Nàng đã bước vào thế giới của tôi, xứ Humberland nâu thẫm và đen tối, với tính hiếu kỳ bất cẩn; nàng ngó nghiêng quanh nó với cái nhún vai vừa thích thú vừa chán ghét; và tôi cho rằng nàng đã sẵn sàng rời bỏ nó với thái độ nào đó gần giống như ghê sợ thông thường. Chưa bao giờ nàng rung động dưới đụng chạm của tôi, và tiếng kêu the thé “anh nghĩ anh đang làm gì thế?” là tất cả những gì tôi được đền đáp cho các nỗ lực của mình. Con ngốc của tôi ưa chuộng những bộ phim sướt mướt nhất, món kẹo mềm ngọt ngào nhất, hơn là xứ sở thần tiên mà tôi phải dâng hiến. Cân nhắc giữa Thịt Băm và Humbert, nó sẽ – lúc nào cũng vậy, với sự chính xác lạnh lùng – chọn ngay cái đứng trước. Không có gì phũ phàng độc ác hơn đứa trẻ được cưng chiều. Tôi đã kể về tên quán giải khát mà tôi vừa ghé thăm một lúc trước đây chưa nhỉ? Nó là, bạn hình dung được không, Nữ Hoàng Băng Giá. Cười đượm buồn, tôi đặt cho nàng cái tên Công Chúa Băng Giá Của Tôi. Nàng không hiểu ý câu đùa thảm hại này.
Ôi, xin đừng cau có khó chịu với tôi, thưa độc giả, tôi không có ý định tạo ấn tượng rằng tôi không tìm được cách để hạnh phúc. Độc giả phải hiểu rằng, thuộc sở hữu và trong cảnh là nô lệ của nymphet, lữ khách bị bỏ bùa mê sẽ đứng, có thể nói là, bên kia bờ hạnh phúc. Bởi lẽ không có lạc thú nào khác trên trái đất này sánh được với lạc thú vuốt ve nymphet. Nó là hors concours[1], lạc thú ấy, nó thuộc cấp độ khác, trên bình diện khác của cảm xúc. Bất chấp những xích mích giữa chúng tôi, bất chấp tính cách khó chịu của nàng, bất chấp mọi chuyện nhăng nhít và những nét nhăn nhó mà nàng thể hiện, bất chấp sự thô lỗ, nỗi hiểm nguy, sự tuyệt vọng khủng khiếp của tất cả những chuyện đó, tôi vẫn đắm mình vào thiên đường tôi đã chọn – một thiên đường mà những bầu trời của nó rực lên màu lửa địa ngục – nhưng vẫn là một thiên đường.
Bác sỹ tâm thần tài giỏi nào nghiên cứu ca của tôi – và là người mà giờ này Tiến sỹ Humbert đã nhận chìm, tôi hy vọng, vào trạng thái bị thôi miên của thỏ – chắc chắn rất khao khát mong tôi đưa Lolita của tôi đến bờ biển và mong tôi rốt cuộc cũng tìm được ở đó “sự thỏa nguyện” cho nỗi thèm muốn suốt đời, và giải thoát khỏi ám ảnh trong “tiềm thức” từ chuyện tình dang dở thời thơ ấu cùng Tiểu thư Lee thuở ban đầu.
Thôi được, anh bạn, hãy để tôi kể cho anh nghe rằng tôi đúng là đã đi tìm kiếm một bãi biển nào đó, mặc dù tôi cũng phải thú nhận rằng tới lúc chúng tôi đến được cái ảo tượng nước xám của nó, người bạn đồng hành của tôi đã ban phát cho tôi nhiều niềm vui đến nỗi cuộc kiếm tìm Vương Quốc Bên Bờ Biển, Riviera Thăng Hoa, hoặc thứ linh tinh nào đấy, không còn là động lực của tiềm thức, mà đã trở thành sự đeo đuổi duy lý theo xúc cảm thuần túy lý thuyết. Các thiên thần biết điều đó, và thu xếp mọi thứ sao cho phù hợp. Chuyến tham quan cái vịnh nhỏ có vẻ hợp lý bên bờ Đại Tây Dương đã hoàn toàn bị làm hỏng bởi thời tiết tồi tệ. Bầu trời ẩm thấp nặng nề, sóng đục ngầu, cảm giác về màn sương mù mênh mông nhưng không biết tại sao lại có vẻ rất tầm thường – liệu còn cái gì có thể xa xôi hơn nữa với vẻ yêu kiều rõ nét, cơ duyên xanh ngọc và sự bất ngờ hồng hồng trong câu chuyện lãng mạn Riviera của tôi? Vài bãi tắm cận nhiệt đới trên Vịnh Mexico, dù khá đủ tươi sáng, nhưng lấm chấm vương vãi đầy sinh vật độc và bị càn quét bởi những cơn gió bão. Cuối cùng, trên một bãi biển California, đối diện bóng ma Thái Bình Dương, tôi kiếm được chút riêng tư hơi đồi bại trong một cái tựa như hang động, từ đó có thể nghe thấy tiếng la hét của rất nhiều nữ hướng đạo sinh đang tận hưởng lần tắm sóng đầu tiên của họ tại phần bãi biển riêng, đằng sau rặng cây mục nát; nhưng sương mù tựa như tấm mền ướt sũng, cát thì đầy sạn và dinh dính, Lo thì nổi đầy da gà và dính đầy cát, và lần đầu tiên trong đời, tôi có ít ham muốn với nàng như với con bò biển. Tuy nhiên các độc giả uyên bác của tôi có thể thấy sảng khoái lên nếu tôi kể cho họ nghe rằng thậm chí nếu chúng tôi khám phá ra một đoạn bờ biển giàu lòng trắc ẩn ở đâu đó, thì cũng đã quá muộn, bởi lẽ sự giải thoát thật của tôi đã xảy ra sớm hơn nhiều: vào cái khoảnh khắc, thực tế là, khi Annabel Haze, còn gọi là Dolores Lee, còn gọi là Loleeta, hiện ra trước tôi, vàng óng và rám nắng, quỳ gối, ngước nhìn, trên hàng hiên tồi tàn ấy, trong một thể loại sắp đặt hư cấu, bất lương, nhưng tốt đẹp mỹ mãn bên bờ biển (mặc dù ở nơi đó chẳng có gì ngoài hồ nước hạng hai ở vùng lân cận).
Chẳng cần nói thêm về những cảm giác đặc biệt ấy nữa, chúng chịu ảnh hưởng, nếu như không thực sự bị gây ra, bởi những giáo lý bệnh học tâm thần hiện đại. Do đó, tôi bỏ đi – và dẫn Lolita của tôi đi – khỏi những bãi biển hoặc quá ảm đạm khi vắng vẻ, hoặc quá đông người khi rực nắng. Tuy nhiên, bị ám ảnh bởi hồi ức, tôi cho rằng, về những phiêu bạt vô vọng ở các vườn hoa công cộng ở châu Âu, nên tôi vẫn hăng hái quan tâm đến các hoạt động ngoài trời và khao khát tìm được sân chơi lộ thiên thích hợp, nơi tôi từng chịu đựng cảnh thiếu thốn đáng xấu hổ đến như vậy. Ở đây tôi cũng bị ngăn trở. Sự thất vọng mà giờ đây tôi phải lột tả (trong khi tôi chậm rãi thay đổi dần dần câu chuyện của mình thành một diễn giải về những rủi ro liên tiếp và nỗi kinh hãi chạy suốt hạnh phúc của tôi) sẽ không có cách nào phủ được bóng đen lên những vùng đất Mỹ hoang vu trữ tình, đậm chất sử thi, bi thảm nhưng không bao giờ giống như Arcadia[2]. Chúng đẹp tuyệt vời, đẹp đến đau lòng, những vùng đất hoang vu ấy, với những phẩm chất phục tùng ngây thơ, mắt mở to, chưa được ngợi ca mà những ngôi làng Thụy Sỹ bóng nhoáng, sáng ngời như đồ chơi và dãy An Pơ vẫn được tán dương hết lời của tôi không còn sở hữu nữa. Vô số tình nhân ôm chặt, hôn nhau trên mặt cỏ cắt tỉa gọn gàng của sườn núi cựu lục địa, trên lớp rêu êm như nệm lò xo, gần dòng suối nhỏ thuận tiện, vệ sinh, trên chiếc ghế băng thô kệch dưới những cây sồi khắc đầy chữ cái đầu tên, và trong rất nhiều cabane[3] trong rất nhiều rừng sồi. Nhưng ở những vùng hoang vu nước Mỹ, kẻ đam mê không gian ngoài trời sẽ không dễ tìm được cách thỏa thuê trong thú chơi cổ xưa nhất của mọi tội ác và trò tiêu khiển. Những cây độc đốt nóng cặp mông người tình của hắn, những con côn trùng vô danh đốt mông hắn; những thứ sắc nhọn của thảm rừng chọc vào đầu gối hắn, lũ côn trùng chích vào đầu gối ả; và khắp xung quanh nơi đó kéo mãi tiếng sột soạt liên tục không ngừng từ những con rắn tiềm tàng – que dis-je[4], từ những con rồng gần như đã tuyệt chủng! – còn những hạt giống hoa dữ nhìn như những con cua tí hon thì níu chặt, trong lớp vỏ xanh gớm guốc, vào bít tất đen đeo nịt cũng như bít tất trắng lỏng lẻo.
Tôi cường điệu một chút. Một trưa hè nọ, ngay dưới đường ranh hạn chế rừng, nơi những bông hoa màu da trời mà tôi sẵn lòng gọi là cây phi yến chen chúc suốt dọc con suối chảy róc rách trên núi, chúng tôi đã tìm được, Lolita và tôi, một nơi lãng mạn hẻo lánh, chừng một trăm foot phía trên đường đèo nơi chúng tôi để chiếc xe lại. Con dốc dường như chưa ai đặt chân đến. Cây thông cuối cùng hổn hển nghỉ xả hơi thật xứng đáng trên tảng đá mà nó leo đến. Con sóc chuột huýt gió với chúng tôi và lủi mất. Dưới vạt áo choàng tôi trải cho Lo, những bông hoa khô êm ái kêu lách tách. Thần ái tình đến rồi đi. Vách đá lởm chởm đặt vương miện lên đỉnh dốc và đám cây bụi mọc quấn quít bên dưới chúng tôi có vẻ đang tặng chúng tôi sự che chở khỏi mặt trời cũng như con người. Than ôi, tôi đã không tính đến con đường mòn khó thấy ở bên sườn núi, nó kín đáo uốn mình giữa những bụi cây và những tảng đá cách chúng tôi vài foot.
Đó là lúc chúng tôi gần với việc bị phát hiện ra hơn bất cứ lúc nào trước đây, và không ngạc nhiên là trải nghiệm này đã kiềm chế mãi mãi niềm ao ước của tôi với những chuyện ái ân nơi thôn dã.
Tôi nhớ là trận tác chiến đã xong, hoàn toàn xong, và nàng đang thút thít khóc trong vòng tay tôi; – cơn mưa thổn thức tốt lành sau một trong những đợt trầm cảm thường xuyên xảy ra với nàng vào cái năm nếu không thì đã rất tuyệt diệu ấy! Tôi vừa mới rút lại lời hứa ngờ nghệch nào đó mà nàng đã ép tôi đưa ra trong phút giây nồng nàn mù quáng nôn nóng, và nàng nằm ườn ra khóc thổn thức, cấu véo bàn tay mơn trớn của tôi, còn tôi cười hạnh phúc, và điều kinh khủng mà giờ đây tôi đã biết là tồi tệ, khó tin, không thể chịu nổi, và, tôi ngờ là, sẽ còn mãi, thì lúc ấy vẫn chỉ là chấm đen trên bầu trời xanh hạnh phúc của tôi; chúng tôi đang nằm như vậy, thì cùng một trong những cú điếng người mà rốt cuộc đã đánh bật trái tim đáng thương của tôi khỏi lối mòn của nó, tôi bắt gặp cặp mắt thẫm màu đăm đắm không chớp của hai đứa bé lạ mặt rất xinh, faunlet và nymphet, mà mái tóc thẳng sẫm màu và đôi má tái nhợt hệt như nhau của chúng chỉ ra rằng chúng là anh em ruột nếu không phải là anh em sinh đôi. Chúng đứng lom khom và há hốc miệng nhìn chúng tôi, cả hai mặc bộ áo liền quần màu xanh, lẫn vào những bông hoa núi. Tôi kéo vạt áo choàng để tuyệt vọng che đậy – và cùng lúc ấy, có cái gì đó như quả bóng khổng lồ phủ đầy chấm bi nằm giữa những bụi cây cách đây vài bước chân, bắt đầu xoay chuyển và biến thành hình dáng từ từ vươn cao của một quý bà mập mạp có mái tóc đen nhánh cắt ngang vai, đang vô thức dúi thêm một bông Ly dại vào bó hoa của mình, trong khi ngoái nhìn chằm chằm chúng tôi qua vai bà từ phía sau những đứa con đáng yêu được tạc bằng đá xanh.
Giờ đây, khi tôi đã có mớ bòng bong hoàn toàn khác trong lương tâm mình, tôi biết rằng tôi là người đàn ông dũng cảm, nhưng vào những ngày ấy tôi không nhận thức được chuyện đó, và tôi nhớ là đã bị bất ngờ bởi sự lạnh lùng của chính mình. Bằng mệnh lệnh thầm thì trầm tĩnh mà ngay trong những hoàn cảnh tồi tệ nhất người ta đưa ra cho con thú đã được huấn luyện đang bết mồ hôi quẫn trí rúm ró (hy vọng hay hận thù điên cuồng nào đã làm hai bên sườn con thú non co giật, những ngôi sao đen nào đã xuyên thủng trái tim người dạy thú!), tôi bắt Lo dậy, và chúng tôi nhã nhặn bước đi, rồi khiếm nhã chạy hấp tấp xuống xe. Đằng sau nó một chiếc station wagon[5] đúng mốt đang đậu, và một người Assyria đẹp trai có chòm râu nhỏ màu xanh đen, un monsieur très bien[6], mặc sơ mi lụa và quần dài đỏ tía, có thể đoán là chồng của nhà thực vật học béo tròn, đang trang trọng chụp tấm biển chỉ độ cao đèo. Nó trên 10.000 foot khá nhiều và tôi thở không ra hơi; cùng với tiếng nghiến bánh xe và một cú trượt, chúng tôi phóng xe đi, Lo vẫn vùng vẫy với trang phục của nàng và nguyền rủa tôi bằng những từ ngữ mà tôi chưa bao giờ nghĩ là các cô bé có thể biết đến, huống hồ là sử dụng.
Xảy ra những bất ngờ khó chịu khác. Thí dụ một lần trong rạp chiếu phim. Hồi đó Lo vẫn còn có với điện ảnh một niềm đam mê cháy bỏng (nó lụi tàn thành sự chiếu cố hững hờ vào năm thứ hai trung học của nàng). Chúng tôi đã đi xem, bừa bãi và đầy khoái cảm, ôi, tôi không biết nữa, khoảng một trăm năm mươi hay hai trăm buổi chiếu trong một năm đó, và vào những giai đoạn hay đến rạp, chúng tôi đã xem nhiều phim thời sự đến dăm bẩy lần bởi lẽ cùng một cuốn phim phụ hằng tuần được chiếu kèm nhiều cuốn phim chính khác nhau và bám theo chúng tôi từ thành phố này qua thành phố khác. Những thứ nàng ưa thích được xếp theo thứ tự này: âm nhạc, xã hội đen, cao bồi viễn Tây. Trong thể loại đầu tiên, các ca sỹ và vũ công có thật đã có những sự nghiệp sân khấu không thật trong một quả cầu sự sống về cơ bản là ngăn cản được mọi nỗi khổ đau, là nơi mà cái chết và sự thật bị cấm tiệt, và là nơi, vào lúc cuối, người cha tóc bạc trắng, mắt đẫm sương, bất tử về mặt kỹ thuật, miễn cưỡng lúc ban đầu, của cô con gái quá mê kiếp cầm ca, luôn kết thúc bằng việc vỗ tay tán dương cô trên sân khấu Broadway huyền thoại. Xã hội đen là một thế giới riêng biệt: nơi đó, chàng phóng viên quả cảm bị tra tấn, hóa đơn điện thoại lên đến hàng tỷ đô la, và, trong không khí bạo lực do kỹ năng bắn súng kém cỏi, kẻ ác bị săn đuổi qua cống rãnh và nhà kho bởi những tay cớm can đảm một cách bệnh hoạn (tôi đã cho họ ít bài luyện tập hơn). Cuối cùng là phong cảnh màu gỗ gụ, những chàng cao bồi luyện ngựa mặt đỏ ửng, mắt xanh lơ, cô giáo xinh đẹp ra vẻ tiết hạnh đoan trang vừa đến Roaring Gulch, con ngựa chồm lên, gia súc chạy tán loạn thật ngoạn mục, khẩu súng ngắn thọc xuyên qua kính cửa sổ vỡ vụn, trận đấu tay bo kỳ diệu, núi đồ đạc bụi bặm lỗi mốt rơi vỡ loảng xoảng, cái bàn được dùng như vũ khí, nhào lộn đúng lúc, những bàn tay bị ghìm chặt vẫn mò mẫm tìm dao găm bị rơi, tiếng càu nhàu, tiếng va chạm ngọt lịm của nắm đấm vào cằm, cú đá vào bụng, cú bay người phản đòn; và ngay sau đó là sự thừa mứa nỗi đau đớn đến nỗi có thể đưa cả thần Hercules vào bệnh viện (giờ thì tôi đã biết), chẳng có gì hiện ra ngoài vết bầm tím khá duyên trên gò má màu đồng của người hùng chỉ vừa mới làm nóng đang ôm cô dâu tuyệt đẹp miền biên ải của mình. Tôi nhớ một buổi chiếu ban ngày trong cái rạp nhỏ ngột ngạt chật ních trẻ con và nồng nặc hơi thở nóng mùi bỏng ngô. Trăng vàng treo trên đầu gã ca sỹ nhạc nhẹ đeo khăn quàng cổ, ngón tay gã búng dây đàn guitar, chân gã đặt trên súc gỗ thông, còn tôi ngây thơ ôm quanh bờ vai Lo và nhích xương hàm mình đến gần thái dương nàng, trong lúc hai con mụ thần nanh đỏ mỏ đằng sau chúng tôi bắt đầu thì thầm những điều kỳ quặc – tôi không biết tôi có hiểu đúng hay không, nhưng những gì tôi nghĩ là tôi đã hiểu, làm tôi rụt bàn tay dịu dàng của mình lại, và đương nhiên phần còn lại của cuốn phim là màn sương mờ mịt trước mặt tôi.
Cú điếng người nữa theo tôi nhớ thì có liên quan tới một thị trấn nhỏ mà chúng tôi đi ngang qua vào ban đêm, trong hành trình quay về của chúng tôi. Khoảng hai mươi dặm trước tôi tình cờ có nói với nàng rằng trường bán trú mà nàng sẽ theo học ở Beardsley là một trường thuộc loại khá là cao cấp, không cho nam nữ học chung, không có những thứ lăng nhăng hiện đại, ngay sau đó Lo mời tôi xơi một trong những bài diễn thuyết điên giận của nàng, nơi mà cầu khẩn và lăng mạ, tự khẳng định và bóng gió nước đôi, thô lỗ đồi bại và tuyệt vọng trẻ thơ, đã trộn lẫn vào nhau trong một thứ ngụy biện bực mình, tạo cảm hứng cho những ngụy ngôn từ phía tôi. Lúng túng trong những câu nói lung tung của nàng (cơ hội ngon nhỉ… tôi sẽ thành con khùng nếu anh thật sự làm theo ý anh… Đồ đáng ghét… Anh không thể điều khiển tôi… Tôi khinh bỉ anh… và vân vân), tôi phóng xe xuyên qua một thị trấn đang ngủ say với tốc độ năm mươi dặm một giờ theo trớn tiếng lào xào trên xa lộ phẳng lì, và một cặp cảnh sát tuần tra đặt đèn hiệu của họ lên trên xe, yêu cầu tôi tấp vào lề đường. Tôi suỵt Lo im miệng, nàng đang tự động nổi điên lên. Hai người đàn ông chăm chú nhìn nàng và tôi với thái độ tò mò ác ý. Đột nhiên, phô hết mọi lúm đồng tiền, nàng ngọt ngào cười rạng rỡ với họ, trong khi nàng chưa bao giờ cười với nam tính “củ chuối”[7] của tôi; bởi lẽ, trên phương diện nào đó, Lo của tôi thậm chí còn sợ pháp luật hơn cả tôi – khi hai nhân viên công vụ tử tế đã tha cho chúng tôi và chúng tôi hèn hạ trườn đi, mi mắt nàng nhắm nghiền mấp máy trong lúc nàng giả bộ mệt nhoài.
Đến chỗ này, tôi phải đưa ra một thú nhận lạ lùng. Quý vị sẽ cười – nhưng thực tình là không biết tại sao mà tôi chưa bao giờ xác minh được hoàn toàn chính xác tình trạng pháp lý là thế nào. Đến tận giờ này tôi vẫn còn chưa biết. Ôi, tôi đã nghiên cứu được vài thứ linh tinh. Alabama cấm người giám hộ không được thay đổi nơi cư trú của người được giám hộ mà không có lệnh của tòa; Minnesota, mà tôi xin ngả mũ, quy định rằng khi một người họ hàng đảm nhận việc thường xuyên quan tâm và chăm sóc đứa trẻ nào đó dưới mười bốn tuổi, thì ủy quyền của tòa là không cần thiết. Câu hỏi là: nếu cha dượng của cục cưng tuổi dậy thì đáng yêu đến ngạt thở, một người cha dượng chỉ mới lên chức được một tháng, một ông góa bị loạn thần kinh chức năng đang độ tráng niên và có món tài sản tuy nhỏ nhưng cũng không phụ thuộc vào ai, cùng những lan can châu Âu, một vụ li dị và vài nhà thương điên đằng sau, liệu hắn có được xem như người thân, và như người giám hộ đương nhiên? Và nếu không phải, thì liệu tôi có nên, và có dám, ở mức chấp nhận được, thông báo cho Sở Phúc Lợi nào đó và trình một thỉnh cầu (quý vị trình một thỉnh cầu như thế nào nhỉ?), và sẽ có đại diện của tòa án đi điều tra một gã hiền lành và trơn như trạch là tôi, và Dolores Haze nguy hiểm? Rất nhiều sách về hôn nhân, cưỡng hiếp, nhận con nuôi và tương tự, mà tôi tra cứu với vẻ có lỗi tại các thư viện công cộng của các thành phố lớn và nhỏ, chẳng cho tôi biết gì ngoài chuyện bóng gió mơ hồ rằng chính quyền là nhà bảo trợ tối cao của những đứa trẻ nhỏ tuổi. Pilvin và Zapel, nếu tôi nhớ đúng tên của họ, trong một tập sách đáng nể về phương diện pháp lý của hôn nhân, hoàn toàn lờ đi những người cha dượng với những cô bé thiếu mẹ trên bàn tay và đầu gối của họ. Bạn tốt nhất của tôi, một chuyên khảo về công tác xã hội (Chicago, 1936), được đào bới ra cho tôi với những nỗ lực to lớn từ nơi sâu kín trong cái kho bụi bặm bởi bà cô già ngây thơ, nói rằng “Không có nguyên tắc nào quy định mỗi em bé phải có một người giám hộ; tòa án giữ vai trò thụ động và chỉ nhập cuộc khi hoàn cảnh của đứa trẻ trở nên rõ ràng là nguy hiểm.” Người giám hộ, tôi kết luận, chỉ được chọn khi anh ta bày tỏ được nguyện vọng nghiêm trang và long trọng của mình; nhưng nhiều tháng có thể trôi qua trước khi anh ta nhận được giấy gọi ra trình diện tại phiên điều trần và mọc đôi cánh xám của mình, và trong lúc ấy, về phương diện pháp lý thì đứa bé quỷ quái xinh đẹp bị để mặc cho tự bươn chải như, xét cho cùng, là trường hợp của Dolores Haze. Rồi đến phiên điều trần. Một vài câu hỏi từ quan tòa, một vài câu trả lời làm yên lòng từ luật sư, một nụ cười, một cái gật đầu, một cơn mưa phùn lất phất bên ngoài, và sự bổ nhiệm đã xong. Và tôi vẫn không dám. Tránh xa, làm chú chuột, cuộn tròn trong cái hang của mình. Phiên tòa chỉ trở nên sôi động khi dính dáng đến câu hỏi nào đó liên quan đến tiền bạc: hai người giám hộ tham lam, một đứa trẻ mồ côi bị cướp, và bên thứ ba, còn tham lam hơn gấp bội. Nhưng ở đây thì mọi chuyện hoàn toàn ổn thỏa, bản kiểm kê đã được thực hiện, và món tài sản nhỏ của mẹ nàng còn nguyên vẹn chờ Dolores Haze lớn lên. Cách giải quyết khôn ngoan nhất dường như là cứ cố kiềm chế khỏi mọi đơn từ. Hoặc sẽ có vài kẻ rách việc nào đó, hội nhân đạo nào đó, nhúng mũi vào nếu như tôi giữ im lặng quá mức?
Anh bạn Farlow, một luật sư hạng bét và lẽ ra có thể cho tôi lời tư vấn nào đó đáng tin cậy, thì đang quá đỗi bận rộn với căn bệnh ung thư của Jean để làm được bất cứ điều gì nhiều hơn cái mà anh đã hứa – ấy là, trông nom di sản xoàng xĩnh của Charlotte trong lúc tôi bình phục rất từ từ khỏi cú sốc vì cái chết của thị. Tôi đã khiến cho anh ta tin rằng Dolores là đứa con hoang của tôi, và vì thế không thể trông mong anh ta quan tâm lo lắng đến cảnh ngộ. Tôi là, như đến giờ này độc giả có thể đoán ra, một doanh nhân kém cỏi; nhưng đáng lẽ ra thì không có sự thiếu hiểu biết và cũng không có sự lười biếng nào ngăn cản được tôi khỏi cuộc tìm kiếm lời tư vấn chuyên nghiệp ở nơi khác. Cái đã chặn tôi lại là cảm giác kinh khủng rằng nếu như tôi can thiệp vào định mệnh theo bất cứ phương cách nào và cố gắng biện giải để thấu hiểu món quà phi thường của nàng, thì món quà ấy sẽ bị cướp đi y như tòa lâu đài trên đỉnh núi trong Truyện Cổ Phương Đông vẫn biến mất mỗi khi chủ nhân tương lai hỏi người canh giữ nó xem tại sao mà dải hoàng hôn cuối trời lại có thể nhìn thấy rõ từ xa giữa đá đen và nền móng.
Tôi quyết định là tại Beardsley (nơi có Trường Đại Học Nữ Giới Beardsley) tôi sẽ tiếp cận những tài liệu tham khảo mà tôi vẫn còn chưa thể nghiên cứu, ví dụ như Luận Văn của Woerner “Luật Mỹ Về Trách Nhiệm Giám Hộ” và các Ấn Phẩm nào đó của Cục Trẻ Em Liên Bang. Ngoài ra, tôi quyết định rằng bất cứ chuyện gì chăng nữa thì cũng sẽ tốt cho Lo hơn là tình trạng ăn không ngồi rồi suy đồi mà trong đó nàng đang sống. Tôi có thể thuyết phục nàng làm rất nhiều thứ – danh mục về chúng có lẽ làm nhà sư phạm chuyên nghiệp phải đờ đẫn hết cả người; nhưng dù tôi có nài nỉ hay mắng mỏ thế nào chăng nữa, tôi cùng không bao giờ có thể bắt nàng đọc bất cứ cuốn sách nào khác ngoài những cuốn được gọi là truyện tranh hoặc những truyện ngắn trong tạp chí dành cho phụ nữ Mỹ. Bất cứ tác phẩm văn học nào cao cấp hơn một chút đều làm nàng thấy thoang thoảng mùi trường học, và mặc dù về mặt lý thuyết cũng muốn thưởng thức Cô Gái ở thành phố Limberlost hoặc Nghìn Lẻ Một Đêm, hoặc Những Phụ Nữ Nhỏ Nhắn, nàng hoàn toàn chắc chắn là nàng sẽ không lãng phí thời gian “kỳ nghỉ” của mình vào những thứ sách vở hàn lâm kinh viện như thế.
Bây giờ thì tôi nghĩ rằng mình đã phạm sai lầm lớn khi quay về miền Đông và bắt nàng đi học trường tư ở Beardsley, thay vì chuồn qua biên giới Mexico bằng cách nào đó lúc còn có thể chuồn được để lẩn lút vài ba năm trong cõi cực lạc miền cận nhiệt đới cho đến khi tôi có thể đàng hoàng cưới con bé Creole[8] của mình vì tôi phải thú nhận rằng tùy thuộc vào trạng thái của các tuyến và hạch của tôi, tôi có thể chuyển hướng trong cùng một ngày từ cực điên khùng này qua cực điên khùng khác – từ ý nghĩ là vào khoảng năm 1950 tôi có lẽ phải thoát thân bằng cách này cách khác khỏi một cô gái trẻ khó tính, mà chất nymphet ma thuật đã bay hơi – đến ý nghĩ rằng với sự nhẫn nại và vận may thì tôi có lẽ sẽ làm cho nàng cuối cùng sẽ sản sinh ra một nymphet có dòng máu của tôi trong huyết quản thanh tú của con bé, một Lolita Đệ Nhị, sẽ lên tám hoặc chín tuối khoảng năm 1960, khi tôi sẽ vẫn còn dans la force de l’âge[9]; quả thực, thuật sử dụng kính viễn vọng của trí tuệ tôi, hoặc của sự mất trí của tôi, đủ mạnh để phân biệt được từ trong sự xa cách của thời gian vieillard encore vert[10] – hoặc là sự mục rữa xanh tươi? – Tiến sỹ Humbert kỳ quái, dịu dàng, chảy dãi, luyện tập nghệ thuật làm ông trên Lolita Đệ Tam vô cùng đáng yêu.
Vào những ngày lãng du hoang dại ấy của chúng tôi, tôi không chút nghi ngờ rằng trong tư cách người cha của Lolita Đệ Nhất thì tôi là kẻ thất bại nực cười. Tôi đã làm hết sức mình; tôi đọc đi đọc lại cuốn sách với cái nhan đề vô tình đậm chất Kinh Thánh là Hiểu Về Con Gái Bạn, mà tôi kiếm được ở cùng cửa hàng nơi tôi đã mua cho Lo, nhân dịp sinh nhật thứ mười ba của nàng, một cuốn sách sang trọng với những minh họa “tuyệt đẹp” về phương diện thương mại, cuốn Nàng Tiên Cá của Andersen. Nhưng thậm chí vào những thời khắc tuyệt diệu nhất của chúng tôi, khi chúng tôi ngồi đọc sách trong ngày mưa (ánh mắt Lo bay nhảy từ cửa sổ đến chiếc đồng hồ đeo tay và ngược lại), hoặc ăn một bữa đơn giản và no nê ở quán bình dân chật ních người, hoặc chơi trò đánh bài trẻ con nào đó, hoặc đi mua sắm, hoặc lặng lẽ ngắm nhìn, cùng những người đi ô tô khác và con cái họ, vào chiếc xe nào đó vỡ nát, vấy máu, với một chiếc giày phụ nữ trong rãnh nước. (Lo nói, lúc chúng tôi lái đi: “Đó chính xác là kiểu giày mô ca mà em cố gắng miêu tả cho con bán hàng dở hơi ấy”); vào mọi dịp ngẫu nhiên đó, tôi dường như thấy mình là người cha cũng đáng ngờ y như nàng trong vai trò cô con gái. Phải chăng, chuyến du hành tội lỗi nay đây mai đó đã góp phần làm hỏng năng lực nhập vai của chúng tôi? Liệu có sự cải thiện nào sẽ đến cùng nơi định cư và thời nữ sinh đơn điệu?
Để lựa chọn Beardsley, tôi được dẫn lối không chỉ bởi thực tế là ở nơi đó có trường nữ sinh tương đối tử tế đường hoàng, mà còn bởi sự hiện diện của trường đại học dành cho phụ nữ. Trong mong muốn được casé[11] của tôi, được dán mình bằng cách này hay cách khác lên bề mặt hoa văn nào đó mà những đường sọc của tôi có thể hòa lẫn vào, tôi nghĩ về một người mà tôi có quen biết ở khoa tiếng Pháp của Đại Học Beardsley; ông ta đã hạ cố sử dụng sách giáo khoa của tôi trong những lớp học của ông và có lần đã cố gắng mời tôi đến giảng bài. Tôi không có ý định làm thế, bởi lẽ, như tôi đã có lần nhận xét trong diễn biến của những lời thú nhận này, có rất ít diện mạo mà tôi ghê tởm hơn là mông xệ nặng, bắp chân to và da mặt xấu xí của một nữ sinh đại học điển hình (mà ở họ tôi nhìn thấy, có lẽ, cái quan tài bằng thịt đàn bà thô kệch mà các nymphets của tôi bị chôn sống bên trong); nhưng tôi thèm một danh hiệu, một cái nền, một hình ảnh, và, cũng chẳng mấy chốc nữa sẽ trở nên rõ ràng, có một lý do, một lý do khá kỳ cục, tại sao mà việc bầu bạn với ông già Gaston Godin lại có thể thành ra đặc biệt an toàn.
Cuối cùng, là vấn đề tiền bạc. Thu nhập của tôi rạn nứt dưới sức căng từ cuộc rong chơi bằng xe hơi của chúng tôi. Đúng là tôi có bấu víu vào những motel rẻ tiền; nhưng lúc này lúc khác, cũng có một khách sạn sang trọng ồn ào, hoặc một trang trại dã ngoại kiểu cách, xẻo bớt ngân sách của chúng tôi; vả lại, nhiều khoản tiền choáng váng đã chi vào việc tham quan và quần áo của Lo, và chiếc ô tô cũ kỹ của bà Haze, mặc dù vẫn còn là cỗ máy mạnh mẽ và rất tận tâm, cũng cần đến nhiều lần sửa chữa lớn nhỏ. Trên một trong những tờ bản đồ hành trình tình cờ còn sót lại giữa đống giấy tờ mà nhà chức trách đã rất tử tế cho phép tôi sử dụng vì mục đích viết lời khai của tôi, tôi tìm được vài đoạn ngắn ghi nhanh đã giúp tôi tính toán những thứ sau đây. Trong cái năm 1947-1948 ngông cuồng ấy, từ tháng Tám đến tháng Tám, tiền thuê phòng và ăn uống tốn gần 5.500 đô la; xăng, dầu và sửa chữa, 1.234, và khoảng chừng đó cho những món phải trả thêm khác; vậy là trong khoảng 150 ngày thật sự di chuyển (chúng tôi đi được khoảng 27.000 dặm!) cộng với chừng 200 ngày nghỉ giữa chặng, kẻ khiêm nhường sống bằng lợi tức này đã chi gần 8.000 đô la, hoặc nói đúng hơn là 10.000 vì, vốn dĩ không thực tế, tôi chắc chắn đã bỏ quên khá nhiều khoản.
Và thế là chúng tôi lăn bánh về phương Đông, tôi thấy lòng tan nát hơn là phấn chấn với việc thỏa mãn được niềm đam mê của mình, còn nàng hồng hào khỏe mạnh, tràng hoa giữa hai mỏm xương chậu của nàng vẫn còn gọn như của bé trai, mặc dù nàng đã cao thêm hai inch và nặng thêm tám pound. Chúng tôi đến khắp mọi nơi. Chúng tôi thực sự chẳng thấy được gì. Và hôm nay, tôi chợt thấy mình đang nghĩ là chuyến lãng du dài của chúng tôi chỉ quệt vệt nhớt ngoằn ngoèo làm ô uế đất nước đáng yêu, cả tin, mộng mơ, rộng lớn mà hồi đó. nhìn lại, với chúng tôi không hơn một bộ sưu tập bản đồ quăn mép, những cuốn sách hướng dẫn du lịch nát tươm, những lốp xe cũ mòn, và những tiếng thổn thức của nàng trong đêm – từng đêm, từng đêm – ngay lúc tôi giả vờ ngủ.
[1]. Cuộc thi không có đối thủ.
[2]. Arcadia: Vùng thôn dã bình dị ở Hy Lạp.
[3]. Túp lều.
[4]. Tôi đang nói gì nhỉ.
[5]. Loại xe hơi thân kéo dài, không có cốp sau, thay vào đó là ghế phụ có thể gập lại để làm chỗ cất hành lý.
[6]. Một quý ông đích thực.
[7]. Nguyên bản: Orchideous. Ghép từ Orchis (một loại hoa phong lan, trong tiếng Hy Lạp cổ còn có nghĩa là “tinh hoàn”) và hideous (gớm guốc).
[8]. Creole: Người gốc Pháp, sống ở vùng miền Nam nước Mỹ.
[9]. Đang độ tráng niên.
[10]. Một ông già vẫn còn xanh tươi.
[11]. Ổn định cuộc sống.