1980 – 1982
Cũng như cuộc chia tay Nik, tôi đang trong nguy cơ tan vỡ với Joan năm 1980. Tôi làm việc như điên để cứu vớt Virgin và tôi biết rằng Joan ngày càng chán nản về tôi. Dù cho tôi có về nhà muộn cỡ nào, điện thoại vẫn đổ chuông. Mỗi khi chúng tôi thức dậy vào sáng thứ 7, điện thoại lại đổ chuông. Một đêm, tôi trở về căn nhà thuyền và nhận ra mọi thứ thật trống trải. Joan đã ra đi và để lại cho tôi một mẩu giấy: “Em đang mang thai. Em sợ phải nói với anh. Em đã dọn đi. Nếu nhớ em, hãy gọi cho em ở nhà Rose”.
Khi tôi nhìn vào mảnh giấy, tôi nhận ra rằng cuộc sống của tôi đã thay đổi. Tôi ngồi xuống và suy nghĩ phải làm gì. Sau khi Kristen rời bỏ tôi, tôi đã có một vài mối tình. Tôi yêu sự phóng khoáng và tự do. Kể từ khi cô ấy dọn đến ở cùng tôi, tôi lo sợ mình đã xem sự tồn tại của cô ấy là điều hiển nhiên. Cuộc hôn nhân của tôi với Kristen đã khiến tôi hoài nghi về những mối quan hệ lâu dài, và vào lúc đó tôi đã không có một cam kết nào như thế với Joan. Tôi cũng phải chịu sức ép từ bố mẹ khi họ bắt tôi quay trở lại với Kristen còn nếu không sau đó tôi sẽ phải cưới một cô gái tốt nghiệp đại học hay một vận động viên chơi tennis nào đó từ Surrey – mà Joan dứt khoát không nằm trong số đó.
Tôi nhớ mãi ngày tôi nói với bố mẹ rằng Joan đã dọn đến sống cùng tôi. Bố đang ngồi câu cá ven bờ hồ, và mẹ chỉ tay vào con cá hồi đang nổi lên.
Trong sự im lặng kéo dài sau đó, Bố đã quăng trượt cần câu khiến dây bị mắc lại thành một mớ lộn xộn.
“Nó đứt rồi” – Ông nói.
Nhưng khi tôi ngồi trong ngôi nhà thuyền cầm mảnh giấy được viết vội vàng của Joan và nghĩ về đứa con chưa chào đời của chúng tôi, tôi nhận ra rằng tôi thực sự yêu cô ấy. Tận tới lúc đó, tôi vẫn có cảm giác tội lỗi khi muốn lợi cả đôi đường: vừa muốn có một mối quan hệ tuyệt vời vừa không phải cam kết bất kỳ điều gì. Tôi đã vui vẻ với một số mối quan hệ khác và chưa bao giờ nghĩ về hậu quả. Tôi nghĩ rất nhiều đàn ông cảm thấy thích thú khi trôi nổi cả cuộc đời mà không cần đến con cái trừ khi đối phương buộc họ phải có trách nhiệm. Tôi gọi cho Rose, chị gái của Joan và vội vã lao tới để ở bên cô ấy.
Khoảng sáu tháng trong thời gian Joan mang thai, tôi ở Pháp còn Joan đi nghỉ ở Scotland. Cô ấy bị viêm ruột thừa khi ở khách sạn Fort William. Tôi bay đến Scotland để ở cạnh Joan khi cô ấy đang tiến hành ca mổ. Thực tế, cô ấy không bị viêm ruột thừa nhưng lại bị vỡ u nang buồng trứng và bác sĩ đã quyết định cắt bỏ u nang và cắt cả ruột thừa cho cô ấy – một ca mổ nguy hiểm nhất vào thời điểm này và còn nguy hiểm hơn với một phụ nữ đang mang thai sáu tháng. Ca mổ khiến Joan chuyển dạ. Cô ấy được tiêm vào tĩnh mạch để giảm co thắt và chúng tôi lập tức gọi xe cứu thương để đưa cô ấy tới bệnh viện hiện đại hơn tại Inverness. Chuyến đi khắp Scotland trong mưa tuyết là một cơn ác mộng. Mỗi cú xóc trên đường đều khiến Joan đau dữ dội hơn. Khi chúng tôi vừa tới nơi cô ấy đã đau đến cùng cực vì vết mổ, vì chuyển dạ và cố gắng tuyệt vọng giữ lấy đứa bé.
Tại bệnh viện Inverness, chắc chắn một điều là Joan sẽ sinh. Sẽ có rất ít cơ hội để cứu sống đứa trẻ vì phải ba tháng nữa mới tới lúc sinh. Một bé gái được sinh ra chỉ nặng 1,8 kg và chúng tôi đặt tên nó là Claire theo tên dì tôi. Claire hầu như không thể tự bú sữa mẹ và bệnh vện không có các thiết bị cần thiết để cứu nó.
Mặc dù Claire đã mở đôi mắt màu xanh đục sâu thẳm đáng yêu chào thế giới nhưng con bé vẫn ra đi sau đó 4 ngày. Tất cả những gì tôi có thể nhớ về nó bây giờ là hình dáng nhỏ xíu của con tôi. Không ai trong chúng tôi được phép bế hay chạm vào nó. Căn nhà bé xíu của nó là trong lồng kính. Con bé nhỏ tới mức lọt vừa bàn tay tôi. Chúng tôi chăm chú ngắm khuôn mặt nó, ngạc nhiên vì đôi tay bé nhỏ và nét mặt cương quyết trên khuôn mặt con bé khi nó đang ngủ. Nhưng giờ ký ức đó đã phai mờ. Khi tôi cố gắng nhớ tới Claire, tâm trí của tôi bị hỗn độn bởi mùi thuốc sát trùng của bệnh viện, bởi những chiếc ghế kim loại trong căn phòng vải sơn và bởi vẻ mặt của y tá khi cô ấy bước tới nói với chúng tôi rằng Claire đã chết.
Claire đã sống ở một thế giới dành riêng cho con bé, bước vào và ra khỏi cuộc sống của chúng tôi chỉ để lại nỗi đau đớn tuyệt vọng, cảm giác trống trải và tình yêu. Nó thật nhỏ bé và cuộc sống quá ngắn ngủi tới mức tưởng như nó chưa bao giờ có mặt ở đây, nhưng trong thời khắc đau buồn đó nó đã mang Joan và tôi xích lại gần nhau. Tận tới khi tôi nhìn thấy cơ thể thoi thóp của Claire, còi cọc trong tấm tã lót nhỏ bé nhất, ngắm nhìn nó mới xinh đẹp làm sao, và còn biết rằng nó là con của chúng tôi, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng tôi muốn có con đến như thế.
Sau cái chết của Claire, Joan và tôi đã quyết định có con một lần nữa, và trong sự vui sướng của chúng tôi, Joan nhanh chóng mang thai lại trong vòng một năm.
Lại một lần nữa Joan chuyển dạ sớm, lần này là trước 6 tuần. Cả hai chúng tôi đều ngạc nhiên. Tôi đang ở bữa tiệc tại The Venue và trở về nhà vào lúc 3 giờ sáng, lảo đảo vì say xỉn. Tôi ngủ thiếp đi và chỉ chợt tỉnh giấc khi cảm thấy Joan đang đập vào người tôi và hét lên cô ấy đang chuyển dạ. Tôi nhào khỏi giường và ngay lập tức lái xe chở cô ấy tới bệnh viện.
Bác sĩ đã khám cho Joan và dẫn cô ấy tới phòng sản khoa. “Trông cô rất khỏe”, họ chắc chắn với cô ấy.
Sau đó, họ nhìn vào tôi: “Sắc mặt anh xấu quá. Tốt hơn anh nên uống vài viên aspirin và đi ngủ”
Sáng hôm đó, tôi thức dậy và thấy bốn bác sĩ đeo khẩu trang đang chăm chú nhìn tôi.
Tôi tưởng mình vừa trải qua một vụ tai nạn khủng khiếp và đang nằm trong phòng cấp cứu
ở một nơi nào đó.
“Joan đã vượt cạn thành công” – Họ nói. “Hãy đi với chúng tôi”.
Holly được sinh ra, nặng hơn 2,5 kg. Đó là trải nghiệm lạ lùng nhất mà tôi từng trải qua.
Cuối cùng tôi thậm chí còn kiệt sức hơn cả Joan. Tôi tự hứa với chính mình sẽ không bao giờ bỏ lỡ thời khắc chào đời của các con. Tuy nhiên, sau chuyện xảy ra với Claire, mối quan tâm của tôi ngay lúc này đó là làm sao để Holly sống khỏe mạnh.
Chúng tôi lái xe trở về nhà thuyền vào một sáng Chủ nhật lạnh căm năm 1981, và Joan ngồi ẵm Holly thật chặt trên giường. Cả mùa đông còn lại hai mẹ con cô ấy đều ở phòng ngủ trong khi tôi làm việc ở phòng kế bên.
Năm 1981, Virgin Music cuối cùng đã bắt đầu kiếm ra tiền. Japan đã cho ra các album hit Gentlement Take Polaroids và Tin Drum. Một trong số những đĩa đơn hit gần đây của chúng tôi là General and Majors và Sgt Rock của XTC và Trouble và New Orleans của Gillian; The Professionals và The Skids cũng nối tiếp thành công. Chúng tôi vẫn không biết Phil Collins sẽ đem lại những gì, và – việc thứ 24 trong danh mục những việc phải làm của tôi vào tháng đó – đó là thu xếp để tới Scotland tham dự buổi hòa nhạc của một trong những ban nhạc mới của chúng tôi, Simple Minds. Album của Simple Mind – New Gold Dream, đã lọt vào top bán chạy nhất.
Tin mới nhất năm 1981 là dự đoán của Simon về The Human League đã trở thành sự thật. Hai album đầu tiên của họ ra đời với mục đích thăm dò thị trường, tuy nhiên đã tạo dựng được một số lượng đông đảo người hâm mộ trung thành. Khi chúng tôi thông báo doanh số của họ liên tục tăng ổn định, chúng tôi biết rằng chúng tôi đang có cơ hội để tạo ra bước đột phá. Album thứ ba – Dare của họ đã thẳng tiến vào top ten và sau đó nhảy vọt lên vị trí số 1. Dare đã bán được hơn 1 triệu bản tại Anh và 3 triệu bản trên toàn thế giới. Đĩa đơn hit Don’t You Want Me, Baby? được phát đi phát lại nhiều lần và đã ăn sâu vào tâm trí mỗi người.
Cũng nhanh chóng như khi cạn kiệt, số dư ngân sách của Virgin giờ đã được phục hồi. Bất cứ khi nào Virgin có tiền tôi lại tiếp tục tìm kiếm những cơ hội mới. Tôi cố gắng không ngừng để mở rộng tập đoàn, vì thế chúng tôi không còn phụ thuộc vào nguồn thu nhập eo hẹp nữa. Tuy nhiên, tôi hoài nghi việc này có vẻ giống sự tò mò và phấn khích hơn là một giác quan tài chính nhạy bén. Lần này tôi nghĩ mình đã nhìn thấy một cơ hội hoàn hảo. Kể từ khi Virgin là một công ty giải trí, tôi đã nghĩ đến việc chúng tôi có thể xuất bản tạp chí mục lục của riêng mình mang tên Event. Không may, nó lại được phát hành đúng vào thời điểm Time Out ra đời, tạp chí đã thu được thành công vang dội và Event đành phải chấp nhận thất bại trong cuộc chiến cạnh tranh này.
Luôn luôn khó khi phải thừa nhận thất bại nhưng một điểm tích cực về sự kiện Event đó là tôi nhận ra việc chia tách các công ty Virgin thật sự rất quan trọng để nếu một công ty làm ăn thất thoát, sẽ không đe dọa tới các công ty khác trong Tập đoàn Virgin. Event là một thảm họa nhưng là một thảm họa đã được kiểm soát. Mỗi doanh nhân thành công đều thất bại ở một vài thương vụ làm ăn nào đó và hầu hết các doanh nhân có công ty riêng đều tuyên bố phá sản ít nhất một lần. Thay vì việc rơi vào vỡ nợ, chúng tôi đã trả sạch nợ nần và đóng cửa việc xuất bản tạp chí.
Tiền lỗ từ tạp chí Event nhanh chóng được chúng tôi thu về từ The Human League, The Simple Minds, album đơn đầu tay thành công vang dội của Phil Collins, Face Value, và cuối cùng, ngoạn mục nhất, đó là từ ca sĩ trẻ – Người tự xưng biệt danh Boy George.
Lần đầu tiên tôi nghe tới Boy George và Culture Club là sau khi Simon tới xem họ trình diễn trong studio thu âm tại Stoke Newington năm 1981. Virgin đã ký được hợp đồng về quyền phát hành nhạc và Simon thực sự bị lôi cuốn bởi diện mạo lạ lùng của ca sĩ đứng đầu ban nhạc, một chàng trai có vẻ ngoài đẹp như phụ nữ và cả nhịp điệu ngẫu hứng, nhẹ nhàng trong những bản nhạc họ chơi. Simon đã mời ban nhạc trở lại Vernon Yard. Tại đây họ đã đồng ý ký hợp đồng thu âm với chúng tôi.
Khi Simon giới thiệu tôi với George O’Dowd, tôi nhận ra mình đang bắt tay với một người hoàn toàn không giống với bất kỳ ai tôi đã gặp trước đó. Anh ta có mái tóc dài được bện như một người giáo phái gốc Jamaica; khuôn mặt trắng nhợt, lông mày thanh tú, và mặc một chiếc áo choàng lộng lẫy của geisha.
Mặc dù chúng tôi biết rằng Culture Club là một sự sáng tạo kỳ diệu nhưng đĩa đơn đầu tiên của họ – White Boy, vẫn chết từ trong trứng nước. Virgin đã phát hành album vào ngày 30/4/1982 nhưng không có nhiều chuyển biến đáng kể: số lượng bán ra khoảng
8.000 bản và đứng vị trí thứ 114 trong bảng xếp hạng. Chúng tôi không bận tâm tới điều này. Chúng tôi thực sự cảm thấy rằng ngay sau khi Boy George được chụp hình quảng cáo hoặc nếu chúng tôi có thể đưa anh ta vào danh sách Top of The Pops, đĩa của anh ta sẽ bán hết veo. Mọi người đều trông chờ xem Boy George và họ sẽ muốn mua đĩa nhạc của anh ta. Giới tuổi teen sẽ phát điên vì Boy George. Cũng giống như vẻ ngoài khác biệt, George có một chất giọng lạ, dí dỏm và lôi cuốn: anh ta là người nổi loạn theo cách hoàn toàn khác so với The Sex Pistols hoặc James Dean nhưng dù sao đi nữa anh ta vẫn thuộc trường phái nổi loạn. Virgin đã dẫn dắt đĩa đơn thứ hai của Culture Club – I’m Afraid Of Me, vào tháng Sáu. Mặc dù đĩa đơn này bán chạy hơn White Boy nhưng vẫn chỉ đạt thứ hạng 100 trong bảng xếp hạng. Culture Club tiếp tục thu âm album của họ, Kissing To Be Clever, mà họ đã sáng tác được phần lớn trước khi ký hợp đồng với chúng tôi.
Khi chúng tôi phát hành đĩa đơn thứ 3 của Culture Club – Do You Really Want To Hurt Me? vào ngày 3/12/1982, chúng tôi đã dồn hết tâm huyết của mình để ra mắt ban nhạc.
Thật lạ lùng, Radio 2 đã được chơi trước Radio 1, và nhìn chung những nhận xét về đĩa đơn đều không được khả quan lắm. Nhưng khi Radio 2 xuất hiện, nó đã leo rất nhanh trong bảng xếp hạng, đạt vị trí thứ 85 trong tuần đầu tiên và thứ 38 trong tuần thứ hai. Chúng tôi đã cố gắng lăng xê Boy George nhưng BBC vẫn từ chối phỏng vấn anh ta và gọi Boy George là “gã đồng tính”. Sau đó chúng tôi nghe tin về việc trì hoãn trên Top of The Pops. Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể để đưa Boy George vào khe hở này và cuối cùng Top of the Pops đã nhất trí. Chúng tôi đang có một linh cảm về sự thành công.
Với khuôn mặt trắng nhợt, chiếc áo choàng dài, đầu đội mũ phớt và đôi lông mày dài thanh tú, Boy George đã vượt lên các ban nhạc lãng mạn hiện đại khác, như Spandau Ballet. Anh ta có sức lôi cuốn kỳ lạ với lứa tuổi teen, với cả những đứa trẻ mới 8,9 tuổi cho tới ông bà chúng. Không thể xác định được tại sao anh ta lại nổi tiếng như vậy: các bậc cha mẹ muốn có đứa con như anh ta; các cô gái yêu thích vẻ đẹp của anh ta; các chàng trai muốn bạn gái mình xinh đẹp như anh ta… không kể đâu cho hết. Ngày hôm sau, điện thoại các bàn làm việc reo liên tục và những đơn đặt hàng đĩa đơn ào ào đổ về. Do You Really Want To Hurt Me? leo lên vị trí thứ 3. Sau đó George đã xuất hiện trong chương trình Noel Late Late Breakfast Show và Noel đã hỏi liệu anh có phải một người hâm mộ trung thành của Liberace không. “Không còn nữa”, George nói, ngụ ý rằng vai trò đã được đảo ngược. Đĩa đơn vụt ngay lên vị trí số 1. Khi George tiết lộ rằng anh ta thích thưởng thức một tách trà hơn là chuyện tình dục, anh ta trở thành một thần tượng quốc tế.
Giáng Sinh năm 1982, chúng tôi phát hành album đầu tiên của Culture Club – Kissing To Be Clever, với 4 triệu bản được bán ra trên toàn thế giới. Ngay sau đó là một bước đột phá gây kinh ngạc khác: đĩa đơn thứ 6 của họ – Karma Chameleon, trở thành single bán chạy nhất năm 1983 với hơn 1,4 triệu bản tiêu thụ tại Anh và đạt vị trí quán quân tại mỗi quốc gia trên thế giới có bảng xếp hạng, khoảng hơn 30 nước theo như chúng tôi biết.
Culture Club là một hiện tượng nhạc pop toàn cầu và album thứ hai của họ – Colour By Numbers đã bán được gần 10 triệu bản.
Tài chính của Virgin đã vượt qua giai đoạn khủng hoảng: từ lỗ 900.000 bảng năm 1980, chúng tôi đã thu về lợi nhuận 2 triệu bảng năm 1982 với doanh số trên 50 triệu bảng. Năm 1983, doanh số tăng lên 94 triệu bảng và lợi nhuận vọt lên 11 triệu bảng. Khi chúng tôi bắt đầu điều hành fan club của Boy George, chúng tôi dường như không thể kiểm soát được lợi nhuận thu về, và năm 1983, 40% lợi nhuận của chúng tôi thu về từ Boy George. Trong hai năm đầu tiên, câu chuyện về Culture Club là một điển hỉnh hoàn hảo. Điều đặc biệt về ngành thu âm đó là thành công có thể tới mà không báo trước. Có thể phút này chẳng ai biết Boy George là ai nhưng ngay phút sau đó tất cả mọi người khắp thế giới từ Ailen tới Hàn Quốc, từ Nhật Bản tới Ghana đều ngân nga Karma Charmeleon. Thành công của Boy George được đo bằng tốc độ âm thanh theo đúng nghĩa. Nhiều người thấy sợ hãi chạy dọc sống lưng và họ có thể đúng khi cho rằng hiện tượng này sẽ tạo ra sự tàn phá trong một công ty. Thật hạnh phúc, tôi lại luôn luôn trưởng thành nhờ sự tàn phá và hoóc môn adrenaline gây hồi hộp đó. Và do vậy tôi cảm nhận thật tuyệt vời vì chính tại nơi đây, chúng tôi đã thổi bùng lên ngọn lửa thành công của Culture Club.
1980 – 1982
Cũng như cuộc chia tay Nik, tôi đang trong nguy cơ tan vỡ với Joan năm 1980. Tôi làm việc như điên để cứu vớt Virgin và tôi biết rằng Joan ngày càng chán nản về tôi. Dù cho tôi có về nhà muộn cỡ nào, điện thoại vẫn đổ chuông. Mỗi khi chúng tôi thức dậy vào sáng thứ 7, điện thoại lại đổ chuông. Một đêm, tôi trở về căn nhà thuyền và nhận ra mọi thứ thật trống trải. Joan đã ra đi và để lại cho tôi một mẩu giấy: “Em đang mang thai. Em sợ phải nói với anh. Em đã dọn đi. Nếu nhớ em, hãy gọi cho em ở nhà Rose”.
Khi tôi nhìn vào mảnh giấy, tôi nhận ra rằng cuộc sống của tôi đã thay đổi. Tôi ngồi xuống và suy nghĩ phải làm gì. Sau khi Kristen rời bỏ tôi, tôi đã có một vài mối tình. Tôi yêu sự phóng khoáng và tự do. Kể từ khi cô ấy dọn đến ở cùng tôi, tôi lo sợ mình đã xem sự tồn tại của cô ấy là điều hiển nhiên. Cuộc hôn nhân của tôi với Kristen đã khiến tôi hoài nghi về những mối quan hệ lâu dài, và vào lúc đó tôi đã không có một cam kết nào như thế với Joan. Tôi cũng phải chịu sức ép từ bố mẹ khi họ bắt tôi quay trở lại với Kristen còn nếu không sau đó tôi sẽ phải cưới một cô gái tốt nghiệp đại học hay một vận động viên chơi tennis nào đó từ Surrey – mà Joan dứt khoát không nằm trong số đó.
Tôi nhớ mãi ngày tôi nói với bố mẹ rằng Joan đã dọn đến sống cùng tôi. Bố đang ngồi câu cá ven bờ hồ, và mẹ chỉ tay vào con cá hồi đang nổi lên.
Trong sự im lặng kéo dài sau đó, Bố đã quăng trượt cần câu khiến dây bị mắc lại thành một mớ lộn xộn.
“Nó đứt rồi” – Ông nói.
Nhưng khi tôi ngồi trong ngôi nhà thuyền cầm mảnh giấy được viết vội vàng của Joan và nghĩ về đứa con chưa chào đời của chúng tôi, tôi nhận ra rằng tôi thực sự yêu cô ấy. Tận tới lúc đó, tôi vẫn có cảm giác tội lỗi khi muốn lợi cả đôi đường: vừa muốn có một mối quan hệ tuyệt vời vừa không phải cam kết bất kỳ điều gì. Tôi đã vui vẻ với một số mối quan hệ khác và chưa bao giờ nghĩ về hậu quả. Tôi nghĩ rất nhiều đàn ông cảm thấy thích thú khi trôi nổi cả cuộc đời mà không cần đến con cái trừ khi đối phương buộc họ phải có trách nhiệm. Tôi gọi cho Rose, chị gái của Joan và vội vã lao tới để ở bên cô ấy.
Khoảng sáu tháng trong thời gian Joan mang thai, tôi ở Pháp còn Joan đi nghỉ ở Scotland. Cô ấy bị viêm ruột thừa khi ở khách sạn Fort William. Tôi bay đến Scotland để ở cạnh Joan khi cô ấy đang tiến hành ca mổ. Thực tế, cô ấy không bị viêm ruột thừa nhưng lại bị vỡ u nang buồng trứng và bác sĩ đã quyết định cắt bỏ u nang và cắt cả ruột thừa cho cô ấy – một ca mổ nguy hiểm nhất vào thời điểm này và còn nguy hiểm hơn với một phụ nữ đang mang thai sáu tháng. Ca mổ khiến Joan chuyển dạ. Cô ấy được tiêm vào tĩnh mạch để giảm co thắt và chúng tôi lập tức gọi xe cứu thương để đưa cô ấy tới bệnh viện hiện đại hơn tại Inverness. Chuyến đi khắp Scotland trong mưa tuyết là một cơn ác mộng. Mỗi cú xóc trên đường đều khiến Joan đau dữ dội hơn. Khi chúng tôi vừa tới nơi cô ấy đã đau đến cùng cực vì vết mổ, vì chuyển dạ và cố gắng tuyệt vọng giữ lấy đứa bé.
Tại bệnh viện Inverness, chắc chắn một điều là Joan sẽ sinh. Sẽ có rất ít cơ hội để cứu sống đứa trẻ vì phải ba tháng nữa mới tới lúc sinh. Một bé gái được sinh ra chỉ nặng 1,8 kg và chúng tôi đặt tên nó là Claire theo tên dì tôi. Claire hầu như không thể tự bú sữa mẹ và bệnh vện không có các thiết bị cần thiết để cứu nó.
Mặc dù Claire đã mở đôi mắt màu xanh đục sâu thẳm đáng yêu chào thế giới nhưng con bé vẫn ra đi sau đó 4 ngày. Tất cả những gì tôi có thể nhớ về nó bây giờ là hình dáng nhỏ xíu của con tôi. Không ai trong chúng tôi được phép bế hay chạm vào nó. Căn nhà bé xíu của nó là trong lồng kính. Con bé nhỏ tới mức lọt vừa bàn tay tôi. Chúng tôi chăm chú ngắm khuôn mặt nó, ngạc nhiên vì đôi tay bé nhỏ và nét mặt cương quyết trên khuôn mặt con bé khi nó đang ngủ. Nhưng giờ ký ức đó đã phai mờ. Khi tôi cố gắng nhớ tới Claire, tâm trí của tôi bị hỗn độn bởi mùi thuốc sát trùng của bệnh viện, bởi những chiếc ghế kim loại trong căn phòng vải sơn và bởi vẻ mặt của y tá khi cô ấy bước tới nói với chúng tôi rằng Claire đã chết.
Claire đã sống ở một thế giới dành riêng cho con bé, bước vào và ra khỏi cuộc sống của chúng tôi chỉ để lại nỗi đau đớn tuyệt vọng, cảm giác trống trải và tình yêu. Nó thật nhỏ bé và cuộc sống quá ngắn ngủi tới mức tưởng như nó chưa bao giờ có mặt ở đây, nhưng trong thời khắc đau buồn đó nó đã mang Joan và tôi xích lại gần nhau. Tận tới khi tôi nhìn thấy cơ thể thoi thóp của Claire, còi cọc trong tấm tã lót nhỏ bé nhất, ngắm nhìn nó mới xinh đẹp làm sao, và còn biết rằng nó là con của chúng tôi, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng tôi muốn có con đến như thế.
Sau cái chết của Claire, Joan và tôi đã quyết định có con một lần nữa, và trong sự vui sướng của chúng tôi, Joan nhanh chóng mang thai lại trong vòng một năm.
Lại một lần nữa Joan chuyển dạ sớm, lần này là trước 6 tuần. Cả hai chúng tôi đều ngạc nhiên. Tôi đang ở bữa tiệc tại The Venue và trở về nhà vào lúc 3 giờ sáng, lảo đảo vì say xỉn. Tôi ngủ thiếp đi và chỉ chợt tỉnh giấc khi cảm thấy Joan đang đập vào người tôi và hét lên cô ấy đang chuyển dạ. Tôi nhào khỏi giường và ngay lập tức lái xe chở cô ấy tới bệnh viện.
Bác sĩ đã khám cho Joan và dẫn cô ấy tới phòng sản khoa. “Trông cô rất khỏe”, họ chắc chắn với cô ấy.
Sau đó, họ nhìn vào tôi: “Sắc mặt anh xấu quá. Tốt hơn anh nên uống vài viên aspirin và đi ngủ”
Sáng hôm đó, tôi thức dậy và thấy bốn bác sĩ đeo khẩu trang đang chăm chú nhìn tôi.
Tôi tưởng mình vừa trải qua một vụ tai nạn khủng khiếp và đang nằm trong phòng cấp cứu
ở một nơi nào đó.
“Joan đã vượt cạn thành công” – Họ nói. “Hãy đi với chúng tôi”.
Holly được sinh ra, nặng hơn 2,5 kg. Đó là trải nghiệm lạ lùng nhất mà tôi từng trải qua.
Cuối cùng tôi thậm chí còn kiệt sức hơn cả Joan. Tôi tự hứa với chính mình sẽ không bao giờ bỏ lỡ thời khắc chào đời của các con. Tuy nhiên, sau chuyện xảy ra với Claire, mối quan tâm của tôi ngay lúc này đó là làm sao để Holly sống khỏe mạnh.
Chúng tôi lái xe trở về nhà thuyền vào một sáng Chủ nhật lạnh căm năm 1981, và Joan ngồi ẵm Holly thật chặt trên giường. Cả mùa đông còn lại hai mẹ con cô ấy đều ở phòng ngủ trong khi tôi làm việc ở phòng kế bên.
Năm 1981, Virgin Music cuối cùng đã bắt đầu kiếm ra tiền. Japan đã cho ra các album hit Gentlement Take Polaroids và Tin Drum. Một trong số những đĩa đơn hit gần đây của chúng tôi là General and Majors và Sgt Rock của XTC và Trouble và New Orleans của Gillian; The Professionals và The Skids cũng nối tiếp thành công. Chúng tôi vẫn không biết Phil Collins sẽ đem lại những gì, và – việc thứ 24 trong danh mục những việc phải làm của tôi vào tháng đó – đó là thu xếp để tới Scotland tham dự buổi hòa nhạc của một trong những ban nhạc mới của chúng tôi, Simple Minds. Album của Simple Mind – New Gold Dream, đã lọt vào top bán chạy nhất.
Tin mới nhất năm 1981 là dự đoán của Simon về The Human League đã trở thành sự thật. Hai album đầu tiên của họ ra đời với mục đích thăm dò thị trường, tuy nhiên đã tạo dựng được một số lượng đông đảo người hâm mộ trung thành. Khi chúng tôi thông báo doanh số của họ liên tục tăng ổn định, chúng tôi biết rằng chúng tôi đang có cơ hội để tạo ra bước đột phá. Album thứ ba – Dare của họ đã thẳng tiến vào top ten và sau đó nhảy vọt lên vị trí số 1. Dare đã bán được hơn 1 triệu bản tại Anh và 3 triệu bản trên toàn thế giới. Đĩa đơn hit Don’t You Want Me, Baby? được phát đi phát lại nhiều lần và đã ăn sâu vào tâm trí mỗi người.
Cũng nhanh chóng như khi cạn kiệt, số dư ngân sách của Virgin giờ đã được phục hồi. Bất cứ khi nào Virgin có tiền tôi lại tiếp tục tìm kiếm những cơ hội mới. Tôi cố gắng không ngừng để mở rộng tập đoàn, vì thế chúng tôi không còn phụ thuộc vào nguồn thu nhập eo hẹp nữa. Tuy nhiên, tôi hoài nghi việc này có vẻ giống sự tò mò và phấn khích hơn là một giác quan tài chính nhạy bén. Lần này tôi nghĩ mình đã nhìn thấy một cơ hội hoàn hảo. Kể từ khi Virgin là một công ty giải trí, tôi đã nghĩ đến việc chúng tôi có thể xuất bản tạp chí mục lục của riêng mình mang tên Event. Không may, nó lại được phát hành đúng vào thời điểm Time Out ra đời, tạp chí đã thu được thành công vang dội và Event đành phải chấp nhận thất bại trong cuộc chiến cạnh tranh này.
Luôn luôn khó khi phải thừa nhận thất bại nhưng một điểm tích cực về sự kiện Event đó là tôi nhận ra việc chia tách các công ty Virgin thật sự rất quan trọng để nếu một công ty làm ăn thất thoát, sẽ không đe dọa tới các công ty khác trong Tập đoàn Virgin. Event là một thảm họa nhưng là một thảm họa đã được kiểm soát. Mỗi doanh nhân thành công đều thất bại ở một vài thương vụ làm ăn nào đó và hầu hết các doanh nhân có công ty riêng đều tuyên bố phá sản ít nhất một lần. Thay vì việc rơi vào vỡ nợ, chúng tôi đã trả sạch nợ nần và đóng cửa việc xuất bản tạp chí.
Tiền lỗ từ tạp chí Event nhanh chóng được chúng tôi thu về từ The Human League, The Simple Minds, album đơn đầu tay thành công vang dội của Phil Collins, Face Value, và cuối cùng, ngoạn mục nhất, đó là từ ca sĩ trẻ – Người tự xưng biệt danh Boy George.
Lần đầu tiên tôi nghe tới Boy George và Culture Club là sau khi Simon tới xem họ trình diễn trong studio thu âm tại Stoke Newington năm 1981. Virgin đã ký được hợp đồng về quyền phát hành nhạc và Simon thực sự bị lôi cuốn bởi diện mạo lạ lùng của ca sĩ đứng đầu ban nhạc, một chàng trai có vẻ ngoài đẹp như phụ nữ và cả nhịp điệu ngẫu hứng, nhẹ nhàng trong những bản nhạc họ chơi. Simon đã mời ban nhạc trở lại Vernon Yard. Tại đây họ đã đồng ý ký hợp đồng thu âm với chúng tôi.
Khi Simon giới thiệu tôi với George O’Dowd, tôi nhận ra mình đang bắt tay với một người hoàn toàn không giống với bất kỳ ai tôi đã gặp trước đó. Anh ta có mái tóc dài được bện như một người giáo phái gốc Jamaica; khuôn mặt trắng nhợt, lông mày thanh tú, và mặc một chiếc áo choàng lộng lẫy của geisha.
Mặc dù chúng tôi biết rằng Culture Club là một sự sáng tạo kỳ diệu nhưng đĩa đơn đầu tiên của họ – White Boy, vẫn chết từ trong trứng nước. Virgin đã phát hành album vào ngày 30/4/1982 nhưng không có nhiều chuyển biến đáng kể: số lượng bán ra khoảng
8.000 bản và đứng vị trí thứ 114 trong bảng xếp hạng. Chúng tôi không bận tâm tới điều này. Chúng tôi thực sự cảm thấy rằng ngay sau khi Boy George được chụp hình quảng cáo hoặc nếu chúng tôi có thể đưa anh ta vào danh sách Top of The Pops, đĩa của anh ta sẽ bán hết veo. Mọi người đều trông chờ xem Boy George và họ sẽ muốn mua đĩa nhạc của anh ta. Giới tuổi teen sẽ phát điên vì Boy George. Cũng giống như vẻ ngoài khác biệt, George có một chất giọng lạ, dí dỏm và lôi cuốn: anh ta là người nổi loạn theo cách hoàn toàn khác so với The Sex Pistols hoặc James Dean nhưng dù sao đi nữa anh ta vẫn thuộc trường phái nổi loạn. Virgin đã dẫn dắt đĩa đơn thứ hai của Culture Club – I’m Afraid Of Me, vào tháng Sáu. Mặc dù đĩa đơn này bán chạy hơn White Boy nhưng vẫn chỉ đạt thứ hạng 100 trong bảng xếp hạng. Culture Club tiếp tục thu âm album của họ, Kissing To Be Clever, mà họ đã sáng tác được phần lớn trước khi ký hợp đồng với chúng tôi.
Khi chúng tôi phát hành đĩa đơn thứ 3 của Culture Club – Do You Really Want To Hurt Me? vào ngày 3/12/1982, chúng tôi đã dồn hết tâm huyết của mình để ra mắt ban nhạc.
Thật lạ lùng, Radio 2 đã được chơi trước Radio 1, và nhìn chung những nhận xét về đĩa đơn đều không được khả quan lắm. Nhưng khi Radio 2 xuất hiện, nó đã leo rất nhanh trong bảng xếp hạng, đạt vị trí thứ 85 trong tuần đầu tiên và thứ 38 trong tuần thứ hai. Chúng tôi đã cố gắng lăng xê Boy George nhưng BBC vẫn từ chối phỏng vấn anh ta và gọi Boy George là “gã đồng tính”. Sau đó chúng tôi nghe tin về việc trì hoãn trên Top of The Pops. Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể để đưa Boy George vào khe hở này và cuối cùng Top of the Pops đã nhất trí. Chúng tôi đang có một linh cảm về sự thành công.
Với khuôn mặt trắng nhợt, chiếc áo choàng dài, đầu đội mũ phớt và đôi lông mày dài thanh tú, Boy George đã vượt lên các ban nhạc lãng mạn hiện đại khác, như Spandau Ballet. Anh ta có sức lôi cuốn kỳ lạ với lứa tuổi teen, với cả những đứa trẻ mới 8,9 tuổi cho tới ông bà chúng. Không thể xác định được tại sao anh ta lại nổi tiếng như vậy: các bậc cha mẹ muốn có đứa con như anh ta; các cô gái yêu thích vẻ đẹp của anh ta; các chàng trai muốn bạn gái mình xinh đẹp như anh ta… không kể đâu cho hết. Ngày hôm sau, điện thoại các bàn làm việc reo liên tục và những đơn đặt hàng đĩa đơn ào ào đổ về. Do You Really Want To Hurt Me? leo lên vị trí thứ 3. Sau đó George đã xuất hiện trong chương trình Noel Late Late Breakfast Show và Noel đã hỏi liệu anh có phải một người hâm mộ trung thành của Liberace không. “Không còn nữa”, George nói, ngụ ý rằng vai trò đã được đảo ngược. Đĩa đơn vụt ngay lên vị trí số 1. Khi George tiết lộ rằng anh ta thích thưởng thức một tách trà hơn là chuyện tình dục, anh ta trở thành một thần tượng quốc tế.
Giáng Sinh năm 1982, chúng tôi phát hành album đầu tiên của Culture Club – Kissing To Be Clever, với 4 triệu bản được bán ra trên toàn thế giới. Ngay sau đó là một bước đột phá gây kinh ngạc khác: đĩa đơn thứ 6 của họ – Karma Chameleon, trở thành single bán chạy nhất năm 1983 với hơn 1,4 triệu bản tiêu thụ tại Anh và đạt vị trí quán quân tại mỗi quốc gia trên thế giới có bảng xếp hạng, khoảng hơn 30 nước theo như chúng tôi biết.
Culture Club là một hiện tượng nhạc pop toàn cầu và album thứ hai của họ – Colour By Numbers đã bán được gần 10 triệu bản.
Tài chính của Virgin đã vượt qua giai đoạn khủng hoảng: từ lỗ 900.000 bảng năm 1980, chúng tôi đã thu về lợi nhuận 2 triệu bảng năm 1982 với doanh số trên 50 triệu bảng. Năm 1983, doanh số tăng lên 94 triệu bảng và lợi nhuận vọt lên 11 triệu bảng. Khi chúng tôi bắt đầu điều hành fan club của Boy George, chúng tôi dường như không thể kiểm soát được lợi nhuận thu về, và năm 1983, 40% lợi nhuận của chúng tôi thu về từ Boy George. Trong hai năm đầu tiên, câu chuyện về Culture Club là một điển hỉnh hoàn hảo. Điều đặc biệt về ngành thu âm đó là thành công có thể tới mà không báo trước. Có thể phút này chẳng ai biết Boy George là ai nhưng ngay phút sau đó tất cả mọi người khắp thế giới từ Ailen tới Hàn Quốc, từ Nhật Bản tới Ghana đều ngân nga Karma Charmeleon. Thành công của Boy George được đo bằng tốc độ âm thanh theo đúng nghĩa. Nhiều người thấy sợ hãi chạy dọc sống lưng và họ có thể đúng khi cho rằng hiện tượng này sẽ tạo ra sự tàn phá trong một công ty. Thật hạnh phúc, tôi lại luôn luôn trưởng thành nhờ sự tàn phá và hoóc môn adrenaline gây hồi hộp đó. Và do vậy tôi cảm nhận thật tuyệt vời vì chính tại nơi đây, chúng tôi đã thổi bùng lên ngọn lửa thành công của Culture Club.