1. Vài nét sơ lược về bệnh tiểu đường
Tiểu đường là một bệnh rối loạn chuyển hóa chất đường trong cơ thể. Trước đây người ta biết bệnh sinh ra do thiếu hormon của tuyền tụy. Tụy là một tuyến tiêu hóa lớn, nằm ngang ở phía sau ổ bụng trên, được tá tràng (là khúc ruột non đầu tiên đi từ dạ dày xuống) ôm lấy. Ngoài việc tiết ra dịch tụy đổ vào ruột để tiêu hóa thức ăn, tụy còn là tuyến nội tiết, bài xuất hormon insulin đổ vào máu để điều chỉnh lượng đường trong máu và giúp các tế bào của cơ thể sử dụng được chất đường. Những tổn thương ở tụy làm cho nó không tiết ra được insulin sẽ gây hậu quả là đường máu tăng cao và đến mức nào đó (quá ngưỡng hấp thu lại của thận) thì đường trong máu sẽ bị đào thải qua nước tiểu gây nên bệnh tiểu đường. Ngày nay loại tiểu đường này được gọi là tiểu đường nhóm I, là nhóm tiểu đường phụ thuộc vào insulin và việc điều trị chủ yếu là phải tiêm insulin thường xuyên. Đây cũng là loại tiểu đường nặng và thường xuất hiện sớm ở người còn trẻ.
Ngoài loại tiểu đường ở trên ra, còn loại tiểu đường thuộc nhóm II, là loại tiểu đường không phụ thuộc vào insulin. Người bị bệnh tiểu đường nhóm này trong cơ thể lượng insulin vẫn đầy đủ nhưng do tác dụng sinh học của insulin bị giảm sút nên làm cho lượng đường máu tăng cao và gây nên tiểu đường. Loại tiểu đường này đáp ứng tốt với chế độ ăn uống thích hợp và có thể điều trị có hiệu quả bằng các thuốc làm hạ đường máu loại uống, chỉ khi cần thiết mới phải tiêm insulin. Thể bệnh tiểu đường này nhẹ hơn tiểu đường nhóm I và thường xuất hiện trên những người đã trưởng thành.
Người bị tiểu đường thường có ba triệu chứng gợi ý để nghĩ đến bệnh là: ăn nhiều – uống nhiều – đi tiểu nhiều. Nếu xét nghiệm sẽ thấy lượng đường trong máu tăng cao (triệu chứng chính) và xét nghiệm nước tiểu có thể thấy ít hoặc nhiều đường trong đó (nước tiểu bình thường không có đường); vì thế tiểu ra ở đâu có thể có ruồi bâu, kiến đậu. Người bị tiểu đường có thể bị béo phì, có thể gầy sút lở loét dễ bị nhiễm trùng, mụn nhọt, bắp chuối, nhọt tổ ong…) dai dẳng, khó điều trị. Nặng hơn nữa có thể bị hôn mê, co giật do hạ đường huyết và toan hóa máu.
Ở phụ nữ có thai, tình trạng nội tiết của cơ thể bị thay đổi; đặc biệt sự có mặt của rau thai là một tuyến nội tiết lớn trước đây không có, tiết ra nhiều hormon khác nhau để phục vụ cho thai nghén phát triển. Các hormon của rau thai hầu hết là các chất có thể gây tăng đường huyết; vì vậy người phụ nữ trước đây chưa bao giờ bị tiểu đường, đến khi có thai họ có thể mắc bệnh tiểu đường do thai nghén và bệnh tiểu thường khỏi hẳn sau khi sinh con (tuy vậy có một số ít vẫn tiếp tục bị tiểu đường).
2.Ảnh hưởng của thai nghén đối với bệnh tiểu đường như thế nào?
Như đã nói ở trên, thai nghén có thể coi là một yếu tố sinh bệnh tiểu đường. Ngoài ra, với người đã bị tiểu đường trước lúc có thai thì bệnh dễ bị tăng nặng thêm lên. Tình trạng hạ đường huyết dễ xảy ra ngay từ những tháng thai nghén đầu tiên do tình trạng nghén: ăn uống kém, nôn mửa; nhất là đối với người bệnh được điều trị thường xuyên bằng insulin. Tình trạng toan hóa cũng dễ xảy ra vào những tháng giữa và cuối kỳ thai nghén. Khi chuyển dạ, do ăn uống kém, các cơ tử cung và cơ bắp của cơ thể lại vận động nhiều, tiêu tốn nhiều năng lượng thì nguy cơ hạ đường huyết rất cao; khi đó có thể phải ngừng hẳn việc điều trị bằng insulin và có khi còn phải truyền thêm dung dịch có đường cho sản phụ. Sau khi sinh, tác dụng của các hormon rau thai không tồn tại nữa cũng cần điều chỉnh insulin điều trị cho người bệnh một cách thích hợp.
3. Ảnh hưởng của bệnh tiểu đường đối với thai nghén thế nào?
Khi người bị bệnh tiểu đường có thai hoặc khi người có thai bị tiểu đường, bệnh đều có ảnh hưởng xấu đến mẹ và con:
– Đối với bà mẹ: Người có bệnh tiểu đường kèm theo thai nghén thì thai nghén lần đó dễ bị nhiễm độc (tiền sản giật và sản giật). Bà mẹ cũng dễ bị nhiễm trùng nặng; có tỷ lệ sinh phải can thiệp nhiều hơn (mổ sinh, chịu các thủ thuật do sinh khó). Sau khi sinh có thể bị tiểu đường nặng hơn. Có khoảng 5% đến 20% bà mẹ bị tiểu đường trong lúc có thai sau khi sinh vẫn tiếp tục bị bệnh.
– Đối với thai nhi: Thai nhi của các bà mẹ bị tiểu đường có tỷ lệ tử vong chu sản cao. Thai có thể bị dị tật. Sơ sinh khi sinh ra cũng dễ bị tiểu đường. Tâm thần kinh của trẻ thường chậm phát triển. Sự trưởng thành về phổi của thai trong dạ con bà mẹ có bệnh tiểu đường thường chậm hơn so với thai nhi của các bà mẹ không bị bệnh: do đó nếu trẻ bị sinh non thì càng dễ bị suy hô hấp nặng. Con của các bà mẹ tiểu đường thường nặng cân, to con và to cả các bộ phận nội tạng trừ có não (4kg hoặc hơn thế là chuyện thường gặp ở các bà mẹ bị tiểu đường) vì thế thai này thường gây đẻ khó, có tỷ lệ mổ cao; nếu đẽ được theo đường dưới cũng dễ bị sang chấn. Thai tuy to con nhưng lại kém về chức năng và phát triển sau khi sinh, đặc biệt là phát triển về trí tuệ, tâm thần. Vì vậy sơ sinh của các bà mẹ tiểu đường thường được coi là những bé khổng lồ nhưng chân đất sét.
Biết được các đặc điểm của bệnh tiểu đường đối với thai nghén như trên, chúng ta thấy việc khám thai phát hiện các bất thường là rất quan trọng. Nếu bà mẹ bị tiểu đường (bệnh có saün từ trước hay chỉ do thai nghén gây nên, dù thuộc nhóm II hay nhóm I) cũng cần được theo dõi và chăm sóc chu đáo ở cả hai phía: các thầy thuốc sản khoa và các thầy thuốc chuyên khoa nội tiết điều trị bệnh tiểu đường. Mọi thứ thuốc men và chế độ ăn uống trong giai đoạn thai nghén này cần theo đúng chỉ dẫn của các thầy thuốc chuyên khoa. Có như thế mới mong tránh được các rủi ro, tai biến cho cả mẹ và con.