Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Bụi trần lắng đọng

Chương 4: Khách quý

Tác giả: A Lai

Sáng sớm hôm ấy chúng tôi xuất phát từ nhà, đi hơn chục dặm mới đến khu đón khách.

Đàn ông thì biểu diễn tài cưỡi ngựa và bắn súng.

Lạt ma của gia đình và Lạt ma của chùa trình diễn trống kèn và thần vũ, các vị Lạt ma cũng phải ra sức thi thố tài năng. Cứ bình tâm suy xét, chúng tôi cũng muốn các vị Lạt ma có cuộc cạnh tranh như thế. Nếu không, địa vị của họ quá là cao. Nếu không có cạnh tranh thi thố, họ có thể nói với mọi người, Phật bảo thế này, Phật bảo thế kia.Thổ ti không thể không để họ nói lung tung. Nhưng một khi giữa họ có vấn đề, họ sẽ đến cầu chúc cho gia tộc Thổ ti thêm hưng thịnh. Họ hứa, lời cầu chúc của họ hơn hẳn những người khác.

Chỗ chúng tôi, một con cừu vừa được thả vào nồi, nước trà vừa toả hương thơm, những cái bánh bột hình cái tai vừa được cho vào chảo mỡ, chợt thấy trên sườn núi một đám khói, hai đám khói, ba đám khói cuồn cuộn lên trời xanh, đó là tín hiệu khách quý đã đến.Thảm trải trong lều và ngoài trời.Thức ăn bày sẵn lễn những cái bàn thấp đặt trên thảm, thức ăn có cả bánh rán hình tai động vật vừa được vớt từ chảo mỡ ra. Hãy nghe, có tiếng gọi khe khẽ.

Mấy hồi tù và vang lên. Một đám bụi vàng, đội kỵ mã của chúng tôi xông lên.

Theo sau là đoàn người tay nâng khăn lụa trắng mừng khách, trong đó có mấy giọng hát rất vang.

Theo sau là những hoà thượng tay cầm kèn vỏ ốc biển và kèn xô na.

Cha tôi dẫn khách quý, dọc đường lần lượt gặp ba tốp người ra nghênh tiếp. chúng tôi nghe thấy tiếng súng, tiếng súng của đội kỵ mã, tiếng súng thay cho tiếng pháo chào mừng. Sau đấy là tiếng hát của người dân. Khi tiếng kèn vỏ ốc và tiếng xô na chào mừng vang lên, các vị khách đã đến ngay phía trước chúng tôi.

Thổ ti Mạch Kỳ dừng ngựa, mọi người đều thấy vẻ vui mừng đắc ý của ông, nhưng các vị quan chức trên tỉnh về lại không tỏ ra uy phong lẫm liệt như chúng tôi tưởng. Đấy là một người gầy, ông ta bỏ cái mũ trên đầu ra vẫy vẫy mọi người. Một tiếng “hu la”, đám người lạc hậu sống ngoài vòng giáo hoá, quỳ rạp xuống thảm cỏ khô vàng. Đám gia nô khom lưng trải tấm thảm đến tận chân ngựa, hai gia nô nhỏ lập tức chống tay chống chân làm bậc thang, một trong số đó là Trạch Lang bạn tôi.

Vị người Hán gầy gò đội mũ thật ngay ngắn, nâng cái kính đen lên, nhắc chân, giẫm lên lưng thằng Trạch Lang, từ trên lưng ngựa bước xuống. Ông ta vẫy vẫy tay, mấy chục binh sĩ mũ áo tề chỉnh rầm rập đi tới trước mặt ông ta, khi Thổ ti đến bên bà vợ, chỉ nghe thấy một tiếng “rộp”, họ đồng loạt chào vợ chồng Thổ ti theo kiểu nhà binh. Sau đấy, ông đặc phái viên Hoàng Sơ Dân dâng tặng lụa là, ngọc thạch, vàng bạc cho bà Thổ ti, gọi là chút lễ vật làm quen. Bà Thổ ti dâng một bát rượu và một cái khăn lụa vàng. Các cô gái cũng dâng rượu và tặng khăn chúc mừng cho những binh sĩ người Hán. Các vị Lạt ma nổi trống, nổi kèn chúc mừng.

Ông đặc phái viên vào ngồi trong lều, cha hỏi người thông ngôn có thể múa hát chào mừng được chưa. Người thông ngôn nói “Hãy đợi đã, ngài đặc phái viên chưa làm thơ xong”.Thì ra, vị khách quý người Hán này là một nhà thơ. Ở chỗ chúng tôi nhà tơ không có cơ hội gánh vác trách nhiệm nặng nề như thế này. Đầu tiên, tôi thấy ông ta lim dim cặp mắt cứ ngỡ ông ta say sưa với các món ấy và các cô gái xinh đẹp.

Ông đặc phái viên nhắm mắt ngồi một lúc, rồi ông mở mắt, nói đã làm xong bài thơ. Ông rất phấn khởi ngắm nhìn các cô gái múa hát, đến chỗ các vị Lạt ma trình diễn thần vũ, ông ngáp dài, thế là, được đám binh sĩ dìu đi hút thuốc. Mọi người nói, đặc phái viên phải hút thuốc cho tỉnh người, Các vị Lạt ma cụt hứng, động tác múa may bỗng chậm hẳn lại.Thật hiếm khi mới có dịp để Phật sống chùa Mẫn Chu Ninh ra tay, một bức thêu Thích ca Mâu ni được rước vào nơi biểu diễn thần vũ. Chỉ nghe một tiếng “rụp”, mọi người đều rạp xuống, bước chân các vị tăng lữ đang nhảy múa bỗng cao hẳn lên.

Thổ ti nói với vợ “Thầy Phật sống mệt mỏi quá!”

Mẹ nói “Phải, nếu biết trước, việc gì phải làm thế này”.

Cha cười khoái chí. Ông nói “Đáng tiếc, cũng it người biết”.

“Có thể để họ hiểu được cái lẽ này thì đã muộn”.

Phật sống đeo kính đến gặp, vẻ mặt không được tự nhiên. Cha cầm cánh tay béo mập mềm nhũn của ngài, nói “Chúng ta sẽ tính số với Thổ ti Uông Ba.Thầy đọc kinh cho chúng tôi, phù hộ chúng tôi chiến thắng”. Vị Phật sống nhiều năm nay bị đối xử lạnh nhạt, lúc này vẻ mặt bỗng hồng hào sáng láng.

Cha lại nói “Ngày mai tôi sẽ sai người đem lễ vật bố thí đến dâng thầy”.

Phật sống chắp tay cáo lui.

Trong lều, binh sĩ đi với ông đặc phái viên lúc này được thay bằng một cô gái của chúng tôi, hai mắt ông ta sáng như động vật đi đêm.

Tiết mục cuối cùng của buổi sáng hôm nay là chụp ảnh.

Cả nhà chúng tôi ngồi quanh ông đặc phái viên, lúc này tôi mới phát hiện anh trai tôi chưa về. Anh đi sau áp tải vũ khí, súng trường, súng máy, đạn dược.

Người chụp ảnh là ông thông ngôn, tức là người ngày nay gọi là phiên dịch. Hồi ấy, ở chỗ chúng tôi gọi người biến tiếng này sang tiếng khác là thông ngôn. Cha ôm tôi vào lòng, ông đặc phái viên ngồi giữa, mẹ tôi ngồi ở một góc khác. Đây là tấm ảnh đầu tiên trong lịch sử nhà Thổ ti Mạch Kỳ. bây giờ nghĩ lại, thuật chụp ảnh đến chỗ chúng tôi thật đúng lúc, tưởng chừng đến để ghi lại thật rõ ràng hìnhản những ngày cuối cùng của chúng tôi. Nhưng hồi ấy chúng tôi coi đấy là bước mở đầu để gia tộc chúng tôi thịnh vượng hơn xưa. Hồi ấy, cha mẹ tôi đang tràn trề sinh lực, nhưng ảnh làm chúng tôi ngây đuỗn, giống như những nhân vật sắp biến mất theo số phận.Trong ảnh, cha như người không sống không chết. đâu biết rằng, lúc ấy ông âm mưu, chuẩn bị liều một phen với người hàng xóm, sẽ bất ngờ cho một đòn chí tử. Ở một mức độ nào đấy, ông đang là một nhân vật nghĩ được là làm được.

Mấy hôm sau, anh tôi đưa vũ khí mới mua về.

Mảnh đất bên cạnh khuôn viên ngựa chạy không đến tận cùng, suốt ngày bụi mù mịt, trở thành thao trường luyện quân của nhà tôi.Trung đội lính ông đặc phái viên đem về trở thành những vị huấn luyện nghiêm khắc. Chỉ cần một ai trong số họ hô khẩu lệnh, người của chúng tôi lập tức miệng hô theo, chân thẳng đơ, xếp thành hình khối vuông vức, Bước đều tăm tắp.Tất nhiên, họ còn chưa biết mục tiêu cụ thể, chỉ hô khẩu hiệu thế thôi, chân bước tung bụi mù mịt, đi đến cuối bãi lại hô to, tung bụi quay trở lại. Điều này hoàn toàn khác với huấn luyện trước khi bước vào đánh nhau mà chúng tôi vẫn hiểu.

Cha muốn hỏi ông đặc phái viên như thế là nghĩa làm sao, luyện quân như thế có thực sự giúp ông đánh bại Thổ ti Uông Ba không. Không chờ cha tôi hỏi, ông đặc phái viên nói trước “Chúc mừng ông, Thổ ti Mạch Kỳ, ông đã trở thành người có đội quân chính quy nhất trong số các Thổ ti. Ông sẽ là người bất khả chiến thắng!”.

Cha tôi cảm thấy lời nói ấy có phần khó hiểu, liền hỏi mẹ “Trước đây mình đã thấy luyện quân như thế nào chưa?”

Mẹ nói “Tôi chưa thấy huấn luyện thành một đội quân giỏi bằng một cách khác”.

Ông đặc phái viên cười khà khà. Cha đành phải tiếp nhận cách nói ấy. Liệu ai có thể bảo chúng tôi bó tay trước một kẻ phản bội? Suốt một thời gian dài, viện binh mà Thổ ti đưa về không dạy người của chúng tôi cách bắn súng.Thời tiết ấm dần, họ vẫn hò hét tập đi đều trên thao trường. Không ai hiểu được đánh trận phải tập đi đều, làm bụi mù bầu không khí tháng ba ẩm ướt để làm gì. Người anh khác mẹ của tôi cũng vác súng, mồ hôi nhễ nhại đi trong đội ngũ tung bụi mù kia. Cuối cùng, anh cũng không chịu nổi, chạy đi hỏi cha “Phải cho chúng tôi đạn chứ?”

Cha đi hỏi ông đặc phái viên. Vậy là họ mỗi ngày được ba viên đạn. phát đạn nhưng vẫn chưa được tập xạ kích. Ngoài việc tập đi đều còn được tập thêm đâm lê. Mấy hôm sau, anh trai lại hỏi cha. Cha nói với ông đặc phái viên, sắp đến mùa gieo hạt, đất đai thôn bản kia vẫn nằm trong tay Uông Ba.

Ông đặc phái viên nói “Không vội”.

Thổ ti Mạch Kỳ biết mình đã mời về một vị thần tiên không dễ bảo. Một khi có dự cảm không hay, cha lại mời Lạt ma đến bói toán xin quẻ. Kết quả thầy nói, những đất đai mất đi sẽ lấy lại được, biết đâu có thêm một vài trại ấp khác, nhưng phải trả giá.

Hỏi có chết người không? Không.

Hỏi có mất bạc trắng không? Không.

Hỏi cuối cùng thế nào? Nói không thấy rõ.

Lạt ma của gia đình không xong, lập tức sai người đi mời Phật sống trên chùa về, kết quả lời trong quẻ bói cũng nói như thế. Phật sống nói, ngài trông thấy hoa giống như ngọn lửa, còn hoa ấy dự báo điều gì thì khó mà biết.

Thổ ti Mạch Kỳ dặn đổi cho ông đặc phái viên hai cô gái khác, đồng thời khiêng đến một hòm bạc trắng. Công việc do mẹ tôi đứng ra làm.Thổ ti nói với mẹ “Chuyện này mình phải ra tay, tôi không hiểu tâm tư người Hán, mình phải làm chuyện này”. Mẹ rất vui vì Thổ ti có được cảm giác ấy, từ đấy, bà được làm một bà Thổ ti có quyền hành cùng mọi người lo toan công chuyện.Trước khi chưa là bà Thổ ti, mẹ không dám nghĩ lại có ngày ngồi ngang hàng với ông đặc phái viên. Hôm sau, ông đặc phái viên nói “Các cô gái tuyệt lắm, bạc thì bà cứ đưa về. Chính phủ chúng tôi đến giúp người Di các người không phải vì tiền bạc, mà vì nền cộng hoà, vì trật tự quốc gia Trung Hoa dân quốc. Còn hai cô gái, xét thấy việc này không liên quan gì đến tập tục của vùng chưa được giáo hoá, nên cũng không muốn làm phật lòng quý vị”. Ông ta còn nói thêm “Thưa bà, nghe nói bà là người Hán? Sau này có việc gì cần, xin được bà giúp đỡ. Biết đâu, sẽ có ngày nào đấy, nơi này không phải là của đám người Di, mà là đất chính phủ phong cho quý bà”.

“Xin ông đừng nói đến đất phong, nếu quân đội của các ông không cướp sạch cửa hàng của cha tôi, thì tôi cũng không lưu lạc đến vùng này”.

Ông đặc phái viên nói “Việc ấy không khó gì, chúng tôi có thể bồi thường”.

“Người chết cũng có thể bồi thường sao? Hai sinh mệnh cha mẹ tôi?”

Ông đặc phái viên không ngờ bị thất bại trong việc tìm kẻ đồng mưu, liền nói “Quý bà quả là bậc nữ lưu đại trượng phu, xin bái phục bái phục!”.

Trong chuyện này mẹ tôi tỏ ra là người quang minh lỗi lạc. Bà chỉ nói với cha rằng, ông đặc phái viên trả lại hòm bạc trắng. Cha không biết mình phải làm thế nào, chỉ biết cắn răng nói “Có ngày tôi phải giết chết cái thằng ấy!”.

Ông đặc phái viên nói “Có thể, tôi gọi Thổ ti Uông Ba đến, chúng ta cùng mở cuộc họp”.

Cha nhìn ông đặc phái viên, khuôn mặt vàng ệch của ông ta lúc này tỏ ra nghiêm túc. Ông dặn người quản gia “Sai người đưa thư đi”.

Người đưa thư đi và về ngay. Không ngờ, vận may trời cho rơi vào Thổ ti Mạch Kỳ.Thổ ti Uông Ba không trả lời thư của cái gã “quan chức người Hán chó đẻ” kia, mà gửi biếu một đôi ủng tuyệt đẹp, rõ ràng là bảo ông đặc phái viên hãy cút đi. Ông ta không hiểu ngầm ý ấy, mẹ phải giải thích thật cặn kẽ.

Vị khách tôn quí của chúng tôi nổi cơn thịnh nộ.

Tiếng súng trên thao trường nổ dồn dập. mọi người đều biết, chúng tôi sắp đánh trận đến nơi rồi.

Ba hôm sau, trung đội lính chính quy của chính phủ cùng mấy trăm binh sĩ của chúng tôi kéo nhau ra biên giới. vừa vào trận, súng máy của chúng tôi kiếm được từ chính phủ quân quản trên tỉnh lia cho đối phương không ngóc đầu nổi. Bọn chúng chỉ biết kêu gào, súng hoả mai trong tay không bắn nổi.Trong khoảng thời gian ăn xong bữa cơm, đã thu hồi được trang trại của bọn làm phản.Tên cầm đầu biết mình có tội, bỏ chạy, để người nhà lại chịu tội chết thay. Cả nhà bị trói gô, quỳ dưới gốc cây hạnh đào trước ngõ. Mặt trời lên cao, sương đêm dưới chân họ khô dần. Họ thấy gươm súng của người canh giữ không đụng đến người, cho rằng Thổ ti sẽ không giết họ. Những khuôn mặt tái nhợt dần dần lấy lại khí sắc. Nhưng họ không biết rằng, Thổ ti Mạch Kỳ không như các Thổ ti khác, không choi binh lính giết tù binh. Nhà chúng tôi từ mấy trăm năm trước có Thổ ti Mạch Kỳ đến nay, có đao phủ riêng.Trên mảnh đất này, có ba người cha truyền con nối, thứ nhất là Thổ ti, thứ hai là đao phủ Nhi Y, thứ ba là thư ký. Đáng tiếc, viên thư ký đời thứ ba ghi chép thật thà thế nào đấy, bị Thổ ti đời thứ tư truất bỏ, khiến không còn biết đích xác Thổ ti Mạch Kỳ chúng tôi đến đời thứ mấy rồi. Càng không thể nói đao phủ đã là đời thứ bao nhiêu. Lúc này, đao phủ đã đến, trông ông ta đúng là kẻ chuyên giết người, cánh tay dài, chân dài, cổ cao lêu đêu.Trước khi hành hình, cha nói với mấy người sắp chịu tội “Là người của các người để các người lại chịu tội thay, tôi cũng không có gì phải khách khí. Lẽ ra, tên phản bội kia không bỏ chạy, các người không phải mất mạng”.

Những người vốn mong Thổ ti cho họ con đường sống, lúc này nét kiên cường trên khuôn mặt đã biến mất. Chừng như họ vừa nhớ ra, mình không phải là tù binh trong trận chiến với kẻ địch, mà là bị chủ của họ phản bội. Vậy là, chân họ mềm nhũn, quỳ thụp xuống van xin được tha tội chết. Đây là kết quả mà cha mong đợi. Chờ cho những người kia quỳ xuống, cha khoát tay, lưỡi dao trong tay đao phủ loang loáng vung lên, mấy cái đầu lăn trên mặt đất. Những khuôn mặt lăn trên mặt đất vẫn giữ nguyên vẻ sống động. Những thân thể không còn đầu, tưởng như giật mình kinh hãi vô cùng, đứng ngây ra hồi lâu rồi mới ngã vật ra đất.

Tôi ngước lên nhìn bầu trời, không thấy có linh hồn nào lên trời. Người ta vẫn nói người có linh hồn, tại sao tôi không trông thấy?

Tôi hỏi mẹ, mẹ tôi trừng mắt, đi đến bên chồng.

Đó là ngày đầu tiên của cuộc chiến.

Hôm sau, lửa chiến tranh cháy đến địa bàn của Thổ ti Uông Ba.

Ông đặc phái viên, Thổ ti, bà Thổ ti dẫn một số người đến nơi không nguy hiểm để quan sát trận đánh.Tôi cũng có mặt trong số họ. Anh tôi và viên trung uý đội trưởng dưới quyền ông đặc phái viên cùng chỉ huy binh lính. Người của chúng tôi băng qua con suối ở giữa thung lũng làm rang giới địa hạt của hai Thổ ti, chui vào những rừng rậm. chúng tôi xem trận chiến đấu không trông thấy người. Chỉ có tiếng súng nổ vang vọng bầu trời. So với hôm qua, người của Thổ ti Uông Ba kiên cường hơn nhiều, hôm nay họ chiến đấu vì cơ ngơi của họ, còn chúng tôi thì từng bước tiến lên nhờ vào hoả lực mạnh. Chỉ lát sau đã chiếm được một xóm trại ngay trước mặt. Một cái nhà bị cháy, ngọn lửa bùng lên cao. Một người như con chim bay ra từ trong đám cháy, đến chỗ trống thì bị ngay một viên đạn, mặt ngửa lên trời, ngã vật ra đất.

Chỉ lát sau xóm trại biến thành một biển lửa.

Ông đặc phái viên có cái ống nhòm. Lúc xóm trại thứ ba bốc cháy, ông ta há cái miệng có hàm răng vàng khè ra ngáp một cái thật dài, gọi một anh lính nhỏ có khuôn mặt trắng trẻo, dìu đến một gốc cây, hút thuốc. Cha đưa ống nhòm lên mắt, nhưng ông không biết điều chỉnh, nên không trông thấy gì.Tôi cầm cái ống nhòm, hí hoáy một lúc, cuối cùng cũng tìm thấy chỗ điều chỉnh, xoay đi xoay lại, bỗng “Cạch” một tiếng, cảnh sắc sườn núi trước mặt đến sát mũi.Tôi thấy người của chúng tôi đang lom khom như mèo bên các mô đất, mô đá. Khẩu súng trong tay họ chốc chốc lại nhả khói xanh nơi đầu nòng.

Có người ngã trên một khu đất trống trải.

Một người, lại một người.Trước lúc ngã họ đều vẫy vẫy tay, rồi há to miệng, cạp đất. hai người này đều quay lại, định chạy xuống núi. Lại một người nữa ngã xuống, khẩu súng trong tay anh ta văng ra xa. Bất ngờ tôi reo lên “Đi nhặt súng, thằng ngốc ơi, đi nhặt khẩu súng!”

Nhưng người kia vẫn nằm bất động, không nghe theo mệnh lệnh của tôi.Tôi nghĩ, anh ta chỉ nghe lệnh của anh trai tôi. Anh tôi, không phải tôi, sẽ là Thổ ti Mạch Kỳ sau này, những người lính kia cũng không phải của tôi, mà là của anh tôi.Tôi rất buồn. Anh tôi rất dũng cảm, xông lên trước đoàn quân. Anh cầm súng, nghiêng mình chạy, tấm bùa hộ thân làm bằng bạc lấp lánh dưới nắng. hễ anh giơ súng là có một người ngồi trên cây dang tay như con chim bay, rơi xuống vòng ôm của đất.Tôi phấn khởi reo lên “Chết rồi! Chết rồi!”. Cảm giác như anh tôi cho tôi kết quả.Thổ ti Mạch Kỳ đang lo cho thằng con khác.Thấy tôi cầm ống nhòm và reo lên, ông sốt ruột khoát tay “Bảo ai đấy đưa nó vào nhà, tôi không trông thấy gì sất, chẳng nhẽ một thằng ngốc có thể thấy à?”

Tôi muốn nói với ông, tôi thấy tất cả, không những hôm nay mà thấy tất cả những gì của ngày mai. Đó là câu nói bỗng trào ra cửa miệng tôi, nhưng tôi không dám nói ra, vì không biết ngày mai mình sẽ trông thấy những gì. Lúc này, người của chúng tôi đã chiếm lĩnh được mục tiêu, băng qua sườn núi bên kia, tấn công vào sâu trong thung lũng.

Đến chiều tối thì ngưng chiến.Thổ ti Uông Ba sai người đưa đến một cái tai, trên cái tai còn có chiếc khuyên bạc. Mảnh vải đậy được từ từ mở ra. Cái tai nhảy nhót trong khay, chiếc vòng bạc va chạm vào khay đồng kêu leng keng.

Cha nói “Thằng phản bội chưa chết”.

Người đưa tai đến nói “Ông giết tôi đi!”.

Cha nói “Mày định gieo tiếng xấu cho tao à?”

“Ông đã có tiếng xấu rồi, ông mời người Hán đến giúp ông đánh nhau thì đó đã là luật chơi xấu, vậy ông còn muốn tốt đẹp gì nữa?” Người của bên kia nói tiếp “Người trong nhà đánh nhau mà đi mời người ngoài đến giúp, cứ so sánh xem, giết một người của bên kia đến, liệu có việc gì?”. Đúng vậy, ở chỗ cô tôi, thông gia với nhau phải xem xương cốt bên kia. giữa các Thổ ti đều là người thân thuộc. Nhiều lần thông gia tạo nên quan hệ thân thích lâu đời.Thổ ti Mạch Kỳ và Thổ ti Uông Ba cũng không ngoại lệ. Hai nhà chúng tôi vừa là bà con vừa là anh em họ. Lần này đánh nhau xong, có thể lần sau chúng tôi lại có quan hệ hôn nhân. Quả là không thể hiểu nổi mối quan hệ nào đúng đắn hơn.

Cha nói “Tao không cần cái mạng của mày, cho dù chúng mày đưa cái tai sang lừa dối, tao cũng phải lấy một cái tai của mày, để mày biết một kẻ bề dưới phải như thế nào với Thổ ti”. Dưới ánh đèn, con dao loang loáng lạnh lùng, một cái tai rơi xuống, dính đầy đất bẩn.

Ông đặc phái viên từ trong bóng tối bước ra, nói với người mất một tai “Ta là người mà Thổ ti bên chúng mày biếu ủng. Về nói với hắn ta, một đôi ủng của Thổ ti làm sao lay chuyển được một đặc phái viên chính phủ quân quản cấp tỉnh.Thổ ti Mạch Kỳ tôn sùng chính phủ, về bảo hắn ta hãy xem đấy mà học.Trước lúc nửa đêm hãy đem cái đầu của thằng kia đến đây, bằng không, ta sẽ cho hắn biết”.

Người kia ung dung nhặt cái tai của mình lên, thổi sạch bụi đất khom người lui ra.

Quả nhiên cái đầu của kẻ phản nghịch được chém rời.Thổ ti Uông Ba còn bày tỏ, vì chiến bại, sẽ cắt một mảnh đất lớn gấp đôi mảnh đất của kẻ phản nghịch, đem hiến cho nhà bên này gọi là bồi thường.

Tiếng hò reo hoan hô thắng lợi lập tức nổi lên trong đêm. Đốt lửa lên, rượu được mở ra, mọi người nhảy múa quanh lửa và rượu.Tôi nhìn vầng trăng hạ tuần nơi chân trời, nhớ đến Trác Mã đang ở nhà. Nhớ đến mùi cơ thể, bàn tay và bầu vú của cô ta.

Anh tôi, người anh hùng trong chiến đấu, dang rộng cánh tay, bước vào vòng múa hát dưới ánh trăng.Tiết tấu của điệu múa mỗi lúc một nhanh, vòng múa mỗi lúc một thu hẹp, chẳng mấy chốc đạt đến cao trào. Cô gái được anh tôi cầm tay kêu ré lên.Tiếng kêu hơi quá, như muốn để mọi người biết cô ta đang rất vinh dự và vui sướng được múa cùng người anh hùng tôn quý. Mọi người hoan hô anh tôi. Vẻ mặt anh tôi đang toả sáng bên ánh lửa, trông sống động hơn, rạng rỡ vui tươi hơn mọi ngày.

Trong căn nhà ngay sau lưng nơi chúng tôi đang nhảy múa, thân nhân của hai kẻ trận vong đang khóc lóc bên hai thi thể.

Bên kia số người chết nhiều hơn, xác chết vẫn phơi nơi hoang dã. Lũ sói đã ra. Những tiếng hú dài chấn động thung lũng.

Quan trọng hơn, vào cái đêm thắng lợi này, cha không thật vui. Vì một anh hùng mới ra đời, có nghĩa là, người anh hùng hiện tại đã già.Tuy người anh hùng mới là con trai, nó không vì thế mà ông không buồn.Trước người anh hùng mới, người anh hùng không thể tỏ vẻ hùng dũng vốn có. Anh tôi thì vẫn chìm trong niềm vui. Người cha cảm thấy hạnh phúc vì người con trai tài giỏi, rất đáng khâm phục. Niềm hạnh phúc của anh tôi ở chỗ, anh cũng như tôi không cố tách mình khỏi những người dân thường. hãy nhìn, anh đang vừa chuốc rượu với một người đàn ông, vừa đùa bỡn với một cô gái, người đàn ông kia lại là anh trai của cô gái. Cuối cùng, anh tôi đưa cô gái vào rừng.Từ rừng ra, anh đến viếng linh cữu người chết trận. Còn tôi thì buồn ngủ.

Lúc hoả táng người chết trận, cha tôi còn chưa tỉnh rượu.

Tôi lên lưng ngựa, lắc lư thân mình, nghe mọi người hát bài ca đau thương tiễn đưa người chết. Đoàn người xếp hàng dài đi trên con đường đầy bụi đất của mùa xuân. Anh tôi đưa tôi một con dao, đó là chiến lợi phẩm của anh, con dao anh cướp trên tay đối phương đang nhằm đâm anh. “Con dao sẽ làm em dũng cảm”. Anh tôi nói.Tôi sờ bàn tay đã từng giết người của anh, bàn tay thật ấm áp, không giống với bàn tay giết người. Vậy là tôi hỏi “Anh giết người ấy thật à?” Anh nắm chặt tay tôi, làm tôi phải nhăn mặt. Anh không nói thì tôi cũng biết, đúng là anh đã giết người.

Bình luận