và luôn miệng than vãn về điều này trong các bữa tiệc trưa của mình.
Một buổi sáng, khi Wynand bước ra khỏi xe ở trước tòa nhà Ngọn cờ, một người phụ nữ chạy tới phía ông khi ông đang bước qua vỉa hè. Bà ta đã đợi ông ở cửa ra vào. Một người béo và đứng tuổi. Bà ta mặc một bộ đồ bằng vải thô bẩn thỉu và đội một cái mũ nhàu nát. Một cái mặt xanh xao và chảy xệ, một cái miệng méo mó và cặp mắt đen, tròn, rực sáng. Bà đứng trước Gail Wynand và ném một bó lá cải thối vào mặt ông. Không có củ cải, chỉ có những lá cây, mềm và nhẽo, buộc lại với nhau bằng một sợi dây. Chúng đập vào má ông và trượt xuống vỉa hè.
Wynand đứng im. Ông nhìn người phụ nữ đó. Ông nhìn thấy một khối thịt trắng, với cái miệng đang há to đắc thắng, gương mặt của một con quỷ tự coi mình là đạo đức, là lẽ phải. Những người qua đường đã túm lấy người phụ nữ và bà ta thì đang gào lên những lời tục tĩu nhất. Wynand giơ tay lên và lắc đầu, ra hiệu cho họ thả sinh vật đó đi, và ông đi vào tòa nhà Ngọn cờ, một vết bẩn màu vàng xanh bám chéo qua má ông.
“Ellsworth, chúng ta sẽ phải làm gì đây?” Alvah Scarret than vãn. “Chúng ta sẽ phải làm gì đây?”
Ellsworth Toohey ngồi ở trên mép bàn, và mỉm cười như thể là ông sắp hôn Alvah Scarret đến nơi.
“Tại sao họ lại không thôi cái vụ chết tiệt đó đi, Ellsworth? Tại sao không có sự kiện nào khác xảy ra để chèn vào trang đầu tờ báo? Chúng ta không thể đẻ nhanh một tin tức hay một thứ gì đó mang tính quốc tế được hay sao? Từ lúc cha sinh mẹ đẻ đến giờ, tôi chưa từng chứng kiến người ta trở nên điên rồ vì một chuyện nhỏ nhặt như lần này. Một vụ nổ! Chúa ơi, Ellsworth, nó chỉ đáng được đăng ở mặt sau của báo. Chúng ta có những vụ như thế hàng tháng, gần như vụ đình công nào mà chả có, hẳn ông còn nhớ? – đình công của giới thuộc da, đình công của những người giặt khô là hơi… Ôi, quỷ tha ma bắt! Tại sao tất cả lại trở nên thịnh nộ như thế này chứ? Ai thèm quan tâm? Tại sao họ lại phải quan tâm đến nó?”
“Có nhiều khi, Alvah, những vấn đề được quan tâm lại không hề là những sự kiện trên bề mặt. Và công luận giường như quá đà, nhưng thực sự thì không. Anh không nên rầu rĩ vì nó như thế. Tôi thật ngạc nhiên về anh đấy. Lẽ ra anh phải cảm ơn những ngôi sao của anh. Anh thấy đấy, đây chính là ý của tôi khi tôi nói về cái gọi là chờ đúng thời điểm. Thời điểm đúng luôn luôn đến. Mặc dù quỷ tha ma bắt tôi đi nếu như tôi đã hy vọng thời cơ đến với mình theo cách này. Vui lên đi, Alvah. Đây chính là lúc chúng ta phải tiếp quản nó.”
“Tiếp quản cái gì?”
“Những tờ báo của Wynand.”
“Ông điên rồi, Ellsworth. Như tất cả bọn họ. Ông điên rồi. Ý ông là gì cơ? Gail giữ 51 phần trăm của…”
“Alvah, tôi yêu anh. Anh thật tuyệt vời, Alvah ạ. Tôi yêu anh, nhưng tôi ước gì anh không phải là một thằng ngốc chết tiệt như thế này, thì tôi mới có thể nói chuyện với anh được. Giá mà tôi có thể nói chuyện với một ai đó!”
Ellsworth Toohey cố thử nói chuyện với Gus Webb vào một buổi tối, nhưng buổi nói chuyện đó thật đáng thất vọng. Gus Webb lè nhè:
“Vấn đề của ông, Ellsworth à, là ông quá lãng mạn. Quá là lý thuyết suông. Ông lảm nhảm những cái đó để làm gì vậy? Không có một giá trị thực tế nào cả. Chuyện này chả có gì ăn được, và chỉ kéo dài một hai tuần. Tôi ước gì anh ta cho nổ tòa nhà khi có đầy người trong đó – vài đứa trẻ con bị nổ tan xác – như thế thì còn có chuyện mà nói. Như thế thì tôi còn thích nó. Phong trào cũng có thể lợi dụng điều đó. Nhưng còn cái này? Họ sẽ tống đồ ngốc kia vào nhà tù và chỉ có thế. Ông ư – một kẻ thực tế? Ông là một ví dụ không thể cứu chữa được của giới trí thức, Ellsworth, ông là thế đấy. Ông cho rằng ông là con người của tương lai ư? Đừng tự lừa dối mình như thế, cưng ạ. Tôi mới là người của tương lai.”
Toohey thở dài rồi đáp. “Anh nói đúng, Gus.”