Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Bụi trần lắng đọng

Chương 7: Đất chuyển

Tác giả: A Lai

Người đàn bà trong lòng ông đã ngủ. Hai bầu vú tròn mịn sáng lên trong bóng tối. Chị ta đúng là một người ngu xuẩn. Nếu không, những ngày này sẽ không xảy ra bấy nhiêu sự việc, chỉ cần người có đầu óc một chút, đêm đêm cũng sẽ không ngủ nổi. Còn chị ta hễ trở mình một cái là chìm sâu vào giấc ngủ. nhịp thở đều đều, cái mùi dã thú trên người chị ta cứ lan toả khắp nơi, trêu chọc lòng người, kích thích sự thèm khát ở người đàn ông.Thổ ti biết mình là một người đàn ông, trận cuồng phong qua đi thì sẽ không còn gì.Tất nhiên, ông nắm lấy thời cơ cuối cùng này. Ông đánh thức người đàn bà dậy, để cùng phiêu lãng giữa ngọn sóng cuồng điên.

Đúng lúc ấy, bà hai ở tầng trên vỗ tay, bà vui mừng reo lên “Cháy rồi! Cháy rồi!”

Thổ ti Mạch Kỳ thở dài vì tấm lòng chật hẹp của đàn bà, nghĩ bụng, ngày mai phải nhờ Lạt Ma đọc kinh xua đuổi tà ma, nếu không, người đàn bà kia sẽ điên mất. nhưng có tiếng nhiều người cùng kêu lên, có tiếng chân người rậm rịch chạy trong đêm tối. Cái toà kiến trúc xây bằng đá bỗng đung đưa.

Toà nhà đung đưa làm cho nhiều thứ không yên.

Thổ ti Mạch Kỳ choàng mở mắt, thấy ngoài cửa sổ có ánh lửa. ông cho rằng có ai đó đốt đuốc trong khuôn viên. Cho dù hiểu ngay rằng không có gì phải sợ hãi, nhưng ông cũng cảm thấy tức giận.

Mọi người vừa chợp mắt chỉ một lúc thì tất cả phải choàng dậy. Vào lúc ấy, chỉ có mẹ tôi đứng dưới ánh sao trên lầu cao kia, không vào ngủ. Lúc này, cả nhà đều thức dậy.Trên tầng cao là gia đình Thổ ti và lạt ma cùng quản gia, tầng dưới là gia đinh và gia nô. Chỉ có bà ba mới về vẫn trùm chăn kín đầu, lăn vào một nơi rất sâu trên cái giường rộng kia. Ba người công khai đòi trả thù vừa rời đây, châm lửa đốt tài sản của nhà trưởng bản đã thuộc về nhà Thổ ti. Ngọn lửa bùng cháy trong đêm thu mát mẻ, dưới bầu trời đầy sao lấp lánh. Ánh lửa băng qua những ruộng anh túc mênh mông trong đêm, rọi sáng đến tận khuôn viên nhà Thổ ti. Cả nhà chúng tôi đứng trên cao, vẻ mặt căng thẳng nhìn tài sản đã thành tài sản của chúng tôi đang cháy thành than.

Những cơn gió mang hơi lạnh từ sông từng đợt từng đợt thổi tới.

Ánh lửa trước mặt và hơi lạnh sau lưng gợi nhiều suy tư.

Một ô cửa sổ của ngôi nhà đàng xa kia phun ra một con rồng lửa, đám gia nhân của nhà tôi reo hò ầm ĩ.Tôi nghe rõ tiếng bà vú nuôi, tiếng Trác Mã, tiếng người thợ bạc và cả tiếng thằng Trạch Lang. Bình thường, Trác Mã được ân sủng đặc biệt của chúng tôi, luôn luôn buồn vui cùng chúng tôi, nhưng có cơ hội, cô lại chạy xuống đám gia nhân.

Ngọn lửa nhỏ dần, trời sắp sáng.

Lửa là do vợ Thứ Nhân đốt. Chị ta không bỏ trốn với hai đứa con, mà nhảy vào đống lửa. Chị ta chết một cách thê thảm. Người đàn bà trong lửa và lời nguyền của chị bùng nổ, vết thương trên bụng như một đoá hoa. Chị dùng lời độc địa nhất để nguyền rủa cái gia tộc xem ra không thể lay chuyển kia.

Cha biết, lời nói phục thù của đứa bé kia sẽ có ngày được thực hiện. Vậy là, cha sai lính đuổi theo. Anh tôi nói “Trước bao nhiêu người, cha đã thả họ đi, con thấy cần phải đề phòng cẩn thận”.

Thổ ti sai lính đuối bắt. Ba ngày sau vẫn không bắt được kẻ thù trong tương lai. Sau ba ngày, chắc chắn chúng đã ra khỏi lãnh địa của Thổ ti Mạch Kỳ. Ba ngày, là thời gian nhanh nhất để thoát khỏi lãnh địa Thổ ti Mạch Kỳ.

Từ đấy, người đàn bà tự thiêu và hai đứa trẻ thơ trở thành ác mộng của cha tôi.

Sự việc đến nước này rồi, mọi người phải bình tĩnh, chỉ còn biết cúng lễ, cầu trời khấn Phật.

Lạt ma trên gian thờ nhà chúng tôi và Lạt ma chùa Mẫn Chu Ninh tụ tập lại. Các vị Lạt ma làm rất nhiều hình nhân, hình thú vật, phù phép để thu hết những lời nguyền rủa và những mối thâm thù vào đấy. Cuối cùng, đem những hình nhân, hình thú vật cùng thi thể người chết lên núi hoả táng. Phải hoả táng bằng củi sa gai cháy đượm nhất. Nghe nói, ngọn lửa cháy của loại củi này có thể thiêu thành tro mọi thứ cứng nhất ở đời.Tro hài cốt sẽ đem rắc khắp nơi, không một sức mạnh nào có thể tập hợp chúng lại nổi.

Anh túc ngoài đồng đã bắt đầu chín, một mùi thơm ngây ngất toả khắp đồng.

Phật sống Tế Ca trên chùa rất bằng lòng, quên hết những đau xót bị lạnh nhạt suốt nhiều năm, khẩn thiết nói với Thổ ti Mạch Kỳ “Xem ra, không trồng cái cây này, cũng sẽ không xảy ra một loạt sự việc kia. Đây là tâm tư của kẻ thù”.

Phật sống cầm tay Thổ ti, Thổ ti rụt tay lại, cho vào trong tà áo dài, lạnh nhạt nói “Hoa này thế nào, chưa đủ đẹp à?”

Nghe nói vậy, Phật sống biết mình lại vướng vào cái bệnh của người có học, không giữ nổi cái lưỡi, liền chắp hai tay làm tư thế cáo lui. Nhưng Thổ ti kéo lại “Nào, chúng ta đi xem hoa ấy thế nào nhé”. Vị Phật sống đành theo Thổ ti ra cánh đồng đang làm rạo rực lòng người.

Lúc này cảnh sắc ngoài đông đã khác.

Những đóa hoa rực rỡ đã tàn úa, trên những cành xanh là những trái xanh tròn như đầu nhà sư.Thổ ti cười “Giống hệt những cái đầu các chú tiểu dưới quyền của thầy”. Vừa nói, Thổ ti vừa vung dao, những quả xanh rơi rụng xuống đất.

Vị Phật sống hít thở thật mạnh, nhìn những dòng sữa bị dao chém chảy tràn mặt đất.

Thổ ti nói “Nghe nói, máu của các vị Lạt ma pháp lực cao siêu không giống với máu người bình thường. Phải chăng nó trắng như sữa?”

Vị Phật sống cảm thấy không còn điều gì để nói.Trong lúc bối rối, ông giẫm bừa lên những quả anh túc đang lăn lóc trên mặt đất. Những quả tròn ấy như cái đầu bị vỡ ra. Vị Phật sống ngửa mặt lên nhìn trời.

Bầu trời quang đãng, không một gợn mây. Một con đại bàng cánh trắng đang bay lượn trên không trung, nó dang hai cánh, để mặc gió từ thung lũng nâng lên hoặc hạ xuống, ánh nắng in bóng trên mặt đất. Đại bàng trắng vừa bay, vừa kêu lảnh lót.

Vị Phật sống nói “Nó đang hô phong hoán vũ đấy!”

Đấy cũng là một chứng bệnh của người có học, thấy gì cũng muốn giải thích.Thổ ti Mạch Kỳ cười, cảm thấy không cần nhắc nhở Phật sống những gì đang ở trước mắt, chỉ nói “Phải, đại bàng là vua trên trời, vua xuất hiện thì rắn, chuột dưới đất đều phải chui vào hang”. Vua của loài chim kéo theo tiếng gió rít qua trước mặt Thổ ti và Phật sống, quắp một con chim nhỏ trên cành cây kêu thảm thiết, bay vút lên cao, lao thẳng vào rừng, nơi có những mỏm đá cao.

Sau đấy, Thổ ti Mạch Kỳ nói với mọi người, hôm ấy ông đã dạy cho Phật sống một bài học đừng cho mình là đúng, là phải.

Có người nhiễu sự hỏi Phật sống có đúng vậy không, Phật sống nói “A Di Đà Phật, tăng nhân chúng tôi có bổn phận giải thích những điều mắt thấy”.

Tôi được dạy rằng, mặt đất là thứ ổn định nhất ở đời.Tiếp theo là, trên mặt đất, quyền lực của Thổ ti như quốc vương.

Vào cái năm đầu tiên, lãnh địa rộng lớn của Thổ ti Mạch Kỳ trồng anh túc, đúng là đất bằng rung chuyển. Lúc ấy, Phật sống Tế Ca đang vượng, những lời đe doạ của Thổ ti không làm ông phải im miệng. không phải Phật sống không sợ Thổ ti, mà là thói quen bình luận trước những sự việc của người có học, sai khiến. Phật sống Tế Ca ngồi giữa chùa, trông thấy nhiều triệu chứng, không nói không yên tâm. Ngài ngồi trên pháp toạ khảm đến năm cân vàng, tĩnh tâm nín thở. Ngài chỉ định thẫn một lát, đức Phật chí tôn lập tức lung linh hiển thị. Cũng vào lúc ấy, mí mắt dày của ngài bỗng giật giật. ngài lui thần định, đưa ngón tay nhấp một tí nước bọt bôi lên mí mắt. Mí mắt vẫn máy, ngài gọi một chú tiểu lấy một lá vàng đắp lên mắt, mắt lại máy làm lá vàng rơi xuống.

Ngài hỏi ngoài kia có xảy ra chuyện gì không.

Có tiếng trả lời, lũ rắn trốn trong hang đều ra cả bên ngoài.

“còn gì nữa, tôi thấy không chỉ rắn”.

Trả lời, bẩm đức Phật anh minh, cho “muốn leo lên cây như mèo, rất nhiều thứ trời sinh không có mắt vốn ở dưới đất đều ngoi cả lên mặt đất.

Từ thuở Phật sống đến với cửa thiền, ngài chưa từng thấy ở đời xảy ra những việc lạ thế này.

Chùa được xây cất ở nơi mỏm núi giống như đầu rồng.

Phật sống đứng ở cửa, thu tất cả vào ánh mắt. không những ngài trông thấy những gì đệ tử nói, mà còn thấy nhà Thổ ti bị một lớp khí gì đó bao phủ. Đám trẻ con đuổi đánh lũ rắn bò khắp nơi.Thằng Trạch Lang dẫn đầu, đầu gậy của chúng là một bó rắn đủ màu sắc hoa văn, chúng vừa hát vừa chạy khắp đồng, chạy dưới trời thu trong sáng. Chúng hát thế này:

Thịt bò đã đem cúng thần

Da bò đã đem đánh thừng

Đuôi bò như chùm tua rua

Bờm đã treo đầu xe

Tình nghĩa được đền đáp

Lòng dạ xấu xa sẽ bị trừng phạt

Yêu ma từ đất ngoi lên

Đạo đức quốc vương đã chết

Ngọc tan, ngọc tan!

Phật sống nghe mà giật mình, đây là bài ca dao minh hoạ cho một câu chuyện cổ. Câu chuyện có tên “Ngựa và bò”. Câu chuyện được kể từ ngày chưa có Thổ ti Mạch Kỳ. Sau ngày có Thổ ti, mọi người lại có thêm một bản tụng ca cho nên quên mất bài hát lịch sử. Chỉ có những Lạt ma học rộng mới tìm thấy nó trong sách cổ. Phật sống Tế Ca đã từng dày công nghiên cứu lịch sử vùng này, biết có bài ca dao đó.Thời nay không ai truyền thụ, những bài ca thất truyền bỗng được sống lại nơi cửa miệng đám trẻ nô lệ không hiểu biết gì về cái thế giới mênh mông này. Mồ hôi từ trên cái đầu trọc của Phật sống nhỏ xuống. Ngài sai bảo người bắc thang lên căn gác cất giữ kinh Phật, tìm thấy cuốn sách có ghi chuyện cổ ấy. Chú tiểu phùng má thổi bụi, màu vàng của tấm khăn gói quyển sách lộ ra.

Vị Phật sống thay chiếc áo cà sa, đeo cái khăn gói màu vàng lên đường. ngài phải giảng cho Thổ ti Mạch Kỳ biết câu chuyện ấy, để Thổ ti hiểu được, không phải vô cớ mà bài ca dao kia sống lại nơi cửa miệng lũ trẻ.

Nhưng ngài đã mất công.Thổ ti không có nhà. Hỏi lúc nào về, người nhà bảo không biết bao giờ về.Trông những người kia như có điều gì lo lắng, không phải họ nói dối. Phật sống nói, vậy xin gặp Lạt Ma Môn Ba trông coi gian thờ của gia đình. Lạt Ma Môn Ba nói với người lên mời “Phật sống cần gặp, xin mời thầy lên”.

Lúc ấy Phật sống đang ngồi ở lầu hai, phòng của người quản gia. Gian thờ ở tầng năm. Lạt ma tỏ ra kênh kiệu, người quản gia lén nhìn nét mặt Phật sống ra sao. Phật sống rất bình tĩnh nói “Ông quản gia thấy đấy. Lạt ma đối xử với tôi thế nào, nhưng đại hoạ sắp đến nơi rồi, tôi cũng chẳng chấp ông ta làm gì”. Phật sống đi lên gác với vẻ nhẫn nhục, chịu đựng.

Thổ ti Mạch Kỳ đâu?

Ôi! Đó là một bí mật.Tôi đưa ngón tay ra, nhưng tôi phải nói, Thổ ti Mạch Kỳ đem niềm vui mới ra đồng tìm chỗ hú hí.

Ông đặc phái viên Hoàng Sơ Dân để lại cái ống nhòm thật sự có ích.Tôi rất dễ dàng dùng cái ống nhòm để lùng sục bóng cha với niềm vui mới trên cánh đồng.Tôi nói cho các vị biết, tại sao cha tôi lại phải ra đồng. Bà ba Thổ ti Mạch Kỳ rất sợ cái giường Thổ ti nằm. Mỗi lần Thổ ti làm cái chuyện ấy với chị ta, chị ta luôn luôn cảm thấy tim đập hồi hộp, không yên. Nếu Thổ ti cưỡng bức, chị ta kiên quyết chống lại. Lúc ấy, những cái móng tay dài của bà ba cắm sâu vào da thịt người đàn ông, miệng cầu xin “Ban ngày, để ban ngày.Tôi xin mình, ban ngày chúng ta ra đồng”.

Thổ ti hỏi “Mình thấy gì à?”

Nước mắt Ương Tống đã đầm đìa “Tôi không trông thấy gì, nhưng sợ”.

Thổ ti ngạc nhiên tại sao mình lại bùng phát cơn thèm khát đến vậy, cũng giống như rất kỳ lạ tại sao mình đối với phụ nữ lại có thể kiên nhẫn và dịu dàng đến thế. Ông ta ôm người đàn bà vào lòng nói “Thôi được, chờ đến mai”.

Nhưng tình thế của hôm sau không được hay lắm.Tôi thấy hai người vội vã tìm một nơi có thể ngả lưng ở ngoài đồng. Nên nhớ rằng, người đàn ông nóng lòng sốt ruột kia là chủ nhân của vùng đất mênh mông này, nhưng lại không tìm được cho mình một chỗ ngủ với người đàn bà mà ông yêu. Những động vật không biết từ đâu đến đã chiếm hết chỗ của ông ta.

Bên bờ suối có một tảng đá bằng phẳng, đến gần mới biết ở đấy mấy con nhái đã chiếm cứ.Thổ ti định đuổi nó đi, chúng không những không đi mà còn kêu ầm ĩ.

Ương Tống vừa nằm lên một thảm cỏ, lập tức kêu thét lên, ngồi bật dậy. Mấy con chuột đồng từ trong váy chị ta rơi ra.

Thổ ti đành để chị ta đứng, tựa lưng vào cái cây vân sam to.

Chị ta vừa vén váy lên, người đàn ông vừa tụt quần xuống, nửa người dưới của cả hai đang trần ra thì bị kiến và mấy con đỗ quyên tấn công. Cuối cùng họ phải từ bỏ mọi cố gắng. Sự cố gắng không kết quả của họ bị tôi nhìn thấy. Xem ra không đi đến kết quả nào, trừ phi họ có thể ngủ với nhau giữa không trung. Nhưng họ không thể có phép thuật ấy.Trong truyền thuyết có phép thuật làm cho con người bay giữa trời, nhưng không thấy nói vừa bay vừa cõng theo một người đàn bà. Khi tôi cất cái ống nhòm bảo bối đi, cha và người đàn bà kia đang mệt mỏi từ ngoài đồng về.

Đám trẻ con nhà gia nô vác cây gậy quấn đầy rắn, đang hát ngoài bãi đất trống:

Quốc vương đức độ băng hà,

Ngọc đã nát

Ngọc đã tan!

Ngọn lửa thèm khát của Thổ ti biến thành ngọn lửa tức giận, truyền lệnh cho đao phủ lấy roi da đánh cho lũ trẻ kêu trời kêu đất. Phẫn nộ làm cho bộ mặt Thổ ti méo xệch. Ương Tống nghiêng đầu nhìn, chị ta bật cười vui vẻ.Trước đấy, tôi cứ nghĩ đàn bà là đàn bà, chị ta bị Thổ ti dùng sức mạnh cướp về không có gì khác với việc dùng tiền mua mẹ tôi. Lúc này, cái cười kia chứng minh chị ta là một yêu tinh. Về sau, Phật sống Tế Ca nói với tôi, yêu tinh làm hại, một loại mình biết, một loại nữa mình không biết, rõ ràng bà ba Thổ ti là loại thứ hai, cho nên sau lưng cha, mọi người đừng nên làm hại ch.Ta. Đó là chuyện về sau.

Không biết anh tôi đến bên tôi từ lúc nào. Anh nói “Anh thích gái đẹp, nhưng người đàn bà kia làm anh sợ”.

Trên khoảng đất trống bên ngoài khuôn viên, Ương Tống nói với Thổ ti “Lão gia, bọn chúng thích hát, cứ để chúng hát về tôi”.

Tôi và anh đến bên họ.

Anh tôi nói “Phật sống bảo, bài hát ấy đã có từ xa xưa. Bà đừng để lũ trẻ con làm bài hát về bà. Lũ người hèn hạ kia trừ hoa trên đầu rắn độc ra, đâu có biết gì về vẻ đẹp của chim công”.

Bà ba không bực mình, chỉ cười với anh tôi.

Anh tôi xua tay, bảo mọi người hãy giải tán.

Thổ ti và bà ba bước qua cửa chính to cao để lên lầu. Lúc này, ở ngoài sân đám gia nô người thì xay bột làm bánh, người vo gạo, người vắt sữa, người cọ rửa những đồ bằng bạc…Bỗng cùng cất tiếng hát. Cha từ trogn nhà chạy ra, trông ông như sư tử lên cơn thịnh nộ, nhưng đám gia nô vẫn hát, lời bài hát không có gì đáng để mắng mỏ. ông đành lắc đầu đi vào.

Thổ ti bảo với quản gia xuất một ít bạc trắng, đánh cho bà ba vài thứ nữ trang. Vậy là, người thợ bạc đã từng quỳ trước ngựa của cha tôi được triệu đến. Anh àny, dù khi có việc hay không, lúc nào cũng giấu đôi bàn tay trong tạp dề bằng da.Tôi cảm thấy trong sân nhà tôi lúc nào cũng ồn ào như tổ ong chợt yên tĩnh, lúc ấy tưởng như cả thế giới cùng vang lên tiếng búa dát bạc của người thợ. Mọi người cùng lắng nghe hồi âm đang tràn ngập cả thế giới.

Tinh tang…

Tinh tang…

Tinh…tang..

Những cô gái vừa hát đang nở nụ cười. Người thợ bạc đang ngồi dưới bóng râm bên cây cột to trong khuôn viên rộng lớn, chốc chốc vẻ mặt anh ta lại hiện lên nét nhiệt tình với mọi người. Lá bạc vừa được dát mỏng óng ánh toả sáng như mặt nước hồ ngay trước mắt người thợ. Người thợ này đã giới thiệu tên với tôi, nhưng tôi không sao nhớ nổi.Tôi nghĩ, Trác Mã còn nhớ. không hiểu tại sao, tôi cho rằng cô ta nhớ.Trác Mã cấu tôi một cái nói “Ngốc ạ!”

“Nói nhanh lên nào!”

“Người ta đã từng hầu hạ cậu, vậy mà tên cũng không nhớ. Đối với em đây, rồi cậu cũng như thế thôi nhỉ?”

Tôi nói không thể thế được. Lúc này Trác Mã mới nói tên người thợ bạc. Anh này tên là Khúc Trát.Trác Mã chỉ một lần gặp anh ta – ít nhất là tôi nghĩ họ mới gặp nhau một lần – vậy mà đã nhớ tên, khiến trái tim nhạy cảm của tôi nhói đau. Vậy là, tôi bỏ Trác Mã đấy, đi chỗ khác.Trác Mã đi tới, cô chạm bầu vú căng tròn vào đầu tôi, cái cổ cứng đơ của tôi bỗng mềm nhũn. Cô ta biết tôi sắp không chịu nổi, liền dịu giọng “Lạy trời, cậu bé còn bú mà cũng biết ghen, khiến cho lòng phải buồn”.

“Ta phải giết cái anh chàng kia đi”.

Trác Mã quay người lại ôm tôi, ghì đầu tôi vào rãnh sâu trước ngực, làm tôi ngạt thở. Cô nói “Cậu sốt rồi, đang sốt đấy. Không thật thế chứ, cậu?”

Tôi không thích cô ta chỉ vì cho tôi thân xác mà nói năng với giọng điệu thiếu thận trọng. cuối cùng tôi thoát khỏi bộ ngực mềm mại, mặt đỏ bừng, thở hổn hển “Ta phải nhúng đôi bàn tay tài nghệ của anh ta vào chảo mỡ đang sôi”.

Trác Mã ôm mặt, quay đi.

Cái đầu ngớ ngẩn của tôi nghĩ, tuy tôi không thể trở thành Thổ ti, nhưng là con của Thổ ti, sau này sẽ là em của Thổ ti. Con gái chẳng qua là thứ với tay là được.Tôi bỏ cô ta đấy, lượn một vòng. Mọi người đều bận với công việc.Thổ ti thì ngồi canh bà ba, người đã giành được vào tay nhưng không có cơ hội để thoả mãn. Bà hai thì ngồi thiền giữa một đám hoa trên tấm thảm Ba Tư.Tôi gọi mẹ, mẹ mở to mắt, chỉ thấy lòng trắng, giống như trong kinh Phật nói về sự phù phiếm trống rỗng của sự vật. Phật sống Tế Ca mở cái bọc lụa vàng trước mặt Lạt ma Môn Ba. Những đứa trẻ con cái gia nô chơi đùa ngoài đồng, đầu gậy của chúng là một bó rắn, miệng hát bài ca dao thất truyền từ lâu, nay được sống lại.Từ sau sự kiện hoạ mi, bọn chúng bỗng kính nể và xa lánh tôi, con người cao quý nhưng cô đơn, buồn tẻ.Tôi vô cùng cô đơn.Thổ ti, cậu cả, bà Thổ ti, họ không có cơ hội đánh nhau, không có hội hè, không có trừng phạt ai, cũng đều cô đơn, buồn tẻ. Chợt tôi hiểu tại sao cha lại hay gây chuyện này, chuyện khác. Chỉ một chuyện trưởng bản nho nhỏ cũng phải chạy lên cầu cứu trên tỉnh, dẫn đến chuyện trồng thuốc phiện, để lũ lính tráng dân phòng của mình tập luyện theo cách mới, vì một người đàn bà mà giết cả tôi tớ trung thành, để những tăng lữ tu hành tranh giành nhau như đám đàn bà con gái. Hiểu được điều ấy nó không thể loại trừ nổi nỗi cô đơn lạnh lùng của tôi. Anh trai không ở nhà, không ai biết anh đi đâu. Những người kia đều có việc làm, xay bột, vắt sữa, thuộc da, kéo sợi, họ vừa làm vừa trò chuyện. Anh thợ bạc đang gò bạc, tinh tang, tinh tang tinh tang! Anh ta cười với tôi rồi cúi xuống miệt mài với công việc.Tôi cảm thấy anh thợ bạc hôm nay thật đáng yêu, cho nên việc Trác Mã nhớ tên anh ta không có gì là kỳ lạ.

“Khúc Trát!” tôi gọi.

Để thay cho câu trả lời, anh ta gõ búa tạo nên một chuỗi âm thanh nghe rất vui tai. Vậy là tôi quên chuyện không vui vừa rồi, trở về phòng mình. Vừa đi, tôi vừa cầm hòn đá gõ vào lan can cầu thang.Trác Mã vẫn còn ở trong phòng, thấy tôi vào, cô quay mặt vào tường. cô nhất định thích một anh ngốc, thích được người con trai dỗ dành, vậy thì tôi dỗ.Tôi nói, anh thợ bạc được lắm.

“Còn gì nữa!” cô coi tôi như một đứa ngớ ngẩn. “Em thích anh ta là một người lớn, thích cậu là một chú bé”.

“Không thích anh là một quý tộc, mà thích anh thợ bạc à?”

Cô nhìn tôi bằng cặp mắt cảnh giác, nói “vâng” rồi bẽn lẽn nhìn xuống.

Chúng tôi làm tình với nhau trên tấm thảm có rất nhiều những bông hoa đẹp. Cô sửa lại áo quần, thở dài nói “Sẽ có ngày bà chủ sẽ gả em cho một người làm công, em xin cậu, đến lúc ấy cậu làm mối em cho anh thợ bạc”.

Lòng tôi lại nhói đau, nhưng vẫn gật đầu.

Cái cô gái cao lớn hơn tôi này nói “Thật ra, cậu cũng không làm chủ được chuyện này, nhưng có tấm lòng của cậu, em coi như không bị uổng công, không được gì”.

Tôi nói “Anh đồng ý là được”.

Trác Mã xoa đầu tôi “Cậu không được kế thừa vị trí Thổ ti”.

Trời ơi, tôi thoáng có ý nghĩ cướp đoạt quyền lực. nhưng nghĩ, mình là đứa ngớ ngẩn, ý nghĩ kai tựa bọt bong bóng trên dòng suối, lặng lẽ tan vỡ.Thử nghĩ mà xem, một thằng ngốc làm thế nào để trở thành một Thổ ti cai quản cả năm vạn dân, làm vua khắp thế gian? Lạy trời, một thằng ngốc tại sao lại có ý nghĩ ấy? Chẳng qua là một người con gái đã gợi cho tôi ý nghĩ ấy.

Ngày hôm ấy còn xảy ra chuyện gì nữa không?

Tôi nhớ ra rồi. Phật sống hôm ấy đã đưa ra lời dự báo chuyện sắp xảy ra, nhưng ngài bị đối xử lạnh nhạt trên gian thờ. Đại lai Môn Ba mở cuốn kinh cổ ra. Bài ca dao lũ trẻ đang hát xuất hiện trước mặt hai người có học.Trong cuốn kinh quý báu của Phật sống, bên cạnh từng câu từng chữ của câu chuyện, có không biết bao nhiêu người ghi thêm chú giải. Bởi thế câu chuyện biến thành cái để chiêm nghiệm những điều lành điều dữ. Dưới đoạn ca dao, viết, năm nọ, tháng nọ, ngày nọ có người hát đoạn ca dao này, ôn dịch hoành hành suốt một năm. Lại ngày, tháng, năm có người hát ca dao này, kết quả Vương triều Trung Nguyên sụp đổ, trên vùng tuyết phủ giáo phái nào đấy mất chỗ dựa, nên đã suy yếu. Lạt Ma Môn Ba lắc đầu, lau mồ hôi trên trán nói “Những chuyện này, tôi không nói với Thổ ti đâu.Tai hoạ thì không tránh khỏi. Đã là số phận rồi, nói cũng không ích gì.Thầy nghĩ xem, Thổ ti có cái tai chịu nghe người khác không?”

Phật sống nói “Trời Phật ơi, Thổ ti đã mất công sủng ái các người”.

Lạt ma Môn Ba nói “Vậy thầy ở đây, để tôi ra trụ trì chùa”.

Phật sống đã từng nghĩ phải đi Tây Tạng để chầu Phật, cũng đã nghĩ đến chuyện lên núi tìm một hang động nào đấy để quan bế tu hành. Nhưng đều không thành. Nếu ngài đi, sinh kế của những người trông coi chùa biết dựa vào đâu. Vị Phật sống nghĩ gần rồi nghĩ xa, biết rằng con người không thể sống qua ngày bằng việc tiêu hoá tư tưởng. Ngài đến không phải vì sinh kế của những người trong chùa, không vì tìm miếng ăn cho những người kia. Ngồi trong gian thờ vàng son rực rỡ, cùng Lạt ma nói chuyện phiếm nhưng không phù phiếm, ngài có cảm giác thoải mái hơn ngồi ở chùa.Thậm chí ngài sợ Lạt ma Môn Ba kết thúc câu chuyện. Ngài nghĩ, dù con người này phẩm hạnh ra sao, cũng là nhân vật có trí tuệ tương đương với mình. Chính vì một chút hứng thú ấy, Phật sống tỏ ra khiêm nhường hơi quá mức. Ngài nghe thấy mình nói chuyện với giọng điệu thận trọng “Vậy thầy xem, tôi phải nói với Thổ ti thế nào về việc này?”

Lạt ma Môn Ba lắc đầu “Tôi không biết.Tính tình Thổ ti ngày càng khó hiểu.Thầy uống nước nữa nhé?” rõ ràng đây là câu nói đuổI khách.

Bình luận