Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Lolita

Chương 59

Tác giả: Vladimir Nabokov

Hòm thư của tôi, ở tiền sảnh ngôi nhà, thuộc loại cho phép người ta loáng thoáng thấy chút gì đó thuộc những thứ đựng trong nó qua một khe kính. Đã vài lần, trò tinh nghịch của ánh sáng lóng lánh muôn màu rơi qua kính lên nét chữ viết tay xa lạ nào đó đã vặn vẹo nó thành giống hệt như nét chữ Lolita và làm cho tôi suýt nữa thì ngã quỵ xuống, đến nỗi tôi phải dựa người vào cái hũ ngay đấy, suýt nữa thì thành ra hũ đựng hài cốt của chính tôi. Mỗi khi chuyện ấy xảy ra — mỗi khi nét chữ trẻ con nguệch ngoạc, đáng yêu, uốn éo nhiều móc của nàng biến đổi một cách khủng khiếp thành tự dạng chán ngắt thuộc một trong vài người thường xuyên trao đổi thư từ với tôi — tôi lại hồi tưởng, với sự thích thú đau đớn, những lần trong quá khứ cả tin thời kỳ tiền-dolores của mình, khi tôi từng bị đánh lừa bởi một cửa sổ sáng chói ánh châu ngọc phía đối diện, nơi mà con mắt đang ẩn nấp của tôi, chiếc kính tiềm vọng luôn luôn cảnh giác thuộc sự đồi bại đáng hổ thẹn của tôi, lại phát hiện ra từ xa một nymphet bán khỏa thân bất động trong cứ chỉ chải mái tóc Alice-Ở-Xứ-Sở-Thần-Tiên của mình. Trong ảo ảnh bốc lửa này có sự hoàn mỹ làm cho khoái cảm cuồng dại của tôi cũng trở nên hoàn hảo, đơn thuần vì ảo cảnh ấy không thể với đến được, và cũng không có khả năng đoạt được để phá hỏng nó bằng nhận thức về một cấm kỵ có tính chất ràng buộc; quả thật, có thể cũng may mắn là chính cái non nớt đầy cuốn hút ấy đã không lừa dối tôi bằng sự trong trẻo thuộc nhan sắc thiên thần, trẻ thơ, cấm kị, thuần khiết, non tơ ấy nhiều bằng sự an toàn của tình huống nơi vẻ tuyệt mỹ vô biên đã lấp kín chỗ trống giữa việc cho đi chẳng bao nhiêu và hứa thì thật nhiều — màu ghi hồng tuyệt diệu không-bao-giờ-có-thật. Mes fenětres[1]! Chơi vơi trên ánh hoàng hôn lổ đổ và màn đêm đang loang rộng, tôi vừa nghiến răng ken két, vừa dồn ép tất cả lũ quỷ dục vọng của tôi vào hàng lan can của cái ban công đang rung bần bật: nó sắp bung vào màn đêm ẩm ướt mịt mùng màu mơ chín; nó bung rồi — ngay sau đó hình ảnh sáng ngời ấy chuyển động và nàng Eve lại hoàn nguyên thành dẻ xương sườn, và sẽ chẳng còn gì bên cửa sổ ngoài gã đàn ông béo ị bán khỏa thân đang đọc báo.

Vì đôi lúc tôi cũng thắng được cuộc đua giữa tưởng tượng của mình và hiện thực tự nhiên, cho nên trò lường gạt ấy vẫn còn có thể chịu đựng được. Nỗi đau không thể chịu đựng được chỉ bắt đầu khi duyên số vào cuộc và tước khỏi tôi nụ cười đã dành sẵn cho tôi. “Savez-vous qu’à dix ans ma petite était folle de vous?”[2] một người đàn bà mà tôi có dịp chuyện trò tại tiệc trà ở Paris đã nói như vậy, cô bé ấy vừa mới đi lấy chồng, cách xa vài dặm, còn tôi thậm chí không thể nhớ nổi là mình có bao giờ để ý thấy bé ở vườn cây đó hay không, cái vườn cây nằm ngay bên cạnh những sân chơi tennis ấy, nhiều năm trước đây. Và đến giờ cũng thế, cả cái nhìn trước qua khe kính rực sáng, cả hứa hẹn ở thực tại, một hứa hẹn không chỉ được ngụy tạo một cách cám dỗ mà còn được thực hiện một cách cao thượng — tất cả những điều này, duyên số đều từ chối tôi — duyên số và việc đổi qua nét chữ nhỏ hơn từ phía người viết xanh xao yêu dấu ấy. Tưởng tượng của tôi vừa bị ảnh hưởng từ Proust lại vừa mang phong cách thuộc Procrustes; vì vào buổi sáng đặc biệt ấy, cuối tháng chín[3] năm 1952, lúc tôi đi xuống dưới nhà để mò thư của mình, thì tay gác cổng bảnh bao và bẳn tính, mà tôi với hắn đang có mối quan hệ tồi tệ, bắt đầu phàn nàn rằng gã bạn nhậu đưa Rita về nhà mới đây đã bị “nôn như chó” trên bậc thềm trước nhà. Trong lúc đang lắng nghe hắn và típ cho hắn, và sau đó lại bị nghe dị bản khác được biên tập cho tao nhã hơn về sự việc, tôi có cảm tưởng rằng một trong hai lá thư mà chuyến thư may mắn ấy mang đến là từ mẹ của Rita, một phụ nữ nhỏ bé điên khùng, người mà chúng tôi có lần ghé thăm ở Cape Cod và vẫn viết thư cho tôi, gửi đến những địa chỉ khác nhau của tôi, nói là con gái bà và tôi đẹp đôi làm sao, và nếu chúng tôi cưới nhau thì tuyệt vời làm sao; là thư khác mà tôi mở ra và đọc lướt qua rất nhanh trong thang máy là của John Farlow.

Tôi hay để ý thấy là chúng ta có khuynh hướng phú cho bạn bè mình sự ổn định theo kiểu mà các nhân vật văn chương giành được trong tâm trí độc giả. Chẳng quan trọng việc chúng ta mở lại “Vua Lia” bao nhiêu lần chăng nữa, thì chúng ta sẽ vẫn không bao giờ bắt gặp vị vua tốt bụng ấy đang nện rầm rầm cái cốc vại trong tiệc rượu xa hoa, mọi phiền muộn đều bị lãng quên, tại buổi sum họp vui vẻ với tất cả ba cô con gái cùng những con chó cảnh của họ. Emma sẽ không bao giờ bình phục, hồi sinh bởi chất muối mặn đầy cảm thông trong giọt nước mắt đúng thời điểm của người cha của Flaubert. Bất kể sự phát triển mà nhân vật nổi tiếng này nọ đã trải qua giữa những bìa sách, số phận anh ta đã định hình trong tâm trí chúng ta, và, tương tự như vậy, chúng ta trông đợi bạn bè mình sẽ bám theo khuôn mẫu logic và phổ biến này nọ mà ta đã ấn định cho họ. Do đó X sẽ không bao giờ soạn được tac phẩm âm nhạc bất tử nào mà lại trái ngược hoàn toàn với các bản giao hưởng hạng hai mà ông ta đã làm chúng ta thấy quen thuộc. Y sẽ không bao giờ phạm tội giết người. Dù ở hoàn cảnh nào chăng nữa, Z cũng không bao giờ có thể phản bội chúng ta. Chúng ta đã sắp đặt sẵn tất cả mọi thứ trong tâm trí mình, và chúng ta càng ít thường xuyên gặp mặt nhân vật cụ thể nào đó thì càng thỏa mãn hơn với việc kiểm tra xem hắn ngoan ngoãn phục tùng đến mức nào với ý niệm của chúng ta về hắn mỗi lần chúng ta được nghe về hắn. Bất cứ sai lệch nào trong những số phận mà chúng ta đã ấn định đều làm chúng ta cảm thấy như thể nó không chỉ dị thường mà còn trái với luân thường đạo lý. Chúng ta sẽ thích chưa biết chút gì về ông hàng xóm của chúng ta, một người bán hàng ở quầy bánh mỳ kẹp xúc xích đã về hưu, nếu ông ta hóa ra là vừa mới cho ra mắt tập thơ vĩ đại nhất mà thời đại của ông ta từng chứng kiến.

Tôi nói tất cả những chuyện này cốt để giải thích tại sao tôi lại bối rối trước bức thư cuồng loạn của Farlow. Tôi biết vợ anh đã chết nhưng tôi dĩ nhiên là mong anh vẫn còn, suốt thời gian góa vợ thành kính, là người đàn ông tẻ nhạt, điềm tĩnh và đáng tin như anh luôn luôn là như thế. Giờ thì anh viết rằng sau chuyến tham quan ngắn ngày đến Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, anh đã quay lại Nam Mỹ và quyết định rằng mọi vụ làm ăn mà anh đang quản lý ở Ramsdale sẽ được anh chuyển qua cho tay Jack Windmuller ở thị trấn ấy, một luật sư mà cả hai chúng tôi đều quen biết. Anh có vẻ đặc biệt nhẹ lòng vì giũ bỏ được “những rắc rối” của nhà Haze. Anh đã cưới một cô gái Tây Ban Nha. Anh đã bỏ thuốc lá và béo lên ba mươi pound. Cô gái kia rất trẻ và là nhà vô địch môn trượt tuyết. Họ sẽ sớm đi tuần trăng mật mây mưa ở Ấn Độ. Do anh “đang xây đắp gia đình” như anh diễn đạt, nên từ nay về sau anh sẽ không có thời gian dành cho những vụ việc của tôi, những vụ việc mà anh gọi là “rất kỳ lạ và rất khó chịu.” Những kẻ rách việc — té ra là họ lập ra nguyên cả một ủy ban — đã thông báo cho anh rằng không ai biết bé Dolly Haze giờ đang ở đâu, và rằng tôi đang sống ở California với một con bỏ chồng khá là tai tiếng. Ông bố vợ anh là một bá tước, và cực kỳ giàu có. Những người thuê nhà bà Haze mấy năm qua giờ đây muốn mua lại nó. Anh khuyên tôi tốt nhất là nên nhanh chóng đưa Dolly ra trình diện. Anh mới tự làm gẫy chân mình. Anh gửi kèm bức ảnh chụp anh và cô gái tóc đen mặc đồ len trắng đang tươi cười rạng rỡ với nhau giữa tuyết Chi Lê.

Tôi nhớ đã tha mình vào căn hộ và bắt đầu nói thành tiếng: thế đấy, ít nhất thì ta bây giờ cũng sẽ theo vết mà bắt được chúng — thì lá thư kia bắt đầu nói với tôi bằng giọng nói nhỏ nhẹ, thực dụng và vô cảm:

Dượng Thân Yêu:

Mọi chuyện thế nào ạ? Con đã lấy chồng rồi. Con sắp có con. Con đoán là nó sẽ bự đấy. Con đoán nó sẽ ra đời đúng vào Ngày Giáng Sinh. Đây là một lá thư thật khó viết. Con sắp bị dở hơi rồi vì bọn con không có đủ tiền để trả nợ và thoát khỏi đây. Dick được người ta hứa cho một công việc tử tế ở Alaska theo đúng chuyên ngành hẹp của anh ấy trong lĩnh vực cơ khí, đó là tất cả những gì con biết về chuyện đó nhưng nó thật sự là rất hoành tráng. Tha lỗi cho con vì chuyện giấu giếm địa chỉ nhà chúng con nhưng dượng có thể vẫn còn giận con, và Dick không nên biết chuyện. Thị trấn này cũng có cái hay. Không thể nhìn thấy bọn khờ vì sương mờ. Vui lòng gửi cho bọn con một tấm séc, dượng nhé. Chúng con có thể xoay xở với ba hoặc bốn trăm đô la hoặc thậm chí ít hơn cũng được, dù ít dù nhiều cũng xin cảm ơn, dượng có thể bán những món đồ cũ của con đi, vì một khi chúng con đã đến được nơi đó thì tiền bắt đầu vào như nước rồi. Làm ơn viết cho con nhé. Con đã trải qua rất nhiều chuyện buồn đau và khổ sở.

Mong tin dượng,

DOLLY (BÀ. RICHARD F. SCHILLER)

[1]. Tiếng Pháp. Cửa sổ của tôi.

[2]. Tiếng Pháp. Ông có biết là đứa con gái bé bỏng của tôi đã yêu ông phát điên khi nó mới được 10 tuổi không?

[3]. Bản tiếng Nga: Ngày 22 tháng chín năm 1952.

Bình luận
× sticky