Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Lolita

Chương 58

Tác giả: Vladimir Nabokov

Ả gấp đôi tuổi Lolita và bằng ba phần tư tuổi tôi: một phụ nữ trưởng thành, rất gầy, tóc đen, da nhợt nhạt, nặng một trăm lẻ năm pound, có đôi mắt bất đối xứng một cách hấp dẫn, gương mặt nhìn nghiêng đầy góc cạnh như được vẽ phác rất nhanh, và đường ensellure[1] vô cùng quyến rũ theo tấm lưng mềm mại — tôi cho là ả mang chút dòng máu Tây Ban Nha hoặc Babylon. Tôi nhặt được ả vào một chiều tháng Năm ăn chơi sa đọa ở đâu đó giữa Montreal và New York, hoặc thu hẹp hơn nữa, giữa Toylestown và Blake, tại một quán bar bừng bừng mờ ảo dưới bảng hiệu Bướm Hổ, nơi ả đang duyên dáng say mềm: ả khăng khăng là chúng tôi đã từng đi học cùng nhau, và ả đặt bàn tay nhỏ nhắn run rẩy của ả vào bàn tay đười ươi của tôi. Mặc dù lòng tôi chỉ hơi hơi xao xuyến, nhưng tôi vẫn quyết định cho ả một cơ hội; tôi đã làm vậy — và chấp nhận cặp luôn với ả. Ả vô cùng tử tế, Rita ấy, vô cùng dễ thương và tốt bụng, đến nỗi tôi dám nói ả có thể hiến thân cho bất cứ tạo vật đáng thương được nhân cách hóa nào, cái cây già đã gẫy hay con nhím góa bụa, chỉ vì lòng trắc ẩn và tình thương tột bậc.

Khi tôi gặp ả lần đầu tiên, ả vừa mới li dị người chồng thứ ba được ít lâu — và ít lâu hơn chút nữa thì bị người tình tận tụy thứ bẩy bỏ rơi — những gã khác, thay như thay áo, thì quá đông và quá lẹ để có thể nhét được vào bảng kê. Anh trai ả đã là — và chắc chắn vẫn còn là — một chính khách xuất chúng, khuôn mặt xanh xao, mang dây đeo quần và cà vạt vẽ tay, thị trưởng và người nâng đỡ cho thị trấn quê hương, nơi được biết đến nhờ các cầu thủ bóng chày, những người đọc Kinh Thánh, và việc buôn bán ngũ cốc. Trong tám năm vừa qua, ông ta đã trả cho cô em gái tuyệt vời của mình vài trăm đô la mỗi tháng dưới điều kiện nghiêm ngặt là cô ả không bao giờ, tuyệt đối không bao giờ được bước chân vào thị trấn Grainball nhỏ bé và tuyệt vời của ông. Ả kể cho tôi nghe, với những tiếng than vãn đầy ngạc nhiên, rằng chả hiểu vì lý do chết tiệt nào mà việc đầu tiên mọi gã bạn trai mới của ả làm đều là đưa ả đến khu vực Grainball: nó hấp dẫn đến chết người; và trước khi ả kịp biết đâu vào với đâu, ả đã thấy mình bị hút vào quỹ đạo mặt trăng của thị trấn, và sẽ trôi theo cung đường vành đai ngập ánh đèn pha — “quay mòng mòng,” theo cách ả diễn đạt, “hệt như con bướm tằm chết tiệt nào đó.”

Ả có chiếc xe hai cửa đỏm đáng nhỏ xinh; và chúng tôi đã dùng nó du hành đến California đặng cho chiếc xe đáng kính của tôi được nghỉ ngơi. Tốc độ tự nhiên của ả là chín mươi dặm một giờ. Rita thân yêu! Chúng tôi rong ruổi cùng nhau trong hai năm mờ mịt, từ mùa hè 1950 đến mùa hè 1952, và ả đã là nàng Rita ngọt ngào nhất, giản dị nhất, dịu dàng nhất, ngu ngốc nhất có thể hình dung được. So với ả, thì Valechak là Schlegel, còn Charlotte là Hegel. Chẳng có lý do nào trên đời khiến tôi phải lần lữa với ả bên lề cuốn hồi ký bi thảm này, nhưng xin cho phép tôi nói (chào em, Rita — dù em đang ở đâu, say khướt hay ngầy ngật, Rita, chào em!) rằng ả là bạn đường dễ chịu nhất, thấu hiểu nhất mà tôi từng có, và chắc chắn là đã cứu tôi khỏi nhà thương điên. Tôi bảo ả là tôi đang cố gắng lần theo dấu một cô gái và cho thằng ma cô của cô gái ấy ăn kẹo đồng. Rita long trọng phê chuẩn kế hoạch này — và trong tiến trình điều tra nào đó mà ả đã tự ý thực hiện (dù thật sự chẳng hiểu gì mấy), quanh San Humbertino, thì chính ả đã loằng ngoằng với một kẻ lừa đảo khá là dễ sợ; và tôi mất một thời gian rất khó khăn mới giải cứu được ả — cũ mèm và sứt mẻ nhưng vẫn còn vênh váo ra phết. Một ngày nọ ả đề nghị chơi trò Ru-Lét Nga bằng khẩu súng tự động thiêng liêng của tôi; tôi nói không được, nó không phải khẩu súng ngắn ổ quay, và chúng tôi vật lộn giành nó, cho đến lúc rốt cuộc nó cướp cò, khui một tia nước nóng rất mảnh và rất tức cười phọt ra từ cái lỗ thủng nó tạo nên trên bức tường căn phòng trong dã thự; tôi vẫn còn nhớ tiếng ả cười inh tai nhức óc.

Đường cong tiền dậy thì non tơ đến kỳ quặc ở lưng ả, làn da gạo, những nụ hôn bồ câu chậm rãi uể oải của ả giữ tôi tránh khỏi tai họa. Không phải các năng khiếu nghệ thuật là những đặc điểm giới tính thứ yếu như vài kẻ giả mạo và các pháp sư nào đó đã nói; mà ngược lại: giới tính chỉ là tỳ nữ của nghệ thuật. Tôi phải nhắc đến một cuộc truy hoan trác táng khá bí ẩn đã để lại những hậu quả thú vị. Tôi đã từ bỏ cuộc tìm kiếm: con quỷ hoặc đang ở Tartary hoặc đã cháy rụi trong tiểu não tôi (những ngọn lửa được thổi bùng bởi sức tưởng tượng và nỗi buồn đau của tôi) nhưng dĩ nhiên là không liên quan đến chuyện nàng Dolores Haze vô địch giải tennis tại Bờ Biển Thái Bình Dương. Một chiều nọ, trên đường quay về phía Đông, trong một khách sạn gớm guốc, loại khách sạn nơi người ta tổ chức hội nghị và nơi những gã đàn ông đeo bảng tên, to béo, hồng hào bước loạng choạng chung quanh, tất cả đều gọi nhau bằng tên riêng, bàn chuyện làm ăn và rượu chè túy lúy — Rita thân yêu và tôi tỉnh giấc và thấy kẻ thứ ba trong phòng mình, một anh chàng trẻ tuổi tóc vàng, gần như bạch tạng, có hàng mi mắt trắng tinh và đôi tai to trong suốt, kẻ mà cả Rita và tôi đều không thể nhớ được là đã từng gặp trong những cuộc đời buồn tẻ của chúng tôi. Người đẫm mồ hôi, mặc bộ đồ lót bẩn dày cộp, đi đôi bốt quân đội cũ kỹ, gã nằm ngáy khò khò trên chiếc giường đôi, phía bên kia nàng Rita tiết hạnh của tôi. Một chiếc răng cửa của gã đâu mất tiêu, những nốt mụn trứng cá màu hổ phách mọc trên trán gã. Ritochka bọc sự lõa lồ uốn lượn của ả vào trong chiếc áo mưa của tôi — vật đầu tiên ả vớ được; còn tôi xỏ vội xỏ vàng cái quần đùi kẻ sọc nhiều màu; và chúng tôi đánh giá lại tình hình. Năm chiếc ly đã được sử dụng, về mặt manh mối thì chỉ rối thêm. Cánh cửa ra vào đóng không chặt. Chiếc áo len dài tay và chiếc quần dài màu nâu vàng không ra hình thù gì nằm trên sàn. Chúng tôi lắc chủ nhân của chúng cho đến khi gã bực bội tỉnh giấc. Hóa ra gã là kẻ hoàn toàn mất trí nhớ. Với chất giọng mà Rita nhận ra là thuần Brooklyn, gã cáu kỉnh nói bóng gió rằng bằng cách nào đó không rõ chúng tôi đã xoáy mất nhân thân (vô giá trị) của gã. Chúng tôi vội vã mặc quần áo cho gã và bỏ mặc gã lại tại bệnh viện gần nhất, và nhận ra trên đường đi là, bằng cách này hay cách khác, sau những khúc cua và lượn vòng đã lãng quên, chúng tôi đang ở Grainball. Nửa năm sau, Rita viết thư cho bác sỹ để hỏi thăm tin tức. Jack Humbertson, cái tên vô vị mà người ta gán cho gã, vẫn bị cách ly với quá khứ riêng tư của gã. Ôi Mnemosyne[2], ngọt ngào nhất và tinh quái nhất trong số các nàng thơ!

Có lẽ tôi sẽ không nhắc đến tình tiết này nếu như nó không khởi đầu chuỗi ý tưởng mà kết quả là tôi đã đăng trên tạp chí Cantrip Review một tiểu luận về “Mimir và Ký ức,” trong đó tôi đề xuất, giữa những thứ khác vốn dĩ có vẻ độc đáo và quan trọng với những độc giả rộng lượng của tờ tạp chí tuyệt vời này, một lý thuyết về thởi gian cảm quan dựa trên sự tuần hoàn máu và phụ thuộc về mặt nhận thức (để tóm gọn vấn đề này lại) vào việc trí óc có thể biết rõ không những chỉ về thế giới vật chất mà còn về chính bản chất của nó, tới mức độ thiết lập được mối quan hệ hỗ tương thường xuyên giữa hai điểm (tương lai có thể lưu giữ được và quá khứ đã được lưu giữ). Kết quả của bài báo liều lĩnh này — và trên đỉnh ấn tượng được tạo ra bởi travaux[3] trước đây của tôi — là tôi đã được mời từ New York, nơi Rita và tôi đang sống trong một căn hộ nhỏ có thể nhìn thấy những đứa trẻ bóng loáng đang tắm mưa xa xa dưới kia tại đài phun nước giữa những lùm cây ở Công Viên Trung Tâm, về Đại Học Cantrip, cách xa bốn trăm dặm, trong một năm. Tôi trọ ở đó, tại những căn hộ đặc biệt dành riêng cho các thi sĩ và triết gia, từ tháng Chín năm 1951 đến tháng Sáu 1952, trong khi Rita, người mà tôi không muốn cho xuất hiện, sống vất vưởng — tôi e là không được đàng hoàng cho lắm — ở một khách sạn nhỏ ven đường, nơi tôi đến thăm ả mỗi tuần hai lần. Sau đó ả lặn đâu mất tiêu — cư xử có tình người hơn các bậc tiền bối của ả: một tháng sau, tôi tìm thấy ả trong nhà tù địa phương. Ả tỏ ra trés digne[4], đã mổ ruột thừa, và tìm cách thuyết phục tôi rằng chiếc áo lông xanh nhạt tuyệt đẹp mà ả bị buộc tội ăn cắp của Bà Roland MacCrum là món quà tặng tự nguyện, nếu như không phải có phần do chếnh choáng hơi men, từ chính Ông Roland. Tôi đưa được ả ra khỏi đó mà không cần nhờ vả đến ông anh bẳn tính của ả, và ngay sau đó chúng tôi lái xe về Phía Tây Công Viên Trung Tâm, bằng con đường qua Briceland, nơi chúng tôi đã dừng chân vài giờ hồi năm ngoái.

Một thôi thúc lạ lùng xâm chiếm tôi: nhớ lại những gì đã trải qua hồi nghỉ ở đó với Lolita. Tôi đang bước vào giai đoạn tồn tại nơi tôi từ bỏ mọi hy vọng lần theo dấu vết nàng và kẻ bắt cóc nàng. Giờ đây tôi cố gắng bấu víu vào những bối cảnh cũ để cứu vãn những gì còn có thể cứu được theo những souvenir, souvenir que me veux-tu?[5] Mùa thu đang ngân nga trong không trung. Liên quan đến tấm bưu thiếp yêu cầu phòng có hai giường sóng đôi, Giáo Sư Hamburg nhận được ngay câu trả lời tỏ ý rất tiếc. Họ đã kín hết phòng. Họ có một phòng dưới tầng hầm, không có buồng tắm và có bốn giường ngủ, mà họ nghĩ rằng tôi sẽ không ưng. Lá thư của họ có dòng tiêu đề như sau:

NHỮNG THỢ SĂN BỊ BỎ BÙA

GẦN NHÀ THỜ — KHÔNG NHẬN CHÓ

Có tất cả các món đồ uống hợp pháp

Tôi tự hỏi không biết tuyên bố cuối cùng có đúng hay không? Tất cả ư? Liệu họ có, giả dụ, món xi rô lựu vỉa hè không nhỉ[6]? Tôi cũng tự hỏi không biết là gã thợ săn, đang bị bỏ bùa hoặc trong tình trạng nào đó khác, sẽ cần đến con chó săn chỉ điểm hơn một chỗ ngồi trong nhà thờ hay không, và với cơn đau thắt, tôi nhớ lại cái cảnh tượng xứng đáng với một họa sỹ vĩ đại: petite nymphe accroupie[7]; nhưng con cocker spaniel mượt như tơ ấy có lẽ đã từng được rửa tội. Không — tôi cảm thấy mình không thể nào chịu đựng được những cơn đau dữ dội từ việc thăm lại cái tiền sảnh ấy. Có cách tốt hơn nhiều để tái hiện dĩ vãng tại nơi khác trong thị trấn Briceland yên ả, phong phú màu sắc, đang mùa thu. Để Rita lại một quán bar, tôi đi về hướng thư viện thị trấn. Một chị gái già líu ra líu ríu vô cùng sốt sắng giúp tôi khai quật lại thời giữa tháng Tám năm 1947 từ những tờ Briceland Gazette đóng bìa cứng và ngay sau đó, trong một góc vắng người qua lại, dưới ngọn đèn trần trụi, tôi lần giở những trang giấy khổng lồ và mỏng manh của tập báo đen như quan tài và to gần bằng Lolita.

Thưa độc giả! thưa Bruder[8]! Gã Hamburg ấy là một Hamburg ngu ngốc làm sao! Từ khi cơ thể quá nhạy cảm của gã không muốn đối mặt với cảnh thật, gã cho là ít nhất thì gã cũng có thể tận hưởng một phần bí mật của nó — cái phần gợi nhớ đến thằng lính thứ mười hoặc hai mươi trong hàng chờ hãm hiếp, kẻ đã ném cái khăn san màu đen của cô gái lên gương mặt trắng toát của cô để không phải nhìn thấy đôi mắt không thể chịu đựng được ấy vào lúc tìm kiếm lạc thú lính tráng của gã ở ngôi làng buồn bã, đang bị cướp bóc. Cái mà tôi thèm khát kiếm được là tấm hình đã được in ra giấy, tấm hình tình cờ giữ lại hình ảnh chen lấn của tôi khi tay phóng viên ảnh của tờ Gazette đang tập trung vào Tiến sỹ Braddock và nhóm của ông ta. Tôi khát khao hy vọng tìm thấy, trong tình trạng được bảo quản tốt, bức chân dung gã nghệ sỹ như thằng súc sinh ấy. Một chiếc máy ảnh vô tội đã tóm được tôi ngay trên con đường đen tối tôi mò đến giường Lolita — quả là chủ đề hấp dẫn dành cho Mnemosyne! Tôi không thể giải thích rõ ràng về bản chất thật của sự thôi thúc ấy trong tôi. Nó cũng liên quan, theo tôi, đến sự hiếu kỳ ngây ngất đã thúc ép người ta soi kỹ bằng kính lúp những hình nhân ảm đạm nhỏ xíu — gần như tranh tĩnh vật, và tất cả mọi người sắp nôn mửa ra ngay bây giờ — tại vụ hành hình vào lúc tảng sáng, và không thể nào nhận ra được những biểu hiện trên mặt bệnh nhân trong tấm ảnh in. Dù sao thì, tôi cũng hổn hển thở theo đúng nghĩa đen, và một góc cuốn sách bạc phận vẫn không ngừng đâm vào bụng tôi trong lúc tôi lật lướt qua những trang sách… “Quyền Lực Thô Bạo” và “Ám Ảnh” được chiếu vào ngày 24, Chủ Nhật, tại cả hai rạp. Ông Purdom, người điều khiển đấu giá thuốc lá độc lập, nói rằng suốt từ hồi năm 1925, ông ta đã chỉ hút loại thuốc lá “Omen Faustum”. Husky Hank và cô dâu nhỏ nhắn của anh ta sẽ làm khách mời của Ông Bà Reginald G. Gore, nhà số 58, đường Inchkeith Ave. Kích thước vài loại động vật ký sinh nào đó to bằng một phần sáu vật chủ. Thành Dunkerque được gia cố vào thế kỷ thứ mười. Tất cho thiếu nữ, 39 xen. Giày thể thao kiểu Oxford, 3 đô la 98 xen. Vang, vang, vang, lời châm chọc của tác giả “Lứa Tuổi Đen Tối”, kẻ từ chối việc bị chụp ảnh, có thể hợp với một con chim sơn ca Ba Tư, nhưng tôi lúc nào cũng xin hãy cho tôi mưa, mưa, mưa trên mái nhà lợp ván cho hoa hồng và cảm hứng bừng nở. Lúm đồng tiền được tạo ra do da bám dính với lớp mô nằm sâu hơn. Người Hy Lạp đẩy lùi cuộc tấn công du kích rất khốc liệt — và, à, đây rồi, một hình người nhỏ mặc đồ trắng và Tiến sỹ Braddock mặc đồ đen, nhưng dù có cái vai của bóng ma nào đó quét qua dáng người lụng thụng của ông ta — tôi vẫn chẳng thể nhận ra được chút gì thuộc về mình.

Tôi đi tìm Rita, ả vừa giới thiệu tôi cùng nụ cười vin triste[9] với một lão già nhăn nheo bé như cái kẹo đang say xỉn ngạo ngược, vừa nói đây là — nhắc lại xem tên mày là gì vậy, con trai? — bạn học thuở xưa của ả. Lão già cố gắng níu ả lại, và trong trận ẩu đả qua loa diễn ra ngay sau đó, tôi làm ngón tay cái của mình bị thương vì đập vào cái đầu cứng ngắc của lão. Trong công viên yên bình đẹp như tranh, nơi tôi đưa ả đi dạo hóng gió, ả khóc nức nở và nói tôi sẽ sớm, sớm bỏ rơi ả như tất cả những thằng khác đã làm, còn tôi hát cho ả nghe một khúc ballad tiếng Pháp buồn man mác, và xâu chuỗi vài vần thơ bâng quơ để mua vui cho ả.

Nơi ấy mang tên Những Thợ Săn Bị Bỏ Bùa. Vậy mà sao:

Bằng thứ thuốc nhuộm Anh Điêng nào, Diana hỡi, thung lũng của ngươi đã làm

Cho con Hồ đẹp như tranh thành bể máu đào

Soi bóng hàng cây trước khách sạn xanh lam?

Ả nói: “Sao lại xanh lam khi nó trắng cơ mà, sao lại xanh lam, trời ơi là trời?” và lại bắt đầu gào lên, tôi dẫn ả ra xe, và chúng tôi lái về New York, và ả sớm vui vẻ trở lại ở mức tạm chấp nhận được trong màn sương mù tít trên cao tại sân hiên nhỏ của căn hộ chúng tôi. Tôi nhận ra là bằng cách này hay cách khác tôi đã trộn lẫn hai sự kiện, chuyến viếng thăm của tôi với Rita đến Briceland trên đường chúng tôi đi Cantrip, và chuyến đi xuyên qua Briceland lần nữa trên đường chúng tôi quay về New York, nhưng việc trải tung tóe các sắc màu đẫm ướt như vậy vốn không bị coi thường bởi các họa sỹ đang hoài tưởng.

[1]. Tiếng Pháp. Eo.

[2]. Trong thần thoại Hy Lạp, Mnemosyne là nữ thần ký ức,

con gái của Uranus và Gaea, và có chín người con với Zeus.

[3]. Tiếng Pháp. Những công trình.

[4]. Tiếng Pháp. Rất đường hoàng.

[5]. Tiếng Pháp. Kỷ niệm, kỷ niệm ơi, ngươi muốn gì ở ta?

[6]. Bản tiếng Nga: món xi rô lựu vẫn được bán ở các quán vỉa hè tại Châu Âu.

[7]. Tiếng Pháp. Nymphet đang thu mình.

[8]. Tiếng Đức. Người anh em.

[9]. Tiếng Pháp. Say và buồn bã.

Bình luận