Trong cuộc chuyển dạ đẻ, việc chuẩn bị tinh thần cho thai phụ rất quan trọng và cần thiết, không những giúp cho cuộc đẻ tiến triển một cách thuận lợi, mà còn giảm được những cảm giác đau cho thai phụ mà khỏi phải cần dùng đến thuốc . Muốn được vậy, ngoài việc theo dõi của người hộ sinh, cần có sự hợp tác của thai phụ trong các giai đoạn của cuộc đẻ, thai phụ cần phải có tinh thần tự giác và chủ động khi chuyển dạ. Đó là phương pháp làm giảm đau khi chuyển dạ đẻ dựa vào tâm sinh lý tự nhiên của cơ thể người phụ nữ.
Phương pháp này dựa trên cơ sở lý luận của học thuyết Pavlov. Theo học thuyết này, hoạt động thần kinh cao cấp có một vai trò quyết định trong tất cả các hoạt động sinh lý. Lời nói giữ một vai trò quan trọng trong sự thăng bằng các phản ứng nội tại. Sự lo lắng, sợ sệt, hay khủng khiếp là những yếu tố chính làm mất sự cân thăng bằng của hoạt động thần kinh cao cấp, làm gia tăng cảm giác đau đớn.
Khi vỏ não của thai phụ hoạt động tốt, thì thai phụ không thấy đau. Do đó cần huấn luyện cho thai phụ biết sinh lý của cuộc chuyển dạ, cơ chế đẻ, giúp cho thai phụ gạt bỏ những gì ảnh hưởng không tốt đến đời sống hàng ngày như lo nghĩ quá mức, buồn bực quá độ… Đồng thời tạo cho thai phụ những mối liên hệ mới như tập thể dục, luôn nghĩ đến những niềm vui sướng sắp được làm mẹ… Mục đích là làm cho cơ thể khỏe và tạo nên các điểm hưng phấn mới, chiếm ưu thế ở vỏ não đủ để lấn át được điểm hưng phấn đau. Theo học thuyết Pavlov, cảm giác đau tạo nên bởi cơn co tử cung cũng như cảm giác đau khác, là một hiện tượng xảy ra ở vỏ não. Trong khi chuyển dạ, những kích thích được thu nhận từ tử cung, khi chuyển đến vỏ não có thể tạo thành phản xạ có điều kiện, gây ra cảm giác đau.
Như vậy, muốn làm giảm cảm giác đau do sự co bóp tử cung gây ra trong khi đẻ phải làm thế nào?
– Phải tạo phản xạ có điều kiện “đẻ là không đau”
– Đánh tan mối lo sợ của thai phụ
– Bắt trí não của thai phụ phải làm việc trong khi chuyển dạ đẻ, để tạo được điểm hưng phấn mới, lấn át điểm hưng phấn gây đau.
Muốn đạt được những điều này, các bà bầu cần làm quen và tập theo một số động tác thể dục dưới đây:
1. Tập thư giãn: Để đạt đến sự nghỉ ngơi, thư giãn cơ hoàn toàn, thai phụ nên nằm theo hai tư thế nằm ngửa hoặc nằm nghiêng, trí óc cố quên hết nmọi việc, không nghĩ ngợi, bận tâm lo lắng gì. Bài tập này giúp thai phụ chủ động co từng nhóm cơ trong cơ thể lúc chuyển dạ đẻ, để việc xổ thai được dễ dàng.
2. Tập động tác tay và chân: Giúp cho máu trong cơ thể lưu thông được dễ dàng, điều hòa, các khớp xương cử động dễ dàng, nhất là khớp háng và các khớp vùng chậu.
3. Động tác thắt lưng cột sống và xương chậu: Khi mang thai, sẽ gây ra sự chèn ép cũng như sự thay đổi của các khớp xương, cột sống, nhất là ở vùng thắt lưng làm thai phụ nhức mỏi, tê tay chân hay đau lưng. Các động tác này sẽ đem lại sự thoải mái, giảm bớt đau lưng cho thai phụ.
4. Tập thở theo cơn co tử cung: Khi không có cơn co tử cung: thở bình thường khi bắt đầu cơn co:
– Cổ tử cung nở từ 1 – 4 cm: ngồi tư thế thư giãn, thở bình thường bằng hai cánh mũi, miệng ngậm lại.
– Cổ tử cung mở từ 4 – 8 cm: nên nằm thư giãn, có thể nằm nghiêng hay ngửa, thở cạn và nhanh theo cơn co tử cung đến khi cơn co đạt tối đa rồi cơn co sẽ giảm dần, nhịp thở cũng nông và chậm dần đến khi hết cơn co.
– Trước khi có cơn co bắt đầu: hít sâu bằng mũi, thở ra bằng miệng 1 nhịp.
– Bắt đầu có cơn co: thở nhanh và nông.
– Khi hết cơn co: hít thở sâu 2 nhịp.
– Sau đó thở bình thường, nằm thư giãn.
Động tác thở theo cơn co tử cung rất cần cho cuộc chuyển dạ. Để đạt được kết quả tốt, thai phụ cần hết sức bình tĩnh, tập trung tư tưởng theo dõi cơn co để điều chỉnh nhịp thở, nhằm cung cấp đủ oxy cho mẹ và con, giúp thêm sức cho thai phụ rặn tốt khi cổ tử cung nở trọn.
5. Thở để ức chế cơn mắc rặn: Khi cổ tử cung chưa nở trọn mà thai phụ lại mắc rặn quá sớm, thì phải biết cách để ức chế cơn mắc rặn, nếu không sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho mẹ và con như: thai nhi bị suy yếu, cổ tử cung phù nề, dãn nở chậm làm cuộc chuyển dạ kéo dài, thậm chí làm rách cổ tử cung và có thể đưa đến vỡ tử cung. Để ức chế cơn mắc rặn, thai phụ thở bằng cách chúm miệng lại như nuốn thổi tắt một ngọn nến đặt trước mặt khoảng từ 20 – 50 cm. Động tác này còn được áp dụng khi đầu thai nhi đã sổ ra ngoài, người mẹ không được rặn nữa, để bác sĩ tự đỡ em bé ra, nếu người mẹ cứ rặn thêm, có thể sẽ làm tầng sinh môn rách nhiều hơn.
6. Tập rặn:Nếu rặn đúng cách việc sổ thai sẽ dễ dàng, tránh được sang chấn cho em bé và mất sức cho người mẹ.