Đó là một ngày hè, bầu trời trong và mát mẻ, cứ như thể có một lớp nước mỏng bao phủ quanh mặt trời, và hơi nóng đã được chuyển hóa để làm không khí trong hơn và rõ hơn. Các tòa nhà trong thành phố trở nên sắc nét.
Trên đường phố, rất nhiều tờ Ngọn cờ nằm rải rác khắp nơi, như những mảnh vụn bọt biển màu xám. Cả thành phố đọc bản tuyên bố đầu hàng của Wynand. Họ đọc và cười khoái trá.
“Thế đó,” Gus Webb nói, ông ta là chủ tịch hội “Chúng Tôi Không Đọc Wynand.” Ike nói: “Nghe mới ngọt làm sao.” Sally Brent nói: “Giá mà được nhìn thấy, chỉ cần liếc thấy bộ mặt ngài Gail Wynand vĩ đại hôm nay nhỉ.” Homer Slottern nói: “Cũng đến lúc rồi còn gì.” Một người phụ nữ có cặp môi mỏng luôn mím chặt nói: “Thật tuyệt phải không? Wynand đã phải đầu hàng” – bà ta không biết mấy về Wynand và cũng biết gì về vụ việc, nhưng bà ta thích nghe chuyện ai đó đầu hàng. Trong một bếp ăn, một người đàn bà phục phịch trút hết phần thức ăn thừa trên đĩa ra một tờ giấy báo; bà ta chẳng bao giờ đọc trang đầu cả, bà chỉ đọc truyện tình dài kỳ đăng ở phần hai; bà ta bọc những lát hành và xương cừu cắt vụn vào trong một tờ Ngọn cờ.
“Tuyệt cú mèo,” Lancelot Clokey nói, “chỉ có điều là tôi rất bất bình với công đoàn, Ellsworth. Làm sao họ lại dám bán đứng ông như thế?”
“Đừng có ngốc thế, Lance,” Ellsworth Toohey nói.
“Ý ông là sao?”
“Tôi đã bảo họ chấp nhận các điều kiện.”
“Chính ông?”
“Phải.”
“Nhưng Chúa ơi! Thế còn mục Một tiếng nói nhỏ…”
“Ông có thể đợi khoảng một tháng nữa được không? Hôm nay tôi đã nộp đơn kiện lên tòa án lao động. Tôi sẽ đòi được khôi phục lại chức vụ của tôi ở tờ Ngọn cờ. Có nhiều cách để vặt lông một con mèo, Lance ạ. Một khi anh đã bẻ gãy xương sống của nó thì chuyện vặt lông kiểu gì sẽ không còn quan trọng nữa.”
Tối đó Roark bấm chuông cửa căn hộ trên mái của Wynand. Người quản gia mở cửa và nói: “Ông Wynand không thể gặp ông được, thưa ông Roark.” Từ trên vỉa hè phía bên kia đường, Roark nhìn lên và thấy một ánh đèn ở phía trên những mái nhà, ngay cửa sổ phòng làm việc của Wynand.
Buổi sáng, Roark đến văn phòng của Wynand ở tòa soạn tờ Ngọn cờ. Người thư ký của Wynand nói với anh: “Ngài Wynand không thể gặp ông được, thưa ông Roark.” Bà nói thêm, giọng nghiêm trang và lịch sự: “Ông Wynand đã yêu cầu tôi nói với ông rằng ông ấy không bao giờ muốn gặp lại ông nữa.”
Roark viết cho Wynand một lá thư dài: “… Gail, tôi biết. Tôi đã hy vọng là ông có thể thoát được, nhưng bởi vì nó đã buộc phải xảy ra, nên hãy bắt đầu lại từ hiện tại. Tôi biết ông đang làm gì với bản thân. Ông không làm việc này vì tôi, nó không tùy thuộc vào tôi, nhưng nếu điều này có thể giúp ông thì tôi muốn nói rằng tôi đang nhắc lại, vào lúc này, tất cả những gì tôi đã nói với ông. Đối với tôi, không có gì thay đổi cả. Ông vẫn là những gì ông đã là. Tôi không nói là tôi tha thứ cho ông, bởi vì giữa chúng ta không có những thứ như thế. Nhưng nếu như ông không thể tự tha thứ cho bản thân mình thì hãy để cho tôi làm việc đó, được không? Hãy để cho tôi nói rằng chuyện đó chẳng là gì, nó không phải là phán quyết cuối cùng đối với ông. Hãy cho tôi quyền được để cho ông quên nó đi. Hãy tiếp tục, bằng niềm tin của tôi, cho đến khi ông hoàn toàn hồi phục. Tôi biết đây là chuyện không ai có thể giúp ai được, nhưng nếu đối với ông, tôi vẫn là những gì tôi đã là, thì ông hãy chấp nhận nó. Hãy coi nó như một lần truyền máu. Ông cần nó. Hãy nhận lấy. Nó còn khó hơn cả việc chống lại vụ đình công. Hãy làm việc đó vì tôi, nếu như nó có thể giúp cho ông. Hãy làm việc đó. Hãy trở lại. Sẽ có một cơ hội khác. Cái mà ông nghĩ ông mất là cái vốn không bao giờ có thể bị mất cũng không thể đi tìm ở chỗ khác. Đừng buông nó ra.”
Lá thư quay lại chỗ Roark, chưa hề được mở.
Alvah Scarret điều hành tờ Ngọn cờ. Wynand chỉ ngồi trong phòng làm việc của ông. Ông đã tháo ảnh Roark khỏi tường. Ông giải quyết các hợp đồng quảng cáo, chuyện chi phí, tài khoản ngân hàng. Scarret đảm nhiệm phần đường lối chủ trương của tờ báo. Wynand không đọc duyệt nội dung của tờ Ngọn cờ nữa.
Khi Wynand xuất hiện ở bất cứ phòng ban nào trong tòa nhà, các nhân viên tuân lệnh ông như họ đã tuân lệnh ông trước đây. Ông vẫn là một cỗ máy và họ biết rằng đó là một cỗ máy nguy hiểm hơn bao giờ hết: một chiếc xe đang lao xuống dốc, không phanh và cũng không người điều khiển.
Ông ngủ trong căn hộ trên mái của mình. Ông chưa gặp lại Dominique. Scarret nói với ông rằng cô đã quay về ngôi nhà ở ngoại ô. Có một lần, ông đã ra lệnh cho thư ký gọi điện thoại tới Connecticut. Ông đứng ở cạnh bàn thư ký khi bà ta hỏi người quản gia xem liệu bà Wynand có ở đó. Người quản gia đã trả lời rằng cô ở đó. Người thư ký dập máy và Wynand quay lại phòng làm việc.
Ông nghĩ ông sẽ cho mình vài ngày. Sau đó ông sẽ quay về với Dominique. Hôn nhân của họ sẽ trở nên đúng như những gì cô đã từng muốn hồi đầu – “Bà Wynand – Chủ bút.” Và ông sẽ chấp nhận nó.
Khoan đã, ông nghĩ trong cơn bồn chồn khắc khoải, từ từ đã nào. Ngươi phải học cách đối mặt với cô ấy như là ngươi của lúc này đã. Hãy tự đào tạo ngươi thành một kẻ ăn xin đã. Nhất thiết không thể có bất cứ sự đòi hỏi nào với những thứ mà ngươi không có quyền. Đứng trước cô ấy, ngươi không có sự bình đẳng, không được kháng cự, không có sự tự trọng nào cả. Bây giờ chỉ có chấp nhận. Ngươi sẽ đứng trước mặt cô ấy như một người đàn ông không thể đem lại cho cô ấy bất cứ cái gì, một người sống dựa vào những gì cô ấy ban phát cho. Sẽ có sự khinh thường, nhưng là sự khinh thường từ cô ấy và sự khinh thường ấy sẽ là cầu nối giữa hai người. Cho cô ấy thấy ngươi nhận ra điều này. Cũng có một chút phẩm giá trong việc một người công khai chấp nhận từ bỏ phẩm giá. Hãy học cách làm điều đó. Khoan đã…
Ông ngồi trong phòng đọc sách ở căn hộ của mình, đầu gục xuống thành ghế. Chẳng có nhân chứng nào trong những căn phòng trống rỗng xung quanh ông… Dominique, ông nghĩ, anh không có gì để nói ngoài việc anh rất cần em. Và anh yêu em. Có lần anh đã bảo em đừng để ý đến điều đó. Bây giờ thì anh sẽ dùng nó như một cái cốc ăn xin. Nhưng anh sẽ dùng nó. Anh yêu em…
Dominique nằm dài trên bờ hồ nước. Cô nhìn ngôi nhà ở trên đồi, nhìn những cành cây ở trên đầu cô. Cô nằm ngửa, gối đầu lên tay. Cô chăm chú theo dõi chuyển động của những chiếc lá trên nền trời. Đó là một công việc nghiêm túc; nó đem lại cho cô cảm giác thỏa mãn trọn vẹn. Cô nghĩ, màu xanh lá cây kia thật đáng yêu; có sự khác biệt giữa màu của cây cối và màu của các vật thể, màu này hàm chứa ánh sáng, nó không chỉ màu xanh mà còn biểu hiện cái nguồn sống trong cây; không cần nhìn xuống ta cũng có thể thấy được trong những nhánh cây, thân cây và rễ cây chỉ qua cái màu sắc đó. Cái quầng lửa xung quanh rìa lá kia chính là ánh nắng, ta không cần phải nhìn nhưng ta cũng có thể biết được hôm nay cả vùng đồng quê này trông như thế nào. Những điểm sáng tỏa thành vòng tròn – đó chính là hồ nước, những điểm sáng ấy là một dạng ánh sáng đặc biệt do mặt nước hắt lên; hôm nay mặt hồ thật đẹp, và không nên nhìn thẳng vào nó mà chỉ cần đoán qua những điểm sáng kia. Trước đây ta chưa bao giờ có thể tận hưởng quang cảnh mặt đất. Nó là một cái nền thật tuyệt, nhưng chỉ là một cái nền thôi; ta đã từng nghĩ về những kẻ đang sở hữu cái nền ấy và điều đó làm ta đau đớn quá mức. Bây giờ thì ta có thể yêu được mặt đất. Họ không sở hữu mặt đất này. Họ không sở hữu cái gì cả. Họ chưa bao giờ thắng. Ta đã nhìn thấy cuộc đời của Gail Wynand, và bây giờ ta đã biết. Người ta không thể căm ghét trái đất này chỉ vì những kẻ kia. Trái đất thật là đẹp. Và nó là một cái nền, nhưng không phải là cái nền của họ.
Cô biết cô phải làm gì. Nhưng cô sẽ cho mình một vài ngày. Cô nghĩ, ta đã học được cách chịu đựng bất cứ điều gì, nhưng ngoại trừ hạnh phúc. Ta phải học cách mang vác hạnh phúc. Họ cách làm thế nào để không bị gục xuống dưới sức nặng của nó. Từ giờ trở đi đó là thứ kỷ luật duy nhất ta cần.
*
* *
Roark đứng bên cửa sổ trong nhà anh ở Thung lũng Monadnock. Anh đã thuê căn nhà này vào mùa hè; anh đến đây khi anh muốn ở một mình và nghỉ ngơi. Đó là một buổi tối yên tĩnh. Cửa sổ mở hé ra; những cành cây đan thành đường viền cửa sổ, lơ lửng trên nền trời. Một dải nắng hoàng hôn kéo thành một vệt dài trên đỉnh những ngọn cây sẫm bóng. Anh biết ở dưới đó là những ngôi nhà, nhưng anh không thể nhìn thấy chúng. Anh cảm thấy lòng biết ơn giống như những người thuê nhà khác vì cái cách anh đã xây nên nơi này.
Anh nghe thấy tiếng ô-tô đi lên con đường ở phía bên kia. Anh lắng nghe và ngạc nhiên. Anh không hề chờ khách. Chiếc xe dừng lại. Anh đi về phía cửa. Anh không hề ngạc nhiên khi anh nhìn thấy Dominique.
Cô bước vào như thể cô vừa đi ra khỏi nhà nửa tiếng trước đó. Cô không đội mũ, không mang bít tất, chỉ có xăng-đan và một chiếc váy dành cho việc đi trên những con đường đất ở nông thôn – loại váy chiết eo ngắn, cộc tay, bằng vải lanh màu xanh thẫm, trông như một cái áo choàng để làm vườn. Trông cứ như là cô không hề lái xe qua ba tiểu bang, mà chỉ vừa trở về nhà sau khi đi dạo trên đồi. Anh biết rằng đó chính là dấu hiệu của sự trang trọng trong khoảnh khắc này – rằng không cần phải có sự trang trọng nào cả; không cần phải nhấn mạnh nó và tách nó ra riêng; rằng đây không phải là chuyện của riêng buổi tối hôm nay mà là sự gói trọn cả bảy năm trôi qua sau họ.
“Howard.”
Anh đứng như thể anh đang nhìn vào âm thanh gọi tên mình trong phòng. Anh đã có tất cả những gì anh muốn.
Nhưng có một ý nghĩ vẫn đọng lại như một nỗi đau, thậm chí ngay cả lúc này. Anh nói:
“Dominique, hãy đợi cho đến khi ông ấy hồi phục đã.”
“Anh biết là ông ấy sẽ không hồi phục.”
“Hãy thương xót ông ấy một chút.”
“Đừng nói ngôn ngữ của họ.”
“Ông ấy không có lựa chọn nào khác.”
“Ông ấy đã có thể đóng cửa tờ báo.”
“Nhưng đó là cuộc sống của ông ấy.”
“Còn đây là cuộc sống của em.”
Anh không biết Wynand đã từng nói rằng tất cả tình yêu đều đồng nghĩa với việc tạo ngoại lệ; Wynand sẽ không biết rằng Roark đã yêu quý ông đến mức anh có thể thực hiện ngoại lệ lớn nhất của anh vào một khoảnh khắc mà anh đã cố thử thỏa hiệp. Rồi anh biết rằng việc đó chẳng có ích gì, như tất cả các sự hy sinh khác. Điều anh nói chính là chữ ký đồng tình của dưới quyết định của cô:
“Anh yêu em.”
Cô nhìn quanh căn phòng, để cho cảm giác về thực tại bình thường của những bức tường và những cái ghế giúp cô giữ được kỷ luật mà cô đang cố học cho thời điểm này. Những bức tường mà anh đã thiết kế, những cái ghế mà anh dùng, một hộp thuốc lá ở trên bàn – những vật dụng sinh hoạt cần thiết hàng ngày sẽ có thể trở nên xa hoa khi cuộc sống được như bây giờ.
“Howard, em biết anh định làm gì trước tòa. Vì vậy, sẽ không có gì khác biệt nếu như họ biết sự thật về chúng ta.”
“Không có gì khác biệt.”
“Khi anh đến vào đêm hôm đó và nói với em về Cortlandt, em đã không cố ngăn anh lại. Em biết là anh phải làm việc đó. Đó là lúc anh phải đặt ra các điều khoản để anh có thể tiếp tục sống. Giờ là lúc của em. Vụ nổ Cortlandt của em. Anh phải để cho em làm theo cách riêng của em. Đừng hỏi em. Đừng bảo vệ em. Bất kể là em làm gì.”
“Anh biết em sẽ làm gì.”
“Anh biết em cần phải làm thế?”
“Anh biết.”
Cô gập mạnh khuỷu tay để vung những ngón tay lên và vẩy nhẹ chúng về phía sau, như thể cô ném câu chuyện này ra sau lưng. Nó đã được giải quyết; không còn gì để bàn thêm nữa.
Cô quay người bước ngang căn phòng, để cho những bước chân tự nhiên biến nơi này thành nhà cô, để tuyên bố rằng sự hiện diện của anh là nguyên tắc của những ngày sống tiếp theo của cô và cô không cần phải làm những gì cô mong muốn nhất tại thời điểm này: đứng ngắm anh. Cô cũng biết rằng cô đang trì hoãn cái gì, bởi vì cô chưa sẵn sàng. Cô vươn tay với lấy bao thuốc trên mặt bàn.
Những ngón tay của anh nắm lấy cổ tay cô và anh kéo tay cô lại. Anh kéo cô đối diện với anh, rồi anh ôm lấy cô và môi anh áp vào môi cô. Cô biết rằng trong từng khoảnh khắc của bảy năm qua – khi cô đã luôn khao khát điều này, khi cô đã cố kìm nén nỗi đau và đã tưởng rằng cô đã chiến thắng nỗi đau ấy – những khoảnh khắc đó chưa hề trôi đi mất, chưa bao giờ dừng lại. Chúng đã sống, đã được cất giữ, đã chất chồng sự thèm khát lên trên sự thèm khát, và bây giờ cô phải tận hưởng tất cả những điều đó, cả cảm giác chạm vào thân thể anh, cả sự đáp lại của thân thể anh và sự chờ đợi thân thể anh cùng một lúc.
Cô không biết liệu kỷ luật của cô có giúp được gì không; có lẽ là không nhiều, cô nghĩ, bởi vì cô thấy anh nhấc bổng cô lên trong vòng tay của anh. Anh bế cô tới một chiếc ghế và anh ngồi xuống. Anh để cô ngồi trên đầu gối anh. Anh cười không thành tiếng, như thể anh cười nhạo một đứa trẻ; nhưng sự căng cứng trong bàn tay đang ôm cô cho thấy anh lo lắng và thận trọng. Sau đó mọi thứ dường như thật đơn giản; cô không có gì để giấu anh, cô thì thầm: “Vâng, Howard… nhiều như vậy đấy…” và anh nói: “Anh đã rất khổ sở – suốt những năm qua.” Và những năm tháng đó biến mất.
Cô trượt xuống để ngồi trên sàn nhà, khuỷu tay của cô đặt lên đầu gối anh, cô ngước nhìn lên và mỉm cười, cô biết rằng cô đã không thể có cảm giác bình yên tuyệt đối như thế này trừ khi nó là phép cộng của mọi thứ tình cảm cô đã phải trải qua, là phép cộng cho tất cả sự vật lộn mà cô từng biết. “Howard… một cách tự nguyện, một cách hoàn toàn và luôn luôn… không cần điều kiện nào, không sợ hãi bất cứ điều gì mà người ta có thể gây ra cho anh hoặc em… theo bất cứ cách nào mà anh muốn… như vợ hay người tình của anh, bí mật hoặc công khai… ở đây, hay ở một căn phòng em sẽ thuê gần nhà tù nơi em sẽ nhìn anh qua hàng rào… sẽ chẳng sao cả… Howard, nếu anh thắng trong phiên tòa – thậm chí điều đó cũng chẳng quá quan trọng. Anh đã thắng từ lâu rồi… em sẽ là em, và em sẽ ở bên anh – bây giờ và mãi mãi – theo bất cứ cách nào anh muốn…”
Anh giữ tay cô trong tay anh; cô nhìn thấy bờ vai anh cúi xuống phía cô; cô thấy anh bất lực và đầu hàng khoảnh khắc này, cũng như cô – và cô biết người ta có thể thú nhận nỗi đau; nhưng để thú nhận hạnh phúc thì phải đứng trần trụi, phải hoàn toàn biến hình cho người khác nhìn; và cô biết anh và cô vẫn có thể để cho nhau nhìn thấy nó mà không cần cảm giác che chắn. Trời đang tối dần, căn phòng không còn rõ nét, chỉ còn lại cửa sổ và bờ vai anh nổi rõ trên nền trời đằng sau khung cửa.
Cô tỉnh dậy với ánh nắng lấp lánh trong mắt. Cô nằm ngửa, nhìn lên trần nhà như thể cô đang nhìn vào những chiếc lá cây. Không động đậy, không suy đoán, không săm soi mọi thứ như trước. Những hình tam giác ánh sáng bị vỡ ra trong cấu trúc nghiêng của lớp ngói làm bằng chất dẻo trên trần nhà như muốn nsoi với cô rằng buổi sáng đã bắt đầu và đây là phòng ngủ ở Monadnock; rằng hình khối của ánh nắng và của cấu trúc phía trên đầu cô là do anh thiết kế. Ánh nắng có màu trắng – có nghĩa là bây giờ vẫn còn rất sớm và những tia nắng đã xuyên qua bầu không khí trong trẻo của đồng quê; như thể không có gì chắn trong khoảng không giữa căn phòng này và mặt trời. Sức nặng của cái chăn – nặng và thân thuộc trên cơ thể trần truồng của cô – nói lên tất cả về đêm qua. Và cái làn da đang áp sát vào cánh tay cô là của Roark đang nằm ngủ bên cạnh cô.
Cô trườn ra khỏi giường. Cô đứng bên cửa sổ, hai cánh tay giơ lên cao, bám vào hai bên khung cửa. Cô nghĩ, nếu quay lại nhìn chắc cô không thấy bóng mình ở trên sàn nhà; cô có cảm giác những tia nắng xuyên thẳng qua người cô, bởi vì thân thể cô nhẹ bỗng.
Nhưng cô phải khẩn trương trước khi anh thức giấc. Cô tìm thấy bộ pyjama của anh ở trong ngăn tủ và cô khoác nó lên người. Cô đi vào phòng khách, cẩn thận đóng cửa lại đằng sau. Cô quay điện thoại và đề nghị cho gặp phòng cảnh sát ở gần đó nhất.
“Tôi là bà Gail Wynand,” cô nói. “Tôi đang gọi từ nhà ông Howard Roark ở Thung lũng Monadnock. Tôi muốn báo rằng tôi đã bị mất một chiếc nhẫn sa-phia ở đây vào tối qua… Khoảng năm nghìn đô… Đó là món quà của ông Roark… Ông có thể đến đây trong vòng một giờ được không?… Xin cảm ơn.”
Cô đi vào bếp, pha cà phê và đứng nhìn cuộn dây lò xo nóng đỏ lên ở dưới cái bình pha cà phê. Cô nghĩ đó là ánh sáng đẹp nhất quả đất.
Cô kéo bàn về gần cửa sổ chính trong phòng khách. Anh bước vào. Anh chiỉkhoác một cái áo ngủ dài và cười phá lên khi nhìn thấy cô trong bộ pyjama của anh. Cô nói:
“Đừng thay quần áo. Anh ngồi đi. Chúng ta sẽ ăn sáng.”
Họ ăn gần xong bữa sáng thì nghe tiếng xe đỗ ở ngoài. Cô mỉm cười và đi ra mở cửa.
Có một viên cảnh sát trưởng, một phụ tá và hai phóng viên báo chí trong vùng.
“Chúc một buổi sáng tốt lành,” Dominique nói. “Xin mời vào.”
“Bà… Wynand?” viên cảnh sát trưởng hỏi.
“Đúng vậy. Bà Gail Wynand. Các ông vào đi. Xin mời ngồi.”
Bộ pyjama lùng thùng một cách lố lăng trên người cô. Vải đen thòi ra quanh chiếc dây lưng được thắt chặt ngang eo, còn gấu tay áo chờm kín qua những ngón tay cô. Trông cô vẫn có tâấ cả sự tao nhã cố ý giống như cô vẫn trưng ra khi cô khoác lên mình những chiếc váy đẹp nhất để tiếp khách. Dường như cô là người duy nhất không cảm thấy có gì bất thường trong tình huống này.
Viên cảnh sát trưởng cầm một quyển sổ trong tay; dường như ông ta không biết làm gì với nó. Cô giúp ông ta đưa ra những câu hỏi mà người ta thường đặt trong tình huống này, và chính cô cũng trả lời chúng như một nữ phóng viên lành nghề.
“Đó là một chiếc nhẫn bạch kim có gắn một viên sa-phia hình ngôi sao. Tôi đã cởi nó ra và để nó ở đây, trên chiếc bàn này, cạnh ví của tôi, trước khi đi ngủ… Lúc đó khoảng mười giờ tối qua. Khi tôi thức dậy sáng nay, nó đã biến mất… Vâng, cửa sổ này đã mở… Không, chúng tôi không nghe thấy tiếng động gì cả… Không, không có bảo hiểm gì cả, tôi không có thời gian, ông Roark mới tặng nó cho tôi… Không, không có người phục vụ và không có khách… Vâng, các ông cứ xem quanh ngôi nhà… Phòng khách, phòng ngủ, phòng tắm và bếp… Vâng, tất nhiên rồi, các ông cũng có thể đi xem luôn, thưa các quý ông. Phóng viên báo chí, có phải không nhỉ? Các ông có muốn hỏi tôi câu nào nữa không?”
Không ai hỏi thêm câu nào. Câu chuyện đã hoàn chỉnh. Các phóng viên chưa từng chứng kiến một câu chuyện như thế này, và lại được kể theo cách như thế này.
Cô không nhìn Roark sau cái liếc mắt đầu tiên về phía anh. Nhưng anh đã giữ lời. Anh không cố ngăn cô lại hoặc bảo vệ cô. Khi bị hỏi, anh trả lời, chỉ vừa đủ để củng cố những lời khai của cô.
Rồi bọn họ cũng rời đi. Họ có vẻ vui mừng được rời khỏi đó. Ngay cả viên cảnh sát trưởng cũng biết rằng ông ta không cần phải mở vụ điều tra tìm kiếm chiếc nhẫn đó.
Dominique nói:
“Em xin lỗi. Em biết là rất tệ với anh. Nhưng đó là cách duy nhất để chuyện này lên báo.”
“Lẽ ra em nên nói cho anh biết chiếc nhẫn sa-phia nào của em là chiếc anh tặng.”
“Em chưa bao giờ có nhẫn sa-phia. Em không thích sa-phia hình sao.”
“Vụ nổ của em được tính kỹ hơn là vụ nổ Cortlandt.”
“Vâng. Bây giờ thì Gail đã bị đẩy về phía mà ông ấy thuộc về. Ông ấy nghĩ anh là ‘loại người vô nguyên tắc và phản xã hội’ ư? Bây giờ hãy để cho ông ấy chứng kiến tờ Ngọn cờ bôi xấu em nữa. Tại sao ông ấy lại được miễn trừ điều đó nhỉ? Xin lỗi anh, Howard, em không có được sự thưuơng hại giống anh. Em đã đọc bài xã luận đó. Đừng bình luận về chuyện này. Đừng nói bất cứ điều gì về chuyện hy sinh bản thân, nếu không em sẽ gục mất… và em cũng không hoàn toàn mạnh mẽ như viên cảnh sát kia đã tưởng tượng. Em đã không làm điều đó vì anh. Em làm mọi chuyện trở nên tệ hơn cho anh – sau tất cả những gì họ đã ném vào anh, em đã lại thêm cho anh một vụ tai tiếng nữa. Nhưng, Howard, bây giờ chúng ta đứng cùng nhau – chống lại tất cả bọn họ. Anh sẽ là một tên tội phạm và em sẽ là một người đàn bà ngoại tình. Howard, anh có nhớ em đã sợ phải chia sẻ anh với những toa xe lưu động và cửa sổ nhà những người lạ. Bây giờ thì em không sợ để cho báo chí thêu dệt về câu chuyện đêm qua của chúng ta. Anh yêu, anh đã hiểu tại sao em hạnh phúc và tại sao em tự do chưa?”
Anh nói:
“Sau này anh sẽ không bao giờ nhắc em rằng bây giờ em đang khóc, Dominique.”
*
* *
Vụ mất cắp, cùng với bộ pyjama, chiếc áo choàng, bàn ăn sáng và chiếc giường đơn – tất cả đã xuất hiện trên những tờ báo buổi chiều ở New York ngày hôm đó.
Alvah Scarret bước vào phòng làm việc của Wynand và ném một tờ báo xuống bàn. Scarret chưa bao giờ biết ông yêu quý Wynand đến mức nào, cho tới lúc này, và ông cảm thấy đau đớn tới mức ông chỉ có thể biểu lộ nó bằng sự giận dữ điên cuồng. Ông nghẹn lời:
“Quỷ tha ma bắt ông đi, ông là đồ ngốc! Thật đáng đời ông! Đáng đời ông và tôi rất mừng, quỷ tha ma bắt linh hồn ngu ngốc của ông đi! Bây giờ chúng ta sẽ làm gì?”
Wynand đọc câu chuyện và ngồi nhìn tờ báo. Scarret đứng trước bàn. Không có gì xảy ra cả. Chỉ là một phòng làm việc, một người ngồi ở bàn và cầm một tờ báo. Ông nhìn hai bàn tay của Wynand, mỗi tay ở một mép tờ báo. Chúng bất động. Không, ông nghĩ, thông thường một người sẽ không thể giữ tay mình như thế kia, lơ lửng trong không khí, không có gì đỡ, mà lại hoàn toàn bất động.
Wynand ngẩng đầu lên. Scarret không nhìn thấy gì trong mắt ông, ngoại trừ một chút ngạc nhiên, như thể Wynand đang tự hỏi Scarret làm gì ở đây. Sau đó, Scarret thì thầm trong sự kinh sợ:
“Gail, chúng ta sẽ phải làm gì đây?”
“Chúng ta sẽ đăng tin về vụ này,” Wynand nói. “Đó là tin tức.”
“Nhưng… đăng như thế nào?”
“Theo bất cứ cách nào anh muốn.”
Giọng Scarret vọt ra, bởi vì ông biết rằng đây là thời điểm duy nhất bây giờ hoặc không bao giờ, ông sẽ không đủ dũng cảm để thử chuyện này một lần nữa; và bởi vì ông đã bị đóng đinh vào đây, ông sợ phải lùi về phía cửa.
“Gail, ông phải ly dị cô ta.” Ông thấy mình vẫn đứng ở đó, và ông tiếp tục nói mà không nhìn vào Wynand. Ông phải gào lên để có thể nói ra: “Gail, ông không có lựa chọn nào khác. Ông phải giữ phần danh tiếng còn lại của mình! Ông phải ly dị cô ta và ông phải là người đưa đơn ra tòa!”
“Được thôi.”
“Ông sẽ làm chứ? Ngay bây giờ? Ông cho phép Paul chuẩn bị hồ sơ ngay bây giờ chứ?”
“Được thôi.”
Scarret đi vội ra khỏi phòng. Ông vào phòng làm việc của mình, đóng sầm cửa, chộp lấy điện thoại và gọi luật sư của Wynand. Ông giải thích và lặp đi lặp lại một câu: “Dừng tất cả mọi việc anh đang làm và chuẩn bị hồ sơ ngay lập tức, Paul, bây giờ, hôm nay, nhanh lên, Paul, trước khi ông ấy đổi ý!”
Wynand lái xe về ngôi nhà ở ngoại ô của ông. Dominique đang đợi ông ở đó.
Cô đứng lên khi ông bước vào phòng. Cô bước lại gần ông, sao cho không có đồ đạc nào chắn giữa họ; cô muốn ông nhìn thấy toàn bộ thân thể cô. Ông đứng ở bên kia khoảng trống giữa họ và ông nhìn cô như thể ông đang quan sát hai người cùng một lúc – một quan sát viên vô tư đang ngắm Dominique và một người đàn ông đứng đối mặt với cô, nhưng không phải Gail Wynand.
Cô chờ đợi, nhưng ông không nói gì.
“Thế đấy, tôi đã cho anh một câu chuyện sẽ làm tăng lượng phát hành của anh, Gail.”
Ông đã nghe thấy, nhưng trông ông như thể hiện tại này chẳng có gì liên quan đến ông. Trông ông như một nhân viên ngân hàng đang cân đối tài khoản của một khách hàng xa lạ – tài khoản đó đã bị lạm chi và phải bị đóng lại. Ông nói:
“Tôi chỉ muốn biết một điều, nếu như em có thể nói cho tôi biết: đó có phải là lần đầu tiên kể từ ngày cưới của chúng ta?”
“Phải.”
“Nhưng đó không phải là lần đầu tiên?”
“Đúng vậy. Anh ấy là người đàn ông đầu tiên đã có được tôi.”
“Lẽ ra tôi phải hiểu điều đó. Em đã cưới Peter Keating. Ngay sau phiên toà Stoddard.”
“Anh có muốn biết tất cả không? Tôi muốn kể cho anh. Tôi đã gặp anh ấy khi anh ấy đang làm việc ở một mỏ đá granit. Tại sao lại không? Anh sẽ bắt anh ấy làm việc như một tù nhân hoặc bắt anh ấy làm trong một xưởng làm đay cơ mà. Anh ấy đã không xin phép tôi. Anh ấy đã cưỡng hiếp tôi. Mọi chuyện bắt đầu như thế. Anh có muốn sử dụng chuyện đó không? Có muốn đăng nó trên tờ Ngọn cờ không?”
“Anh ta đã yêu em.”
“Phải.”
“Thế mà anh ta vẫn xây ngôi nhà này cho chúng ta.”
“Phải.”
“Đó là những gì tôi muốn biết.”
Ông quay người bước đi.
“Quỷ tha ma bắt anh đi!” cô khóc. “Nếu anh có thể chấp nhận nó với thái độ này thì anh không có quyền trở thành một người như vậy!”
“Đó là lý do tại sao tôi chấp nhận nó.”
Ông bước khỏi căn phòng. Ông nhẹ nhàng đóng cửa lại.
Guy Francon gọi điện cho Dominique tối hôm đó. Kể từ khi về hưu, ông ở một mình trong một căn nhà ở nông thôn, gần khu mỏ đá. Cả ngày hôm nay cô đã từ chối mọi cú điện thoại gọi đến, nhưng bây giờ cô nhấc máy lên khi người hầu báo cho cô rằng đó là ông Francon. Thay vì cơn giận dữ như cô đoán, cô nghe thấy một giọng nói nhẹ nhàng.
“Chào con, Dominique.”
“Chào cha.”
“Bây giờ con sẽ bỏ Wynand?”
“Vâng.”
“Con không nên về sống ở thành phố. Như thế không cần thiết. Đừng cố quá. Hãy đến đây ở với cha. Cho đến… phiên tòa Corlandt.”
Những điều ông đã không nói ra và giọng nói của ông, vững chắc, đơn giản và với một nốt như thể là hạnh phúc – tất cả đã khiến cho cô trả lời ông, ngay lập tức:
“Vâng, thưa cha.” Đó là giọng của một cô bé, của một cô con gái, với vẻ vui tươi mang chút mệt nhọc, tin cậy và khao khát. “Con sẽ tới đó và khoảng nửa đêm. Cha chuẩn bị cho con một cốc sữa và vài miếng bánh mì kẹp thịt.”
“Con nhớ đừng đi quá nhanh như mọi khi nhé. Đường sá bây giờ không được tốt lắm đâu.”
Khi cô đến nơi, Guy Francon đón cô ở cửa. Cả hai cùng mỉm cười, và cô biết rằng cha cô sẽ không có câu hỏi hay là lời trách mắng nào cả. Ông đưa cô vào một phòng sưởi nắng nho nhỏ. Ông đã chuẩn bị thức ăn cho cô trên một cái bàn bên cạnh một cửa sổ để ngỏ, bên ngoài là một thảm cỏ tối. Có mùi của cỏ, của những ngọn nến trên mặt bàn, và mùi của một bó hoa nhài đặt trong một chiếc bát bạc.
Cô ngồi xuống, những ngón tay ôm quanh ly sữa lạnh. Ông ngồi ở bên kia bàn, nhẩn nha nhai một miếng bánh mì kẹp thịt một cách bình yên.
“Cha có muốn nói chuyện không?”
“Không. Cha muốn con uống sữa và đi ngủ.”
“Vâng.”
Ông cầm một quả ô-liu và tỉ mẩn quan sát nó, ông quay tròn nó trên một cái tăm xỉa răng có phết màu. Rồi ông ngước lên nhìn cô.
“Nghe này, Dominique. Cha sẽ không cố hiểu tất cả mọi thứ. Nhưng cha biết điều này – cha biết chuyện đó tốt cho con. Lần này, đó là người đàn ông đích thực của con.”
“Vâng, thưa cha.”
“Đó là lý do tại sao cha rất vui.”
Cô gật đầu.
“Hãy nói với cậu Roark rằng cậu ấy có thể đến đây bất cứ khi nào cậu ấy muốn.”
Cô mỉm cười. “Nói với ai hả cha?”
“Nói với… Howard.”
Cánh tay cô đặt trên mặt bàn; đầu cô gục lên cánh tay. Ông nhìn mái tóc vàng của cô dưới ánh nến. Cô nói, bởi vì kiểm soát giọng nói dễ hơn những thứ khác:
“Đừng để con ngủ gật ở đây. Con mệt rồi.”
Nhưng ông lại trả lời:
“Cậu ấy sẽ được trắng án, Dominique.”
*
* *
Hàng ngày người ta đem tất cả những tờ báo ở New York đến phòng làm việc của Wynand, đúng như mệnh lệnh của ông. Ông đọc từng từ mà người ta đã viết, đã thì thầm với nhau trong thành phố này. Tất cả mọi người đều biết câu chuyện đã được dựng lên; một bà vợ của một nhà triệu phú không đời nào báo mất một chiếc nhẫn trị giá năm ngàn; nhưng điều này không làm cho mọi người ta chối bỏ câu chuyện và đưa ra những lời bình phẩm. Những lời bình phẩm ác ý nhất lại xuất hiện khắp nơi trên tờ Ngọn cờ.
Alvah Scarret đã tìm được cho mình một cuộc thánh chiến mà ông có thể xả thân với lòng nhiệt tình chân thành nhất ông từng biết đến. Ông cảm thấy đây chính là cách ông chuộc lỗi cho những thời điểm mà ông đã không trung thành với Wynand. Ông tìm thấy cách để khôi phục lại tên tuổi chô Wynand. Ông lên kế hoạch để lăng-xê hình ảnh Wynand như nạn nhân của một tình yêu lớn dành cho một người đàn bà lăng loàn. Ông tuyên bố chính Dominique đã ép chồng bênh vực cho một vụ việc vô đạo đức, bất chấp quan điểm của Wynand; cô gần như đã làm hỏng tờ báo của chồng, làm hỏng vị trí, danh tiếng và thành tựu cả đời ông – chỉ để phục vụ cho lợi ích của người tình. Scarret cầu xin bạn đọc hãy tha thứ cho Wynand – và ông viện dẫn một tình yêu bi kịch và đầy tính hy sinh cho lời bào chữa. Trong sự tính toán của Scarret, đây sẽ là một phép nghịch đảo: mỗi một tính từ xấu xa ông ném vào Dominique sẽ tạo nên một sự đồng cảm, chia sẻ của độc giả với Wynand, nó cũng hợp với khả năng bôi nhọ tuyệt vời của Scarret. Chiến dịch của ông đã có kết quả. Công luận đã có phản ứng, đặc biệt là những độc giả nữ đứng tuổi của tờ Ngọn cờ. Nó cũng giúp cho quá trình phục hồi số lượng phát hành vốn đang diễn ra một cách chậm chạp và khó nhọc của tờ Ngọn cờ.
Người ta bắt đầu gửi thư đến tòa soạn; thư đầy những lời chia buồn hào phóng, và những lời chửi bới không thương tiếc với Dominique Francon. “Lại như những ngày trước, Gail,” Scarret nói hào hứng, “giống hệt như những ngày trước!” Ông xếp tất cả những lá thư đó thành một chồng trên bàn làm việc của Wynand.
Wynand ngồi một mình trong phòng làm việc với những lá thư. Scarret không biết rằng đó là sự chịu đựng kinh khủng nhất mà Gail Wynand từng trải qua. Ông tự ép mình phải đọc tất cả những lá thư. Dominique, người mà ông đã cố cứu khỏi tờ Ngọn cờ…
Khi họ gặp nhau trong tòa nhà, Scarret nhìn ông chờ đợi, với một nụ cười nửa chừng đầy vẻ khẩn khoản và chăm chú, giống như một học sinh đợi được thầy giáo khen ngợi vì đã hiểu bài và làm bài tập đầy đủ. Wynand không nói gì cả. Một lần Scarret thử đánh liều:
“Rất khéo, phải không Gail?”
“Phải.”
“Ông có ý tưởng gì thêm về vắt sữa vụ này không?”
“Đó là việc của anh, Alvah.”
“Cô ta chính là nguyên nhân mọi chuyện, Gail. Từ lâu rồi, từ trước khi xảy ra chuyện này. Khi ôahới cô ta. Tôi đã rất sợ hãi. Đó là sự khởi đầu. Ông còn nhớ khi ông không cho phép chúng tôi đăng tin về đám cưới của ông không? Đó là một dấu hiệu. Cô ta đã phá hỏng tờ Ngọn cờ. Nhưng thề có Chúa là tôi sẽ xây lại tờ báo, ngay bây giờ, trên thân xác của cô ta. Sẽ đúng như cũ. Tờ Ngọn cờ của chúng ta.”
“Phải.”
“Ông có gợi ý gì không, Gail? Ông có muốn tôi làm gì nữa không?”
“Cứ làm bất cứ điều gì anh muốn, Alvah.”