Quân đội Hán trắng bỏ đi nơi khác.
Họ đi lúc nửa đêm, không chào hỏi ai, cứ thế tập hợp rồi đi.
Sáng hôm sau, chỉ thấy để lại người kia, viên sĩ quan bị trói nơi cột hành hình, trước ngực cắm cây kiếm của người phía anh ta. Họ dọn sạch sẽ nơi ở, chứng tỏ lúc đi không quá vội vàng. Ông Dân cũng đi theo người Hán trắng.Trong phòng ông ta, báo chí xếp gọn gàng, trên đấy là bức thư để lại cho tôi. Nhưng ông ta viết bằng chữ Hán, chỗ tôi không ai biết chữ Hán. Lư hương vẫn nóng ấm. Vợ tôi đi theo bọn họ. Có điều nàng đi cũng rất khác thường, chăn, đệm, thậm chí cả những thứ bằng lụa được thêu hoa, đều bị cắt nát, cửa mở toang, một ngọn gió lùa vào, những mảnh vụn như đàn bướm bay khắp phòng.
Gió qua, tất cả đều rơi xuống, hình thành một đống vụn lấp lánh kim loại, đại diện cho mảnh vụn thù hận của người con gái.
Vẫn là thằng Trạch Lang đòi đuổi theo.
Ông quản gia cười, hỏi định đuổi theo hướng nào, nó lắc đầu không biết. Nó là một đứa trung thực, nhưng lại tỏ ra ngu xuẩn trong chuyện này.Tôi rất buồn, đá cho nó một cái, đuổi ra ngoài.
Nó nở nụ cười trung thành với tôi. Sau đấy nó rút con dao trong người ra, múa múa trước mặt mọi người, rồi xông xuống nhà, lôi một con ngựa ra, nhảy lên, phóng đi, bụi đất trong ngày xuân khô hạn cuồn cuộn nổi lên.
Ông quản gia nói với tôi “Cứ kệ nó”.
Nhìn theo lớp bụi vàng tan dần trong không trung, nỗi buồn chợt đến cấu xé lòng tôi.Tôi nói “Nó còn về nữa không?”
Nước mắt rơi khoé mắt thằng Nhi Y, nó vẫn bẽn lẽn, nói “Thưa cậu, cho tôi đi giúp nó”.
Ông quản gia nói “Chỉ cần không chết, nó sẽ về”.
Tôi hỏi ông thư ký, thằng Trạch Lang có về nữa không.
Ông ta lắc đầu, bảo nó quyết tâm chết vì chủ. Hôm ấy tôi cứ đi đi lại lại trên lầu, tự trách mình không cho thằng Trạch Lang trở thành con người tự do. Sau đấy, Trác Mã đến, cô ta nắm tay tôi, chạm trán vào trán tôi, nói “Thưa cậu, cậu là người tốt, hãy để những ý nghĩ làm cậu buồn ra khỏi đầu óc cậu.Thằng Trạch Lang là nô tài của cậu, nó thay cậu giết cái con người đê tiện kia.”
Nước mắt tôi trào lên.
Trác Mã gục đầu vào ngực tôi, khóc thành tiếng “Thưa cậu, cậu là người tốt, chỉ hận một nỗi em không được theo hầu cậu đến cùng”.
Tôi ngước lên nhìn mặt trời, mặt trời sáng chói.Trái tim ngốc ơi, lâu lắm rồi mới được tưới nhuần.Tôi nghe mình nói với Trác Mã, nói với người con gái đầu tiên trong đời “Đi đi, đi tìm anh thợ bạc đến đây, tôi sẽ cho hai người được tự do”.
Trác Mã đang khóc chuyển ngay sang cười, nói “Cậu ngốc ạ, lão gia chưa cho cậu làm Thổ ti”. Nước mắt Trác Mã vừa ráo lại chảy xuống “Cậu ơi, anh thợ bạc của em đã vào Hồng quân rồi”.
Tôi gọi thằng Nhi Y đến, bảo nó dẫn mấy người về dưới nhà, xem cha tôi thế nào rồi.
Lần đầu tiên thằng Nhi Y không tỏ ra bẽn lẽn xấu hổ, nó nói “Đi thì liệu có ích gì, quân giải phóng sắp đến rồi. Nhường ngôi Thổ ti cho cậu cũng chẳng để làm gì”.
Tôi nói “Có chứ, ta sẽ cho những kẻ thuộc hạ được tự do”.
Câu nói vừa ra khỏi cửa miệng, tất cả nô lệ, thuộc hạ xôn xao ồn ào từ tầng trên xuống tầng dưới. Có người chuẩn bị lương khô cho thằng Nhi Y. Có người giúp nó chuẩn bị vũ khí, có người đưa ngựa ra đóng yên cương, thằng Nhi Y không muốn đi cũng không xong. Quân giải phóng đánh giặc cho người nghèo chưa đến, họ đã cảm thấy như mình vừa được giải phóng.
Thằng Nhi Y lên đường, ông quản gia nói với tôi “Như vậy, cộng sản về, không còn việc gì phải làm nữa”.
Tôi nói “Họ nghe nói, sẽ quay về đấy nhỉ”.
Ông quản gia nói “Thôi, cậu đừng nói chuyện ngốc nghếch ấy nữa”.
Cộng sản chưa đến, chưa ai hiểu cộng sản thế nào, nhưng đều cho rằng họ là người bất khả chiến thắng. Những vị Thổ ti chuẩn bị chiến đấu, chẳng qua chỉ là cá quẫy trong lưới trước khi chết mà thôi. Còn tôi vẫn chưa có ý định gì. Ông quản gia hơi sốt ruột.Tôi nói, đừng sốt ruột, việc cần làm sẽ phải làm. Ông ta cười nói “Đúng vậy, lần nào tôi cũng sốt ruột, cuối cùng vẫn là cậu đúng”.
Tôi phải chờ hai thằng nhỏ về mới bàn xem sao. Vậy là, tôi chỉ uống rượu rồi ngủ.
Một đêm, tôi bỗng thức giấc, cảm thấy có cái gì lục đục dưới chân. Lắng nghe, thì ra Ta Na tay chân bé nhỏ đang khóc.Từ lâu tôi không còn hứng thú với cô ta, tôi bảo cô nằm dưới ấy, nói chuyện với tôi.Tôi nói “Thằng Nhi Y quay về, cô sẽ được tự do”.
Cô ta không nói gì, nhưng không khóc nữa.
“Đến lúc ấy tôi sẽ cho cô một món đồ cưới thật nhiều”.
Cô gái con người chăn ngựa lại khóc.
“Đừng khóc nữa”.
“Thưa cậu, cô không đưa hộp nữ trang đi”.
Tôi bảo cho cô ta cái hộp ấy, vì cô ta cũng có cái tên chết tiệt kia. Cô ta không khóc nữa, cái cô gái nghèo hèn hôn ngón chân tôi.Trước đây, cô ta hôn nhiều chỗ trên người tôi, làm tôi khoái, kêu lên như một con thú. Suốt một thời gian dài, cô ta theo hầu người con gái có cái tên giống mình, tôi nghĩ cô ta học những cái xấu của người kia. Nói một cách dễ hiểu, có những người con gái là thuốc độc, vậy cô gái con người chăn ngựa này đã bị nhiễm độc.Tôi đang nghĩ vẩn vơ thì có tiếng thở đều đều của cô ta ở ngay dưới chân.
Buổi sáng, cô ta không nằm dưới chân tôi nữa, cô gái này làm việc gì cũng lặng lẽ, không ai biết.Từ hôm ấy, tôi không còn thấy cô gái con người chăn ngựa có cái tên Ta Na. Con gái nhà Thổ ti bỏ đi, con gái người chăn ngựa không có chỗ nào để đi, chỉ biết ở trong căn phòng trên gác, ôm trong lòng cái hộp nữ trang quý. Con gái Thổ ti và con gái người chăn ngựa khác nhau, tuy cùng tên, tuy cùng ôm một người đàn ông, nhưng đến lúc khẩn cấp nhất, con gái nhà Thổ ti bỏ lại hộp nữ trang đắt tiền, con gái người chăn ngựa ôm chặt không muốn buông cái hộp nữ trang kia. Vì chuyện này mà cô gái con người chăn ngựa tích trữ trong phòng nhiều thức ăn và nước uống, ý muốn có cái hộp châu báu này không phải mới một vài hôm nay.
Thôi, không nói nữa, để con người ấy không còn trong mắt tôi.
Tôi nghe thấy tiếng đạn pháo nổ ầm ầm. Những âm thanh như tiếng sấm mùa xuân, đó là tiếng pháo lớn của quân giải phóng. Có người nói, người Hán trắng liên minh với bà Thổ ti Nhung Cống, bắt đầu chống trả người Hán đỏ.
Thằng Trạch Lang lại về. Con người trung thành này lại thất bại một lần nữa. Lần này nó không mất một bàn tay mà mất mạng. Ngực nó bị đạn súng máy bắn lỗ chỗ như mặt sàng. Người ta đã giết nó, giết người phụ trách thu thuế chợ, trói nó nằm ngửa trên lưng ngựa, để con ngựa thuộc đường đưa nó về. dọc đường, thú ăn thịt làm khuôn mặt nó nát không còn nhận ra.
Rất nhiều người khóc nó.
Thôi được, người Hán trắng cùng với Thổ ti Nhung Cống, cứ đánh, tôi chờ cộng sản về sẽ giơ tay đầu hàng.
Mai táng thằng Trạch Lang được ít hôm, ở phía đông, tức là phía nhà Thổ ti Mạch Kỳ, có tiếng ầm ầm như tiếng sấm. Pháo đang bắn ở phía đông và phía bắc, tiếng nổ ầm ầm như tiếng sấm mùa xuân. Bầu trời trong sáng đầy sao, sao như kim cương lóng lánh trên tấm nhung đen. Ông chủ quán rượu, kẻ thù của nhà Mạch Kỳ đến thăm tôi. Ông ta ôm một vò rượu thật to, không thấy đám gia nhân thuộc hạ nói gì, cứ thế bước vào phòng tôi.Tôi sai người đóng cửa sổ lại, không ngắm nhìn sao trời nữa.Thuộc hạ thắp đèn, tôi thấy mũi ông ta đỏ chót, nước mũi chảy ròng ròng.Tôi nói “Ông cũng bị cái bệnh kia rồi”.
Ông ta cười “Cậu khỏi phải lo, thằng em tôi bảo cái bệnh ấy có thể chữa khỏi”.
“Thằng em của ông? Cái thằng sát thủ nhát gan ấy à? Nó chạy rồi cơ mà?”
“Về rồi”, ông chủ quán nói rất bình tĩnh.
Tôi nói “Nó giết Thổ ti Mạch Kỳ rồi à? Nếu giết rồi, hai nhà chúng ta coi như kết thúc mọi chuyện”.
Bỗng thằng em ông ta cười ha hả, giống như một oan hồn từ ngoài bước vào, làm tôi giật mình sợ hãi. Nó nói “Vào lúc này, việc của hai nhà còn có ý nghĩa gì nữa đâu”.
Tôi không hiểu vào lúc này là lúc nào, cũng không biết tại sao chuyện lớn như vậy của hai nhà lại không còn ý nghĩa gì.
Sát thủ cười ha hả “Tôi chưa giết cha cậu, mà cũng không muốn giết cậu”.
Ông anh hắn ta thích chơi trò ú tim, hỏi “Vậy mày về làm gì?”
Tên sát thủ nói tất cả cho chúng tôi biết.Trong thời gian bỏ đi, nó vào quân đội của người Hán trắng, bị người Hán đỏ bắt làm tù binh, lại vào quân đội của người Hán đỏ. Nó tự xưng là người Tạng đỏ, rất kiêu hãnh nói, người Tạng đỏ rất hiếm, nhưng rồi sẽ như lửa cháy đồng, thiêu lãnh địa của các Thổ ti thành một màu đỏ. Nó về thám thính, dò la tin tức cho người Hán đỏ. Nó áp sát mặt tôi, nói “Món nợ của hai nhà chúng ta có là gì, quân đội của tôi về mới thanh tóan mọi nợ nần với tất cả các Thổ ti”. Hắn nhắc lại “Đến lúc ấy mới thanh toán mọi nợ nần”.
Ông quản gia vào, nói rất khẽ “Nhưng cậu tôi không phải Thổ ti”.
“Không phải Thổ ti à? Là Thổ ti của mọi Thổ ti”.
Từ hôm người Tạng đỏ đến, không còn ai muốn đi theo người Hán đỏ.Tuy mọi người biết, chống lại người Hán đỏ sẽ không có kết quả tốt đẹp, cho nên quân lính Thổ ti định chống lại người Hán đỏ cứ tự tan rã, các Thổ ti thất bại đem theo binh lính chạy lên miền Tây. Miền Tây là nơi mà ông thư ký mất lưỡi vẫn nói, đấy là lãnh địa của Phật phái thuần khiết nhất. Xưa nay các Thổ ti đều ngả về vương triều của những kẻ trần tục miền đông, mà không phải là lãnh thổ thiêng liêng miền tây. Lúc này, đám Thổ ti quyết tâm chống lại, bỗng ngả cả về miền tây. Các Thổ ti không tin Thánh cung miền tây có thể giúp họ không bị các lực lượng khác đè bẹp, nhưng họ vẫn đánh một trận rồi rút lên miền tây.
Tôi nói với ông thư ký “Chúng ta cũng chạy về cái nơi mà ông từ đấy đến”.
Ánh mắt ông ta nói “Đấy là cái nơi rất nên đến, nhưng các người chỉ ngả về phía đông”.
“Thần linh của ông có tha thứ cho chúng tôi không?”
“Các người đang bị trừng phạt”.
Ông quản gia nói “Trời đất ơi, bao nhiêu năm nay rồi mà ông vẫn chưa thành một người thư ký, cuối cùng vẫn là một vị Lạt ma cố chấp”.
“Không đúng, tôi là một người thư ký tốt, tôi ghi lại tất cả, sau này mọi người sẽ biết trên lãnh địa Thổ ti từ ngày tôi đến đây đã xảy ra những chuyện gì”.
Ông ta viết, mỗi thứ chép thành hai bản chữ Tạng, một bản giấu trong hang, sau này sẽ có người tìm thấy, một bản ông ta giữ, ông ta viết “Rất mong người tìm thấy xác tôi là một người biết chữ”.
Tôi không phải là một Thổ ti, nhưng cũng chuẩn bị chạy về miền Tây.
Ở miền Bắc, tiếng súng trên lãnh địa Thổ ti Nhung Cống thưa dần. Ở phía đông, trên lãnh địa Thổ ti Mạch Kỳ tiếng súng dồn dập hơn. Có tin nói, bà vợ người Hán bảo ông ta chống lại, nhưng lại có tin, người Hán trắng ép ông ta phải chống trả quyết liệt.Tóm lại, người Hán bảo cha chống đối người Hán. Chúng tôi rời khỏi thị trấn vào một buổi sáng mù sương. Lúc đi, ông quản gia định phóng hoả, tôi ngăn lại.Tôi nhìn mọi người, mọi người đều muốn phóng hoả để thiêu trụi chợ búa, cửa hàng cửa hiệu, nhà khách, quán trọ cho những người nghèo qua đây lỡ độ đường có miếng ăn bố thí, cả cái nhà chứa tường hoa hoét xanh đỏ kia nữa.Tất cả những thứ đó đều do thằng ngốc này lập nên, tất nhiên tôi có quyền thiêu cháy chúng. Nhưng tôi không làm.Tôi nhắm mắt lại, bảo bọn thuộc hạ vứt đuốc đi. Đuốc vứt xuống đất, khói đen nghi ngú làm mắt tôi chảy nước.
Ông quản gia gợi ý giết cái tên Tạng đỏ kia đi.Tôi đồng ý. Chính con người ấy đã đẩy tôi đến chỗ chống lại người Hán đỏ.
Mấy người cưỡi ngựa xông vào phố, tiếng súng nổ trong sương.Tôi dừng ngựa trên đồi cao, muốn nhìn lại cái thị trấn tôi đã dựng lên, nhưng bị sương mù che khuất.Tôi không trông thấy cái thị trấn ấy bây giờ ra sao.Tiếng súng lại nổ, mấy con ngựa phóng từ trong sương mù về, họ không tìm thấy cái tên Tạng đỏ kia.Tôi thúc ngựa dẫn đầu, phía sau có tiếng phụ nữ khóc. Những người phụ nữ khóc kia đi theo sau Trác Mã, họ không biết chúng tôi đang chạy trốn, nên mặc toàn đồ xanh đỏ ngày hội. Chỉ có Ta Na cô hầu không đi cùng.Trác Mã nói, Ta Na ôm cái hộp nữ trang đắt tiền, không chịu xuống.
Đường đi về miền tây, bắt đầu phải đi về phía nam một đoạn, đi vào núi, theo những con đèo quanh co hướng về phía tây. Đường đèo đưa chúng tôi men theo chân núi tuyết, đến đấy mới có đường lên miền tây. Đó là con đường của những người đi lễ Thánh, lúc này vang lên tiếng chân của những người chạy trốn.
Chúng tôi đang đi trên biên giới lãnh địa Thổ ti Mạch Kỳ và lãnh địa Thổ ti La Tuyết Ba, mỗi lúc một gần tiếng súng dồn dập ác liệt ở phía đông nam. Xem ra, người cha già lão của tôi đang đánh nhau với người Hán đỏ.
Nghe tiếng súng nổ chát chúa, mối thân tình ấm áp từ lâu vắng bóng, bỗng từ trong lòng trào dâng, nắm chặt lấy tôi. Lâu nay tôi tưởng mình không còn tình yêu đối với cha, cũng không còn yêu mẹ nhiều, lúc này bỗng phát hiện mình vẫn còn yêu họ.Tôi không thể để mặc họ trong lửa đạn, một mình bỏ chạy lên miền tây.Tôi bảo ông quản gia, ông thư ký và các cô gái chờ tôi ở đây, tôi dẫn theo binh lính về nhà Mạch Kỳ. Lên đến đỉnh đèo quay nhìn những người ở lại và những cái lều trắng, thấy đám đàn bà con gái đang vẫy tay với tôi. Chợt tôi sợ, sợ rằng đây là lần cuối thấy họ.
Chúng tôi đi về phía đông ba ngày liền.
Binh lính người Hán đỏ đã án sát dinh cơ nhà Thổ ti Mạch Kỳ. cờ đỏ bay phất phới trong rừng cây dưới chân núi kia. Súng máy của họ phong toả các con đường, chúng tôi phải nhờ bóng đêm mới vào được nhà.Trong khu nhà chúng tôi chỗ nào cũng thấy những người đeo súng đạn, có người Tạng, nhưng nhiều hơn cả là người Hán trắng. Người đi lại trên lầu, dưới sân là những xác chết nằm ngổn ngang. Họ chiến đấu gian khổ đã mười hôm nay.Tôi xông vào phòng cô Thổ ti, Thổ ti Mạch Kỳ cha tôi đứng ngay trước mặt.Trông cha không già lắm, tuy râu đã bạc, nhưng mắt vẫn toả ánh điên cuồng. Cha nắm lấy tay tôi, tay cha vẫn còn khoẻ mạnh.Tôi là một thằng ngốc, đầu óc chậm chạp, nhưng suốt ba ngày đi đường cũng đủ để tôi hình dung lúc gặp cha.Tôi cho rằng lúc gặp mặt nước mắt sẽ làm ướt khuôn mặt và trái tim chúng tôi, nhưng tôi đã nghĩ nhầm. Cha cao giọng “Hãy nhìn, ai về đây! Thằng ngốc của cha đã về!”
Tôi cũng cố cao giọng, lớn tiếng “Con về đón cha mẹ”.
Nhưng Thổ ti Mạch Kỳ nói, ông không đi đâu sất, ông già rồi, gần chết rồi. ông nói, lẽ ra ông chết một cách yên ổn nhưng không ngờ gặp cơ may này. Ông nói, một Thổ ti, một con người cao quý, phải được chết trong ồn ào, huyên náo mới có ý nghĩa. Ông vỗ vai tôi, nói “Nhưng mà, thằng con ngốc của ta không được làm Thổ ti nữa rồi”.
“Ta là Thổ ti Mạch Kỳ cuối cùng!” ông hét thật to với tôi.
Tiếng cha làm mẹ phải vào. Mẹ tươi cười chạy tới, ôm đầu tôi vào lòng mà lắc lắc, nói bên tai tôi “Không ngờ còn được thấy thằng con đẻ của mẹ!”
Nước mắt mẹ chảy xuống tai, rơi vào cổ tôi. Mẹ kiên quyết cùng chết với cha.
Đêm hôm ấy, quân giải phóng không tấn công. Cha bảo, quân giải phóng đánh nhau bất kể ngày đêm, đánh không nghỉ. Cha nói “Cái đám quân lính người Hán đỏ ấy được lắm, chắc chắn họ biết cha con ta đã gặp nhau”.
Vậy là ông mời hai viên sĩ quan Hán trắng vào cùng uống rượu.
Cha khen họ là những chàng trai dũng cảm. hai con người dũng cảm này cũng được lắm. Họ chủ trương nhân lúc ngừng chiến với Cộng quân, đưa phụ nữ và những người không muốn đánh nhau ra ngoài. Cha nói, hễ người ra, Cộng quân sẽ quét súng liên thanh. Chúng tôi tiếp tục uống rượu. đó là một đêm không trăng. Nơi xa kia, quân Hán đỏ đốt một đống lửa, ngọn lửa trong đêm giống như cờ đỏ của họ tung bay trước gió. Lúc tôi ra nhìn đống lửa bỗng thằng Nhi Y xuất hiện ngay trước mặt. Nhìn vẻ mặt nó cũng đủ biết, người đao phủ già đã chết. Nhưng nó không nói gì đến chuyện cha chết mà chỉ hỏi tôi thằng Trạch Lang đã về chưa.Tôi nói thằng Trạch Lang đã về nhưng chết rồi, ngực nó thủng một lỗ thật to.
Nó tỏ ra bẽn lẽn, nói khẽ “Tôi đoán đúng!”. Nó nói tiếp “Đao phủ không còn đất dụng võ, tôi cũng chết đây”.
Thế rồi, như một bóng ma, hắn biến mất ngay bên người tôi.
Nửa đêm, trăng lên. Một viên sĩ quan buộc một lá cờ trắng trên lưỡi lê, băng qua ánh trăng đi về phía trận địa của người Hán đỏ. Anh ta vừa ra thì súng máy phía trước nổ ran, anh ta nằm rạp xuống.Tiếng súng ngừng, anh ta lại đứng dậy, vừa đi vừa giơ cao lá cờ trắng. Súng lại nổ, tung bụi chung quanh người anh ta. Đối phương thấy lá cờ trắng trong tay anh ta, lập tức không bắn nữa. quá nửa đêm, anh ta quay về. Quân giải phóng đồng ý để những người không chống trả có thể ra ngoài, không bị súng máy phong toả.
Một người dũng cảm nói với giọng cảm khái, đối phương là những người nhân đạo, đồng thời anh ta lại than thở. Đáng tiếc họ không cùng một chủ nghĩa với anh ta.
Ra trước là một số lính Hán trắng, họ giơ cao hai tay chạy về phía đối phương. Những người dưới trướng Thổ ti sợ chết đều đi về miền tây, đi về nơi người Hán chưa đến.Thổ ti Mạch Kỳ bảo tôi đi ngay, tôi nhìn mẹ, mẹ vẫn không muốn đi. Mẹ không muốn đi, tôi cũng không thể đi nổi. Ai cũng biết, những người ở lại trong toà nhà này sẽ là đêm cuối cùng sống trên đời. Mọi người lại uống rượu. Đó là một đêm mùa xuân đang đến. Gió ẩm quét sạch mùi khói đạn.Trong kho dưới tầng hầm, cái mùi ngọt ngọt pha chút ẩm mốc bốc lên, vây quanh những con người như ngủ như thức. Viên sĩ quan Hán trắng không biết đấy là mùi gì, cứ khịt khịt hít vào. Người nhà Mạch Kỳ đều biết đấy là mùi hỗn hợp của lúa mạch, bạc trắng và thuốc phiện.Tôi ngủ thiếp đi trong cái mùi như mộng mơ, như ảo giác thật dễ chịu ấy.
Thời gian còn lại của đêm hôm ấy, tôi chìm trong giấc mơ, mơ chuyện linh tinh vụn vặt, nhưng mơ thấy toàn những sự việc mà tôi đã trải qua trong đời. Khi nắng chiếu vào mắt, tôi tỉnh dậy, phát hiện mình đang ngủ trong căn phòng thời nhỏ của tôi, ngủ trên cái giường thời nhỏ tôi vẫn ngủ. Cũng vào lúc này, cái buổi sáng tuyết rơi ấy, lần đầu tiên tôi cho tay vào ngực Trác Mã. Chính ở đây, cái buổi sáng tuyết rơi, hoạ mi hót ngoài cửa sổ, cơ thể cô hầu đã thức tỉnh một chút hiểu biết say ngủ trong cái đầu ngốc nghếch.Từ buổi sáng hôm ấy, kí ức tôi bắt đầu trong căn phòng này, trên cái giường này. Năm ấy tôi mười ba tuổi, đời tôi bắt đầu từ năm mười ba, lúc này tôi không biết mình đã bao nhiêu tuổi.Trong nhà chỉ còn một mình tôi, tôi thấy tôi trong gương.Trời ơi, trán tôi đã có nếp nhăn! Nếu mẹ vẫn ngồi bên tôi như buổi sáng năm xưa, tôi sẽ hỏi mẹ, thằng con nốgc của mẹ đã bao nhiêu tuổi rồi? Ba mươi, bốn mươi? hay năm mươi? Rất nhiều năm tháng qua nhanh.Tôi đến bên cửa sổ, sương mù ngoài kia đang tan dần, tiếng chim hót véo von, tưởng chừng thời gian ngưng đọng, cuộc đời vẫn dừng lại từ bao năm trước.
Tôi nghe thấy tiếng chim họa mi, nghe thấy cả tiếng chim bạch linh và tiếng sơn cước mỏ xanh.
Bỗng, chim hoảng hốt vụt bay lên từ những cành cây, từ những bụi cỏ. Chúng lượn vòng trên không trung, ríu rít kêu như không muốn đậu xuống mặt đất. Cuối cùng, chúng vỗ cánh bay đi. Đồng ruộng, đồi núi chung quanh tĩnh lặng, nhưng mọi người cảm thấy nguy hiểm đang đến gần.Trong toà nhà to lớn, mọi người cầm súng nhốn nháo chạy, chiếm những ô cửa sổ có thể nổ súng.
Chỉ có mẹ tôi vẫn bình tĩnh, bà dặn đám thuộc hạ nấu nước trà trên bếp lò, rồi ngồi viên những điếu thuốc phiện. Mẹ rửa mặt bằng sữa bò, xức một chút nước hoa, mặc cái áo dài màu hồng nhạt, nằm bên bàn đèn. Mẹ nói “Con ơi, ngồi xuống đây, đừng đứng như thằng ngốc thế kia”.
Tôi ngồi xuống, bàn tay nắm chặt khẩu súng ướt đẫm mồ hôi.
Mẹ nói “Cho mẹ nhìn con, mẹ đã chia tay với cha con rồi”.
Tôi ngồi ngẩn ngơ để mẹ nhìn. Nước trà sôi lục bục trên cái lò nhỏ. Mẹ nói “Con, mẹ cho con biết thân thế mẹ nhé”.
Tôi nói tôi đã biết.
Mẹ tôi thở dài, nói “Đời mẹ thật xứng đáng chết trong số những người chết hôm nay”. Mẹ nói, trước đây mẹ là người Hán, bây giờ là người Tạng. Cứ ngửi cơ thể thì biết, từ đầu đến chân toàn là mùi người Tạng.Tất nhiên, điều mẹ cảm thấy thoả mãn nhất là, từ thân phận hèn hạ trở thành người thượng lưu. Mẹ bảo tôi cúi xuống, ghé vào tai tôi nói nhỏ “Mẹ từ một đứa con gái nghèo đói biến thành một bà Thổ ti, thành một người phụ nữ đúng nghĩa”.
Mẹ thổ lộ những bí mật giấu kín trong lòng từ bao năm nay. Mẹ đã từng làm gái điếm. Mẹ nói ra điều này làm tôi lại nghĩ đến cái nhà to vẽ vời xanh đỏ ở cái phố trên biên giới, nghe thấy tiếng máy hát nỉ non, ngửi thấy mùi thịt nướng và đậu hầm.Trên giường bà Thổ ti không có cái mùi ấy. Bà sai người hâm rượu trong cái ấm pha trà, dùng rượu nóng chiêu mấy viên thuốc phiện. Bà lại sai người hâm ly rượu thứ hai. Giữa lúc ấy mẹ bảo tôi cúi xuống, hôn lên trán tôi, nói khẽ “Thế là mẹ khỏi phải lo thằng ngon của mẹ có phải là ngốc hay không”.
Mẹ lại nuốt thêm vài viên thuốc nữa. Mẹ nằm nghiêng bên cái bàn đèn chạm trổ hoa văn, lẩm bẩm “Trước đây, muốn hút một điếu thuốc phiện, chỉ lo tiền, ở nhà Mạch Kỳ chưa bao giờ phải lo chuyện ấy, thật đáng lắm”. Sau đấy, mẹ nhắm mắt ngủ. cô hầu đưa tôi ra khỏi phòng.Tôi muốn quay lại nhìn, lúc này bỗng có tiếng rít xé tan bầu không khí tĩnh mịch của buổi sáng.
Đối phương tấn công suốt mấy ngày, lại thả những người sợ chết ra ngoài, coi như nhân đạo lắm rồi. bây giờ thì họ không còn khách khí, tấn công không để bọn lính chống lại.Tôi muốn một phen dao đấu dao, súng đấu súng với họ, nhưng họ không còn kiên nhẫn nữa rồi, họ tấn công bằng pháo lớn.
Một viên đạn pháo rơi ngay trên khoảng đất trống, một tiếng nổ, khoét một hố sâu. Cái cột hành hình gãy đổ, tung ra bốn phía. Lại một phát đạn pháo rơi phía sau nhà. Nã hai phát pháo, đối phương lại nghỉ.Thổ ti Mạch Kỳ vẫy tay gọi tôi đến.Tôi chạy đến, chờ cho đạn pháo rơi xuống, nhưng không có quả nào rơi xuống nữa.Tôi có dịp nói với cha, mẹ đã uống rượu và nuốt thuốc phiện.
Cha nói “Ngốc ạ, mẹ con tự tử đấy”.Thổ ti Mạch Kỳ không khóc, chỉ cười nhăn nhó khó coi, giọng nói khàn khàn “Thôi được, bà ấy khỏi phải sợ bụi đất làm lấm áo quần”.
Lúc này tôi mới biết mẹ tự tử.
Viên sĩ quan Hán trắng vứt sung, ngồi thụp xuống đất, tôi nghĩ ông ta sợ. Ông ta nói, không còn ý nghĩa gì, người ta dùng pháo lớn, quả đạn thứ ba sắp rơi xuống đầu chúng ta. Phần đông vẫn nắm chắc súng trong tay.Trên trời lại có tiếng rít của đạn pháo. Không phải là một quả, mà là một loạt đạn pháo rít ngang mái nhà. Đạn pháo rơi xuống, toà nhà rung lên trong tiếng nổ. Hàng loạt tiếng nổ, lửa loé sáng, khói, bụi bay lển, che chắn tất cả những gì đang ở trước mắt.Tôi không ngờ con người trước khi chết lại không nhìn thấy thế giới. Nhưng rõ ràng, chúng tôi trước khi chết không nhìn thấy thế giới.Trong tiếng nổ dồn dập, cuối cùng cái toà kiến trúc to lớn xây bằng đá của nhà Mạch Kỳ đổ xuống, chúng tôi cũng đổ theo toà nhà. Quá trình đổ xuống thật tuyệt vời, con người có cảm giác được bay lên.