Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Đường Ra Biển Lớn

Chương 19: CHUẨN BỊ NHẢY

Tác giả: Richard Branson
Thể loại: Kinh Tế - Quản Lý
Chọn tập

1989 – 1990
Bằng việc bán 25% cổ phần của Virgin Music với giá 150 triệu đô-la, tương đương 100 triệu bảng – chúng tôi đã chứng minh rằng Trung tâm Thương mại và Tài chính London đã định giá thấp Virgin. Việc bán cổ phần này là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy riêng công ty Virgin đã trị giá ít nhất 400 triệu bảng và chẳng có giá nào được đặt cho nhiều công ty khác, chẳng hạn như công ty bán lẻ, đạt đến mức giá của Tập đoàn đại chúng này. Giá này cao hơn giá 180 triệu bảng mà Trung tâm Thương mại và Tài chính London đã định giá cho chúng tôi trước khi chúng tôi đề nghị mua lại công ty và giá này vẫn cao hơn giá 240 triệu bảng mà chúng tôi đã phải trả để được tư nhân hóa.
Với những đối tác Nhật Bản trong hai lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là hàng không và âm nhạc, chúng tôi đã chuyển sang lĩnh vực kinh doanh thứ ba và đồng thời quyết định mở rộng phần bán lẻ ở Nhật. Ian Duffell và Mike Inman, cùng với cố vấn người Nhật của chúng tôi, ông Shu Ueyama đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu của họ. Mike đã bắt đầu học tiếng Nhật ở Sydney vì anh trai anh ấy đã kết hôn với một cô gái Nhật. Ian cử Mike đến Tokyo còn anh ấy đến Los Angeles, nơi anh ấy bắt đầu tìm kiếm địa điểm cho một cửa hàng lớn dọc theo Đại lộ Hoàng hôn.
Mike báo cáo rằng chúng tôi không thể thiết lập một cửa hàng lớn ở Tokyo: Đây là một thành phố rất lớn, ít có sự phân biệt vùng miền và với những người nước ngoài rất khó để xác định những vùng quan trọng. Những tòa nhà dân cư, thương mại và bán lẻ lẫn lộn với nhau, không giống như London, nơi rất dễ xác định những khu vực mua sắm – chẳng hạn như phố Oxford, cầu Knights, Đại lộ Kensington – và là nơi khá dễ dàng để thích nghi với hoàn cảnh mới. Mọi nơi ở Tokyo đều giống nhau. Bất động sản đắt đỏ và để thuê được một cửa hàng bạn phải đặt cọc một khoản tiền lớn gọi là “tiền trả trước”. Trevor, Ian và Shu đã gặp gỡ nhiều đối tác người Nhật Bản tiềm năng và cuối cùng chọn làm việc với một nhà bán lẻ thời trang tên là Marui. Trevor đã xây dựng quan hệ đối tác 50-50 để bắt đầu thiết lập hệ thống cửa hàng Virgin Megastores ở Nhật Bản.
Khó khăn với một cửa hàng đĩa nhạc là bạn phải cố gắng bán một sản phẩm giống hệt sản phẩm ở mọi cửa hàng đĩa nhạc khác. Virgin chẳng có gì để chúng tôi có thể gọi là sản phẩm của riêng mình hoặc chỉ có ở các cửa hàng của Virgin. Chúng tôi biết rằng các đối thủ của mình đang mất rất nhiều tiền ở Tokyo, một phần vì họ phải trả số tiền đặt cọc trả trước cho cửa hàng của họ rất cao, phần vì họ không xây dựng được những khách hàng trung thành cho nên không có nhiều người quay lại mua hàng.
Để tránh những cái bẫy này, chúng tôi đã liên doanh với Marui. Họ là nhà bán lẻ đầu tiên thực sự hiểu được tầm quan trọng của những ga tàu hỏa. Họ đặt những cửa hàng của mình ở gần những ga tàu hỏa lớn và vì vậy chắc chắn sẽ có đám đông những khách đi bộ qua cửa hàng. Trang phục của Marui nhằm vào giới trẻ, tạo ra sự phong phú và họ cũng đi tiên phong trong việc sử dụng loại thẻ tín dụng nội bộ phổ biến. Marui đã cố gắng tìm cho chúng tôi một địa điểm tuyệt đẹp ở Shinjuku, một khu vực mua sắm chủ yếu ở trung tâm Tokyo với diện tích khoảng hơn 3.000 vuông. Tài sản này thuộc về Marui và chúng tôi đồng ý một hệ thống, theo đó chúng tôi sẽ trả cho họ phần trăm nhất định trong doanh số thay vì trả tiền thuê cửa hàng cố định hàng tháng.
Bằng cách này chúng tôi tránh được việc trả tiền đặt cọc trả trước dễ dẫn đến phá sản và mặc dù hơn 3.000 mét vuông vẫn nhỏ so với tiêu chuẩn châu Âu nhưng nó lại lớn hơn bất cứ cửa hàng đĩa nhạc nào khác ở Tokyo. Nó chính là cửa hàng đầu tàu mà tôi muốn.
Để tạo sự khác biệt với những đối thủ cạnh tranh và để thu hút khách hàng, chúng tôi lắp đặt những thiết bị nghe nhạc và thuê một DJ. DJ không chỉ là một người giúp mọi người giải trí, bằng cách chơi những ca khúc nổi tiếng mà anh ấy nhanh chóng bù đắp được chi phí của mình với việc thúc đẩy doanh số. Tokyo Virgin Megastore nhanh chóng được tôn sùng như những cửa hàng ban đầu ở phố Oxford và Notting Hill. Những thiếu niên đi qua thành phố này đã tập trung tại đây và nó đã trở thành một điểm đến. Tokyo là một thành phố đắt đỏ, vì vậy những thiếu niên rất thích dành một buổi chiều nghe nhạc giá rẻ, trò chuyện và mua đĩa nhạc. Thời gian trung bình họ ở Tokyo Megastore là 40 phút – dài hơn khá nhiều cho một bữa ăn ở nhà hàng McDonald. Nó gần như là một sự mở rộng triết lý bán lẻ nguyên bản từ những năm 1970 của chúng tôi. Với 10 nghìn khách hàng một ngày, cửa hàng này đã thành công hơn cả những gì chúng tôi mong đợi.
Vì Ian ở Los Angeles nên Mike ở một mình. Để tiếp tục học, anh ấy đã theo bước anh trai bằng cách yêu một cô gái Nhật. Họ kết hôn trên đảo Necker.
Trong thời gian hai năm, giữa năm 1988 và 1990, mỗi công ty con của Virgin đã xây dựng thỏa thuận với một công ty Nhật Bản. Với Sega, Marui, Seibu-Saison và Fujisanke, chúng tôi đã có được vị trí có một không hai để bắt đầu mở rộng ở Nhật Bản. Tôi cũng bắt đầu tham gia một chuyến phiêu lưu mạo hiểm khác ở Nhật Bản: Per và tôi đã lên kế hoạch để khởi hành từ Nhật Bản và bay qua Đại Tây Dương tới Mỹ trong chuyến phiêu lưu trên khinh khí cầu lần thứ hai.
Per kể cho tôi nỗi sợ lớn nhất của anh ấy khi đã quá muộn. Khi anh ấy thú nhận rằng anh ấy đã không thể kiểm nghiệm khoang chứa ở áp suất buồng, anh ấy không chắc chắn 100% rằng nó sẽ tồn tại được ở độ cao hơn 12 nghìn mét, thì chúng tôi đang ở trên máy bay lên đường tới Nhật Bản. Nếu một cái cửa sổ bị thổi bay ở độ cao đó, chúng tôi sẽ chỉ có bảy đến tám giây để đeo mặt nạ oxy.
Per nói theo cách nói giảm thông thường: “Chúng ta sẽ cần để nó trong tầm tay. Tất nhiên, nếu người khác đang ngủ thì sẽ cần đeo mặt nạ và phải mất ba giây để làm việc đó, rồi người kia lại mất ba giây đeo nó, chỉ được phép lóng ngóng trong hai giây”.
Tôi không tưởng tượng được sự lóng ngóng với Per, thậm chí chỉ trong hai giây, tôi thề sẽ không ngủ trong suốt chuyến bay.

Tôi hỏi: “Chúng ta không có cảnh báo trước về nó à?”
“Nếu khoang chứa giảm sức ép, anh sẽ nhận thấy bỗng nhiên có sương mù. Khoang chứa sẽ chứa đầy sương mù. Anh sẽ nghe thấy tiếng la hét trong tai mình và sẽ trải qua cảm giác phổi mình như muốn vỡ tung khỏi lồng ngực và bắn qua miệng mình.”
Khi một nhà báo hỏi tôi về sự nguy hiểm của chuyến bay này, tôi đã kể lại những lời của Per.
Tôi nói với nhà báo: “Anh biết đấy, cần có một người trong chúng tôi thức suốt chuyến bay. Thay vì sử dụng những chỗ ngồi thoải mái của Virgin mà chúng tôi đã sử dụng để bay qua Đại Tây Dương, chúng tôi đã yêu cầu British Airways cho hai chỗ của họ.”
Chúng tôi dự định bay vào tháng 11, khi luồng khí qua Đại Tây Dương mạnh nhất. Tuy nhiên, đó cũng là thời điểm trong năm mà đại dương có bão dữ dội. Chúng tôi khởi hành từ Nhật Bản và gần như ngay lập tức đã ở trên biển. Sau đó chúng tôi sẽ phải bay hơn gấp đôi khoảng cách kỷ lục qua Đại Tây Dương là 3.000 dặm để tới Mỹ.
Đội của Per đã đưa khinh khí cầu và khoang chứa tới địa điểm khởi hành ở Miyakonojo
– một thị trấn nhỏ ở miền nam Nhật Bản, nơi họ tính toán để ở trực tiếp phía dưới luồng khí. Đêm đầu tiên ở đây, tôi đã nhận được cuộc gọi của Tom Barrow, người đã thất bại với Per khi vượt qua Đại Tây Dương. Chúng tôi đã thay Tom bằng Mike Kendrick nhưng Tom đã theo dõi tiến bộ của Per và cực kỳ lo lắng.
Anh ấy nói với tôi: “Anh sẽ kết thúc ở dưới nước. Ưu tiên đầu tiên là chuẩn bị một điểm hạ cánh an toàn để có thể sống sót ở biển. Ngược lại, nếu anh đến được đất liền thì 60% là lúc trời tối. Vào tháng 11 ở Bắc Mỹ, ban đêm kéo dài mười lăm tiếng một ngày, đặc biệt nếu anh đi xa hơn nữa về phía bắc. Anh không thể hạ cánh trong đêm vì vậy anh có thể phải bay thêm 15 tiếng nữa. Thậm chí với tốc độ 30 dặm một giờ, anh sẽ phải đi 1.000 dặm ở đất liền và sau đó anh có thể gặp rắc rối. Anh nên đưa ra giả thiết sẽ có bão – dù điều đó có vẻ khó xảy ra trong một ngày êm đềm, lặng gió. Đi lên phía bắc, mọi người sẽ ở trong cabin đợi thời tiết quang đãng. Vì Chúa! Anh hãy tìm kiếm và bảo đảm an toàn cho đội ở đúng vị trí. Đừng phụ thuộc vào thời tiết êm đềm để hạ cánh.”
“Hãy kiểm tra tất cả hệ thống trước khi anh khởi hành. Đừng tạo áp lực khi khởi hành.
Cho dù mọi thứ đã được thiết lập và hoạt động tốt thì chuyến bay vẫn rất nguy hiểm.” Tôi cảm ơn Tom về lời khuyên của anh.
Anh ấy còn nói với tôi: “Đây là lời cuối cùng tôi muốn nói về vấn đề này. Vượt qua Đại Tây Dương là một chuyến bay thành công đã vượt khỏi tầm kiểm soát. Tất cả chúng ta đều biết điều đó. Vào lúc cuối, chuyến bay đã hoàn toàn vượt khỏi tầm kiểm soát nhưng cả hai người đã sống sót. Hai người đã dạy cho nhau cách bay trên khinh khí cầu khi đi cùng nhau. Ở Đại Tây Dương, anh có thể hạ cánh gần một con tàu. Nhưng nếu là Thái Bình Dương, anh đã chết chắc rồi. Vì vậy, anh sẽ hạ cánh xuống biển và chết hoặc hạ cánh xuống đất liền trong đêm tối và thoát chết trong gang tấc.”
Tôi đặt điện thoại xuống. Tôi đang toát mồ hôi. Tôi vừa viết nguệch ngoạc những điều anh ấy nói thì tiếng điện thoại lại vang lên. Đó là Joan. Hôm đó là sinh nhật thứ tám của Holly. Nó nói qua điện thoại:
“Con đang viết nhật ký bố ạ. Bố con mình có thể trao đổi nhật ký khi bố về nhà”. “Tất nhiên rồi, con yêu!” – Tôi nói một cách khó khăn.
Khi tôi đề cập với Per về khả năng sống sót thấp nếu chúng tôi hạ cánh xuống biển, anh
ấy đã đồng tình.
Anh ấy nói một cách bất ngờ: “Chúng ta không cần bận tâm đến bảo hiểm sức khỏe. Chỉ cần bỏ tiền mua bảo hiểm nhân thọ”.
Khi đội của Per lắp ráp hệ thống điện trong khoang chứa, Per và tôi ngồi cùng nhau và bàn thảo kỹ lưỡng về việc tiến hành chuyến bay. Thật khó có thể tưởng tượng được một lần nữa chúng tôi lại bị giam trong cái khoang chứa bé xíu bao quanh bởi tất cả những đồ dùng này – chúng là phương tiện duy nhất để giao tiếp với thế giới bên ngoài.
“Nhìn này!” – Tôi thấy mình nói với một phóng viên khi anh ta xem lướt qua danh sách mọi thứ có thể có sai sót, “nó có thể là một mẩu bánh hoặc không gì cả.”
Luồng khí ở Thái Bình Dương có hình dạng khác với luồng khí ở Đại Tây Dương. Luồng khí ở Đại Tây Dương có cực hình chữ V, giống như logo Toblerone lộn ngược. Khi bạn lên cao, luồng khí sẽ trở nên rộng hơn và gió trở nên nhanh hơn, vì vậy, dần dần bạn sẽ tăng tốc so với tốc độ từ dưới mặt đất. Ở độ cao hơn 3.000 mét, luồng không khí hiện thời có thể là 50 dặm còn ở độ cao 8.000 mét sẽ là 100 dặm,v.v… Một khinh khí cầu có thể dễ dàng đi vào luồng không khí mà không bị va đập. Luồng khí ở Thái Bình Dương là một con thú hoàn toàn khác. Nó là luồng khí cận nhiệt đới có hình dạng giống như dây cáp một lõi. Ở độ cao hơn 6.000 mét, luồng khí có thể hoàn toàn tĩnh lặng. Ở độ cao 7.600 mét, nó vẫn vậy.
Rồi đột ngột ở độ cao hơn 8.000 mét, bạn chạm phải luồng khí, nó đang di chuyển với tốc độ 100-200 dặm. Từ trước đến giờ chưa ai từng bay trên khinh khí cầu trong luồng khí ở Thái Bình Dương và chúng tôi biết sẽ rất nguy hiểm khi phần trên khinh khí cầu chạm luồng khí, nó có thể bị cắt đứt khỏi khoang chứa đang lơ lửng ở dưới. Nếu điều đó không xảy ra thì chúng tôi biết nó sẽ bị va đập dữ dội. Khi khoang chứa di chuyển với tốc độ 5 dặm và khinh khí cầu di chuyển với tốc độ 200 dặm, chúng tôi biết lúc đầu nó sẽ giống như bị kéo bởi một ngàn con ngựa.
Nếu chúng tôi cố gắng để vào luồng khí, chúng tôi biết nó sẽ có một lõi bên trong có đường kính khoảng 1.200 mét. Để ở trong đường ống này chúng tôi phải thường xuyên kiểm tra đồng hồ đo độ cao và theo dõi bất cứ va đập nào ảnh hưởng đến khinh khí cầu và khoang chứa ở những luồng khí khác nhau.
Không khí ở Mikyakonojo giống như ngày hội. Một thầy tu đạo Shinto thậm chí đã đến để cầu chúc cho địa điểm này. Bố mẹ tôi cũng đến nhưng Joan đã chọn ở nhà cho đến khi khinh khí cầu xuất phát và sau đó đi máy bay đến Los Angeles để cô ấy và các con có thể gặp tôi khi chuyến bay kết thúc. Tối Chủ nhật, người dự báo thời tiết của chúng tôi, Bob Rice đã dự đoán điều kiện hoàn hảo cho chuyến bay là vào thứ ba, nhưng đến thứ Hai việc này được hoãn lại tới thứ Tư. Per và tôi dành thêm một ngày trong khoang chứa để kiểm tra thật kỹ mọi thứ có thể sai sót.
“Giữ lửa cháy – đó là tất cả vấn đề.” Tôi viết qua một trang giấy trong cuốn sổ sau cuộc họp kéo dài ba tiếng đồng hồ về tất cả những kết quả có thể xảy ra trong chuyến bay của chúng tôi.
Việc trì hoãn cho tôi cơ hội xem xét lại đống máy điện thoại, máy đo và cái ngắt điện được lắp đặt trong tường khoang chứa. Nó cũng cho tôi thời gian để đảm bảo tôi đã nhớ được sự khác biệt giữa cái ngắt điện để thả những thùng nhiên liệu trống rỗng và những cái ngắt điện để tách khinh khí cầu với khoang chứa!
Bob Rice thông báo: “Nó có mã màu vàng. Hy vọng đến ngày 23/11 đèn sẽ xanh được
2.100 giờ”.
Holly – con gái tôi, hỏi qua điện thoại: “Thái Bình Dương có phải là đại dương lớn nhất thế giới không ạ? Nó dài bao nhiêu dặm ạ? Bố sẽ mất bao lâu để bay vòng quanh thế giới?”
Đã đến giờ ngủ. Tôi nằm trên giường trong khách sạch mà không thể nhắm mắt được, vì vậy tôi bắt đầu viết nhật ký:
Cố gắng để nghỉ ngơi một vài giờ. Nhưng không thể làm được, thật khốn khổ. Nhìn ra ngoài cửa sổ thấy một ngày đẹp trời đã kết thúc. Làn khói bay lên từ núi lửa trông giống như một đám mây mỏng trên bầu trời. Những chiếc xe ô tô với loa phóng thanh đang chạy qua những con phố để thông báo giờ chúng tôi khởi hành. Pháo hoa dự định được bắn vào lúc 2h30 sáng để đánh thức những người trong thị trấn chưa tỉnh ngủ. Hãy tưởng tượng hội đồng một thành phố ở Anh làm việc này! Tôi vẫn không cảm thấy lo lắng: hân hoan, phấn khởi nhưng không thực sự thấy lo lắng. Mọi thứ có vẻ diễn ra tốt đẹp. Bob cảm thấy điều kiện để đi và hạ cánh đều tốt như chúng tôi mong đợi. Tuy nhiên, vẫn còn một chút lo lắng về việc bơm khinh khí cầu. Trong hai tiếng, chúng tôi phải trở lại địa điểm để phỏng vấn trực tiếp cho chương trình News at One.
Khi trở lại địa điểm khởi hành, tôi đã cảm thấy có vấn đề. Vỏ của khinh khí cầu vẫn nằm trên mặt đất: việc bơm khinh khí cầu vẫn chưa bắt đầu. Phòng điều hành chật cứng bởi đội của Per đang trả lời phỏng vấn: “Quá nhiều gió, quá nguy hiểm, gió thổi theo quá nhiều hướng”. Họ quyết định để vỏ khinh khí cầu nằm trên mặt đất và hy vọng cơn gió sẽ biến mất vào đêm hôm sau. Với một khinh khí cầu 70 tấn đứng yên lặng, một cơn gió mạnh có thể xé rách vải. Tôi quay ra ngoài và yêu cầu người phiên dịch cho chúng tôi. Một ai đó đưa cho tôi microphone và tôi đã xin lỗi đám đông lộn xộn ở sườn đồi trên địa điểm khởi hành. Chúng tôi hứa sẽ cố gắng xuất phát vào ngày mai.

Ngày hôm sau thật dài và mệt mỏi. Luồng khí có vẻ hoạt động bất thường và Bob Rice đang cố gắng tính toán để xem liệu chúng tôi nên hạ cánh ở California hay Yukon.
“Ồ, thời tiết chết tiệt” – Bob, nhà khí tượng học phức tạp và nổi tiếng nhất cuối cùng cũng nói: “Đi thôi!”.
Tôi trở lại khách sạn để ngủ đêm cuối cùng và lại một lần nữa tôi không nhìn ngọn núi lửa qua cửa sổ. Tôi nghe tiếng thấy tiếng trống bắt đầu vang lên trong thị trấn. Rồi một bản fax được đưa vào dưới cửa của tôi. Trên những đường kẻ chằng chịt, những chữ cái nghiêng nghiêng, Holly đã viết:
Con hy vọng bố không hạ cánh xuống nước hay hạ cánh không ổn. Con hy vọng bố sẽ hạ cánh an toàn và hạ cánh trên vùng đất khô ráo, cô Salavesen cũng nói chúc bố hạ cánh an toàn. Con hy vọng bố có một chuyến đi tốt đẹp.

Tái bút: Chúc bố may mắn! Con yêu bố!
Tôi uống thuốc ngủ và lên giường nằm.

Thương yêu Con gái Holly.

Vài giờ sau Per đánh thức tôi dậy rồi chúng tôi lái xe tới địa điểm khởi hành. Một đám đông khoảng 5.000 người đã đến xem chúng tôi trong thời tiết lạnh giá. Có những gia đình, các bà và các em nhỏ. Tôi nghe tiếng hò reo khi khinh khí cầu bay lên từ mặt đất và lắc lư trên khoang chứa. Cái mỏ đèn cháy ầm ầm để đốt nóng không khí. Gió vẫn yên lặng nhưng chúng tôi cần khởi hành càng sớm càng tốt đề phòng có cơn gió mạnh có thể đuổi kịp chúng tôi trên mặt đất. Hàng trăm cái lò than đã được đưa ra trên con dốc. Khói của chúng bay thẳng lên bầu trời đêm đầy sao cho thấy rõ ràng gió lặng như thế nào.
Khi tôi đứng cùng với bố mẹ, say mê ngắm nhìn vẻ đẹp tráng lệ của khinh khí cầu thì một dải vải bỗng nhiên bong ra khỏi vỏ khinh khí cầu và rơi xuống.
Bố tôi hỏi: “Cái gì vậy?” Tôi chạy đi tìm Per:
“Chuyện gì đang xảy ra vậy?”
Per nói: “Chẳng có gì phải lo lắng về điều đó. Chỉ là mất một ít hơi nóng. Khinh khí cầu đủ lớn để đương đầu với nó”.
Tôi đưa Per trở lại phòng điều hành và bố tôi bắt tay anh ấy. Bố tôi nói: “Có cái gì đó đang đập vào giữa vỏ khinh khí cầu”.
Per nói: “Đó là không khí đang đi lên bên cạnh của khinh khí cầu”.

Bố tôi có vẻ không tin.
Per và tôi ra ngoài và đứng bên dưới khinh khí cầu. Thực tế đã có một lỗ hổng khi dải vải bị bong ra. Chúng tôi trở lại phòng điều hành và tìm bố tôi.
“Bố đừng kể với mẹ con” – Tôi nói “chúng con có một lỗ hổng, nhưng Per vẫn cảm thấy chúng con sẽ đến được Mỹ”.
Bố tôi bảo: “Con không thể bay với thứ này được đâu”. Một phút sau, lại có thêm những dải vải bắt đầu rơi xuống.
Per nói: “Richard, tôi sợ rằng chúng ta phải hủy bỏ chuyến bay. Nếu chúng ta cất cánh, chúng ta sẽ kết thúc dưới đáy Thái Bình Dương.”
Tôi nhìn đám đông ở sườn đồi. Tôi sẽ khiến tất cả bọn họ thất vọng. Bàn tay run run vì lạnh và thất vọng cay đắng, một lần nữa tôi lấy microphone.
Tôi nói, cố gắng để giọng của mình không tắc nghẹn: “Tôi xin lỗi. Dải vải của khinh khí cầu đã bị giật ra. Chúng tôi nghĩ đó là vì chúng tôi đã để khinh khí cầu ở ngoài suốt đêm cuối cùng và có một con ếch đã vào trong nó…”
Khi người phiên dịch lặp lại lời của tôi, đám đông trĩu xuống. Rồi có tiếng nói hổn hển, tôi nhìn lên thì thấy có ba bốn mảnh vải rời ra khỏi vỏ khinh khí cầu và rơi vào mỏ đèn.
Một người nào đó đã kéo chúng ra nhưng toàn bộ khinh khí cầu đã tan nát trước mắt chúng tôi.
Tôi hét lên: “Tắt mỏ đèn đi! Đứng lùi ra khỏi đó”.
Không có mỏ đèn, khinh khí cầu chùng xuống. Nó đổ về một phía, không khí nóng thoát ra ngoài qua lỗ hổng của nó.
Tôi hứa: “Chúng tôi sẽ quay trở lại vào năm sau. Xin hãy tin tưởng chúng tôi.”
Khi tất cả chúng tôi lái xe trở về khách sạn, bố tôi bảo: “Ổn thôi Richard, kỳ nghỉ với con không bao giờ buồn tẻ”.
Joan đã đi được hai tiếng trên chuyến bay tới Los Angeles khi cô nghe được những tin tức này.
Cô ấy kêu lên: “Tuyệt vời! Làm ơn hãy chuẩn bị rượu sâm panh!”
Viên phi công kéo cái van và chiếc trực thăng bay cao hơn. Biển xanh xám lung linh, lấp lánh phía dưới chúng tôi. Tôi quan sát khi chúng tôi đến gần Necker: dải san hô màu trắng và dải bãi biển xanh xám, những cây cọ nghiêng nghiêng và mái nhọn của căn nhà Bali, màu xanh thẫm của rừng trong đất liền. Chúng tôi bay vòng quanh trên cao và tôi trông thấy gia đình và bạn bè của mình đang đứng trên bãi biển. Hầu hết họ mặc đồ trắng với mũ rộng vành. Loáng thoáng có màu của một vài chiếc áo sơ mi miền nhiệt đới. Tôi nhận ra Vanessa và Robert; Lindi và chồng cô ấy, anh Robin; tất lũ trẻ con; Peter và Ceris; các bạn và hàng xóm của tôi đến từ Mill End; Ken và vợ anh ấy Nancy; Simon và vợ anh ấy, cô Francoise. Tôi vẫy tay khi họ ngẩng mặt lên. Giữa đám đông, tôi nhìn thấy Joan mặc chiếc váy màu trắng tuyệt đẹp, đứng với Holly và Sam, chị cô ấy là Rose, anh trai cô ấy là John và mẹ cô ấy đứng bên cạnh. Bà tôi đứng cùng với bố mẹ tôi, vui vẻ vẫy tay với tôi.
Tôi vỗ vai người phi công và anh ấy đưa chiếc trực thăng bay vòng tròn một lần nữa.
Tôi lấy hộp kẹo Milk Tray và ngậm trong miệng. Mọi thứ đã ở đúng vị trí. Tôi cúi xuống và ngừng lại khi mở cửa. Cơn gió nóng thổi mạnh vào mặt tôi, bãi biển và biển xanh bạc xoay tròn phía dưới khi tôi nhìn xuống. Chúng tôi lượn qua bể bơi. Tôi giữ chặt cánh cửa và nhìn người phi công.
Anh ấy hét lên: “Tất cả là do các quý cô đều yêu thích kẹo Milk Tray!” Tôi đáp lại: “Trẻ con cũng vậy”.
Tôi giơ ngón cái lên với anh ấy, nhìn xuống cái bể bơi lần cuối ở ngay phía dưới và rồi trèo ra ngoài thanh chắn đu xuống. Cuối cùng Joan và tôi cũng kết hôn và tôi không muốn kẹo Milk Tray tan chảy. Tôi chuẩn bị nhảy.

1989 – 1990
Bằng việc bán 25% cổ phần của Virgin Music với giá 150 triệu đô-la, tương đương 100 triệu bảng – chúng tôi đã chứng minh rằng Trung tâm Thương mại và Tài chính London đã định giá thấp Virgin. Việc bán cổ phần này là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy riêng công ty Virgin đã trị giá ít nhất 400 triệu bảng và chẳng có giá nào được đặt cho nhiều công ty khác, chẳng hạn như công ty bán lẻ, đạt đến mức giá của Tập đoàn đại chúng này. Giá này cao hơn giá 180 triệu bảng mà Trung tâm Thương mại và Tài chính London đã định giá cho chúng tôi trước khi chúng tôi đề nghị mua lại công ty và giá này vẫn cao hơn giá 240 triệu bảng mà chúng tôi đã phải trả để được tư nhân hóa.
Với những đối tác Nhật Bản trong hai lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là hàng không và âm nhạc, chúng tôi đã chuyển sang lĩnh vực kinh doanh thứ ba và đồng thời quyết định mở rộng phần bán lẻ ở Nhật. Ian Duffell và Mike Inman, cùng với cố vấn người Nhật của chúng tôi, ông Shu Ueyama đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu của họ. Mike đã bắt đầu học tiếng Nhật ở Sydney vì anh trai anh ấy đã kết hôn với một cô gái Nhật. Ian cử Mike đến Tokyo còn anh ấy đến Los Angeles, nơi anh ấy bắt đầu tìm kiếm địa điểm cho một cửa hàng lớn dọc theo Đại lộ Hoàng hôn.
Mike báo cáo rằng chúng tôi không thể thiết lập một cửa hàng lớn ở Tokyo: Đây là một thành phố rất lớn, ít có sự phân biệt vùng miền và với những người nước ngoài rất khó để xác định những vùng quan trọng. Những tòa nhà dân cư, thương mại và bán lẻ lẫn lộn với nhau, không giống như London, nơi rất dễ xác định những khu vực mua sắm – chẳng hạn như phố Oxford, cầu Knights, Đại lộ Kensington – và là nơi khá dễ dàng để thích nghi với hoàn cảnh mới. Mọi nơi ở Tokyo đều giống nhau. Bất động sản đắt đỏ và để thuê được một cửa hàng bạn phải đặt cọc một khoản tiền lớn gọi là “tiền trả trước”. Trevor, Ian và Shu đã gặp gỡ nhiều đối tác người Nhật Bản tiềm năng và cuối cùng chọn làm việc với một nhà bán lẻ thời trang tên là Marui. Trevor đã xây dựng quan hệ đối tác 50-50 để bắt đầu thiết lập hệ thống cửa hàng Virgin Megastores ở Nhật Bản.
Khó khăn với một cửa hàng đĩa nhạc là bạn phải cố gắng bán một sản phẩm giống hệt sản phẩm ở mọi cửa hàng đĩa nhạc khác. Virgin chẳng có gì để chúng tôi có thể gọi là sản phẩm của riêng mình hoặc chỉ có ở các cửa hàng của Virgin. Chúng tôi biết rằng các đối thủ của mình đang mất rất nhiều tiền ở Tokyo, một phần vì họ phải trả số tiền đặt cọc trả trước cho cửa hàng của họ rất cao, phần vì họ không xây dựng được những khách hàng trung thành cho nên không có nhiều người quay lại mua hàng.
Để tránh những cái bẫy này, chúng tôi đã liên doanh với Marui. Họ là nhà bán lẻ đầu tiên thực sự hiểu được tầm quan trọng của những ga tàu hỏa. Họ đặt những cửa hàng của mình ở gần những ga tàu hỏa lớn và vì vậy chắc chắn sẽ có đám đông những khách đi bộ qua cửa hàng. Trang phục của Marui nhằm vào giới trẻ, tạo ra sự phong phú và họ cũng đi tiên phong trong việc sử dụng loại thẻ tín dụng nội bộ phổ biến. Marui đã cố gắng tìm cho chúng tôi một địa điểm tuyệt đẹp ở Shinjuku, một khu vực mua sắm chủ yếu ở trung tâm Tokyo với diện tích khoảng hơn 3.000 vuông. Tài sản này thuộc về Marui và chúng tôi đồng ý một hệ thống, theo đó chúng tôi sẽ trả cho họ phần trăm nhất định trong doanh số thay vì trả tiền thuê cửa hàng cố định hàng tháng.
Bằng cách này chúng tôi tránh được việc trả tiền đặt cọc trả trước dễ dẫn đến phá sản và mặc dù hơn 3.000 mét vuông vẫn nhỏ so với tiêu chuẩn châu Âu nhưng nó lại lớn hơn bất cứ cửa hàng đĩa nhạc nào khác ở Tokyo. Nó chính là cửa hàng đầu tàu mà tôi muốn.
Để tạo sự khác biệt với những đối thủ cạnh tranh và để thu hút khách hàng, chúng tôi lắp đặt những thiết bị nghe nhạc và thuê một DJ. DJ không chỉ là một người giúp mọi người giải trí, bằng cách chơi những ca khúc nổi tiếng mà anh ấy nhanh chóng bù đắp được chi phí của mình với việc thúc đẩy doanh số. Tokyo Virgin Megastore nhanh chóng được tôn sùng như những cửa hàng ban đầu ở phố Oxford và Notting Hill. Những thiếu niên đi qua thành phố này đã tập trung tại đây và nó đã trở thành một điểm đến. Tokyo là một thành phố đắt đỏ, vì vậy những thiếu niên rất thích dành một buổi chiều nghe nhạc giá rẻ, trò chuyện và mua đĩa nhạc. Thời gian trung bình họ ở Tokyo Megastore là 40 phút – dài hơn khá nhiều cho một bữa ăn ở nhà hàng McDonald. Nó gần như là một sự mở rộng triết lý bán lẻ nguyên bản từ những năm 1970 của chúng tôi. Với 10 nghìn khách hàng một ngày, cửa hàng này đã thành công hơn cả những gì chúng tôi mong đợi.
Vì Ian ở Los Angeles nên Mike ở một mình. Để tiếp tục học, anh ấy đã theo bước anh trai bằng cách yêu một cô gái Nhật. Họ kết hôn trên đảo Necker.
Trong thời gian hai năm, giữa năm 1988 và 1990, mỗi công ty con của Virgin đã xây dựng thỏa thuận với một công ty Nhật Bản. Với Sega, Marui, Seibu-Saison và Fujisanke, chúng tôi đã có được vị trí có một không hai để bắt đầu mở rộng ở Nhật Bản. Tôi cũng bắt đầu tham gia một chuyến phiêu lưu mạo hiểm khác ở Nhật Bản: Per và tôi đã lên kế hoạch để khởi hành từ Nhật Bản và bay qua Đại Tây Dương tới Mỹ trong chuyến phiêu lưu trên khinh khí cầu lần thứ hai.
Per kể cho tôi nỗi sợ lớn nhất của anh ấy khi đã quá muộn. Khi anh ấy thú nhận rằng anh ấy đã không thể kiểm nghiệm khoang chứa ở áp suất buồng, anh ấy không chắc chắn 100% rằng nó sẽ tồn tại được ở độ cao hơn 12 nghìn mét, thì chúng tôi đang ở trên máy bay lên đường tới Nhật Bản. Nếu một cái cửa sổ bị thổi bay ở độ cao đó, chúng tôi sẽ chỉ có bảy đến tám giây để đeo mặt nạ oxy.
Per nói theo cách nói giảm thông thường: “Chúng ta sẽ cần để nó trong tầm tay. Tất nhiên, nếu người khác đang ngủ thì sẽ cần đeo mặt nạ và phải mất ba giây để làm việc đó, rồi người kia lại mất ba giây đeo nó, chỉ được phép lóng ngóng trong hai giây”.
Tôi không tưởng tượng được sự lóng ngóng với Per, thậm chí chỉ trong hai giây, tôi thề sẽ không ngủ trong suốt chuyến bay.

Tôi hỏi: “Chúng ta không có cảnh báo trước về nó à?”
“Nếu khoang chứa giảm sức ép, anh sẽ nhận thấy bỗng nhiên có sương mù. Khoang chứa sẽ chứa đầy sương mù. Anh sẽ nghe thấy tiếng la hét trong tai mình và sẽ trải qua cảm giác phổi mình như muốn vỡ tung khỏi lồng ngực và bắn qua miệng mình.”
Khi một nhà báo hỏi tôi về sự nguy hiểm của chuyến bay này, tôi đã kể lại những lời của Per.
Tôi nói với nhà báo: “Anh biết đấy, cần có một người trong chúng tôi thức suốt chuyến bay. Thay vì sử dụng những chỗ ngồi thoải mái của Virgin mà chúng tôi đã sử dụng để bay qua Đại Tây Dương, chúng tôi đã yêu cầu British Airways cho hai chỗ của họ.”
Chúng tôi dự định bay vào tháng 11, khi luồng khí qua Đại Tây Dương mạnh nhất. Tuy nhiên, đó cũng là thời điểm trong năm mà đại dương có bão dữ dội. Chúng tôi khởi hành từ Nhật Bản và gần như ngay lập tức đã ở trên biển. Sau đó chúng tôi sẽ phải bay hơn gấp đôi khoảng cách kỷ lục qua Đại Tây Dương là 3.000 dặm để tới Mỹ.
Đội của Per đã đưa khinh khí cầu và khoang chứa tới địa điểm khởi hành ở Miyakonojo
– một thị trấn nhỏ ở miền nam Nhật Bản, nơi họ tính toán để ở trực tiếp phía dưới luồng khí. Đêm đầu tiên ở đây, tôi đã nhận được cuộc gọi của Tom Barrow, người đã thất bại với Per khi vượt qua Đại Tây Dương. Chúng tôi đã thay Tom bằng Mike Kendrick nhưng Tom đã theo dõi tiến bộ của Per và cực kỳ lo lắng.
Anh ấy nói với tôi: “Anh sẽ kết thúc ở dưới nước. Ưu tiên đầu tiên là chuẩn bị một điểm hạ cánh an toàn để có thể sống sót ở biển. Ngược lại, nếu anh đến được đất liền thì 60% là lúc trời tối. Vào tháng 11 ở Bắc Mỹ, ban đêm kéo dài mười lăm tiếng một ngày, đặc biệt nếu anh đi xa hơn nữa về phía bắc. Anh không thể hạ cánh trong đêm vì vậy anh có thể phải bay thêm 15 tiếng nữa. Thậm chí với tốc độ 30 dặm một giờ, anh sẽ phải đi 1.000 dặm ở đất liền và sau đó anh có thể gặp rắc rối. Anh nên đưa ra giả thiết sẽ có bão – dù điều đó có vẻ khó xảy ra trong một ngày êm đềm, lặng gió. Đi lên phía bắc, mọi người sẽ ở trong cabin đợi thời tiết quang đãng. Vì Chúa! Anh hãy tìm kiếm và bảo đảm an toàn cho đội ở đúng vị trí. Đừng phụ thuộc vào thời tiết êm đềm để hạ cánh.”
“Hãy kiểm tra tất cả hệ thống trước khi anh khởi hành. Đừng tạo áp lực khi khởi hành.
Cho dù mọi thứ đã được thiết lập và hoạt động tốt thì chuyến bay vẫn rất nguy hiểm.” Tôi cảm ơn Tom về lời khuyên của anh.
Anh ấy còn nói với tôi: “Đây là lời cuối cùng tôi muốn nói về vấn đề này. Vượt qua Đại Tây Dương là một chuyến bay thành công đã vượt khỏi tầm kiểm soát. Tất cả chúng ta đều biết điều đó. Vào lúc cuối, chuyến bay đã hoàn toàn vượt khỏi tầm kiểm soát nhưng cả hai người đã sống sót. Hai người đã dạy cho nhau cách bay trên khinh khí cầu khi đi cùng nhau. Ở Đại Tây Dương, anh có thể hạ cánh gần một con tàu. Nhưng nếu là Thái Bình Dương, anh đã chết chắc rồi. Vì vậy, anh sẽ hạ cánh xuống biển và chết hoặc hạ cánh xuống đất liền trong đêm tối và thoát chết trong gang tấc.”
Tôi đặt điện thoại xuống. Tôi đang toát mồ hôi. Tôi vừa viết nguệch ngoạc những điều anh ấy nói thì tiếng điện thoại lại vang lên. Đó là Joan. Hôm đó là sinh nhật thứ tám của Holly. Nó nói qua điện thoại:
“Con đang viết nhật ký bố ạ. Bố con mình có thể trao đổi nhật ký khi bố về nhà”. “Tất nhiên rồi, con yêu!” – Tôi nói một cách khó khăn.
Khi tôi đề cập với Per về khả năng sống sót thấp nếu chúng tôi hạ cánh xuống biển, anh
ấy đã đồng tình.
Anh ấy nói một cách bất ngờ: “Chúng ta không cần bận tâm đến bảo hiểm sức khỏe. Chỉ cần bỏ tiền mua bảo hiểm nhân thọ”.
Khi đội của Per lắp ráp hệ thống điện trong khoang chứa, Per và tôi ngồi cùng nhau và bàn thảo kỹ lưỡng về việc tiến hành chuyến bay. Thật khó có thể tưởng tượng được một lần nữa chúng tôi lại bị giam trong cái khoang chứa bé xíu bao quanh bởi tất cả những đồ dùng này – chúng là phương tiện duy nhất để giao tiếp với thế giới bên ngoài.
“Nhìn này!” – Tôi thấy mình nói với một phóng viên khi anh ta xem lướt qua danh sách mọi thứ có thể có sai sót, “nó có thể là một mẩu bánh hoặc không gì cả.”
Luồng khí ở Thái Bình Dương có hình dạng khác với luồng khí ở Đại Tây Dương. Luồng khí ở Đại Tây Dương có cực hình chữ V, giống như logo Toblerone lộn ngược. Khi bạn lên cao, luồng khí sẽ trở nên rộng hơn và gió trở nên nhanh hơn, vì vậy, dần dần bạn sẽ tăng tốc so với tốc độ từ dưới mặt đất. Ở độ cao hơn 3.000 mét, luồng không khí hiện thời có thể là 50 dặm còn ở độ cao 8.000 mét sẽ là 100 dặm,v.v… Một khinh khí cầu có thể dễ dàng đi vào luồng không khí mà không bị va đập. Luồng khí ở Thái Bình Dương là một con thú hoàn toàn khác. Nó là luồng khí cận nhiệt đới có hình dạng giống như dây cáp một lõi. Ở độ cao hơn 6.000 mét, luồng khí có thể hoàn toàn tĩnh lặng. Ở độ cao 7.600 mét, nó vẫn vậy.
Rồi đột ngột ở độ cao hơn 8.000 mét, bạn chạm phải luồng khí, nó đang di chuyển với tốc độ 100-200 dặm. Từ trước đến giờ chưa ai từng bay trên khinh khí cầu trong luồng khí ở Thái Bình Dương và chúng tôi biết sẽ rất nguy hiểm khi phần trên khinh khí cầu chạm luồng khí, nó có thể bị cắt đứt khỏi khoang chứa đang lơ lửng ở dưới. Nếu điều đó không xảy ra thì chúng tôi biết nó sẽ bị va đập dữ dội. Khi khoang chứa di chuyển với tốc độ 5 dặm và khinh khí cầu di chuyển với tốc độ 200 dặm, chúng tôi biết lúc đầu nó sẽ giống như bị kéo bởi một ngàn con ngựa.
Nếu chúng tôi cố gắng để vào luồng khí, chúng tôi biết nó sẽ có một lõi bên trong có đường kính khoảng 1.200 mét. Để ở trong đường ống này chúng tôi phải thường xuyên kiểm tra đồng hồ đo độ cao và theo dõi bất cứ va đập nào ảnh hưởng đến khinh khí cầu và khoang chứa ở những luồng khí khác nhau.
Không khí ở Mikyakonojo giống như ngày hội. Một thầy tu đạo Shinto thậm chí đã đến để cầu chúc cho địa điểm này. Bố mẹ tôi cũng đến nhưng Joan đã chọn ở nhà cho đến khi khinh khí cầu xuất phát và sau đó đi máy bay đến Los Angeles để cô ấy và các con có thể gặp tôi khi chuyến bay kết thúc. Tối Chủ nhật, người dự báo thời tiết của chúng tôi, Bob Rice đã dự đoán điều kiện hoàn hảo cho chuyến bay là vào thứ ba, nhưng đến thứ Hai việc này được hoãn lại tới thứ Tư. Per và tôi dành thêm một ngày trong khoang chứa để kiểm tra thật kỹ mọi thứ có thể sai sót.
“Giữ lửa cháy – đó là tất cả vấn đề.” Tôi viết qua một trang giấy trong cuốn sổ sau cuộc họp kéo dài ba tiếng đồng hồ về tất cả những kết quả có thể xảy ra trong chuyến bay của chúng tôi.
Việc trì hoãn cho tôi cơ hội xem xét lại đống máy điện thoại, máy đo và cái ngắt điện được lắp đặt trong tường khoang chứa. Nó cũng cho tôi thời gian để đảm bảo tôi đã nhớ được sự khác biệt giữa cái ngắt điện để thả những thùng nhiên liệu trống rỗng và những cái ngắt điện để tách khinh khí cầu với khoang chứa!
Bob Rice thông báo: “Nó có mã màu vàng. Hy vọng đến ngày 23/11 đèn sẽ xanh được
2.100 giờ”.
Holly – con gái tôi, hỏi qua điện thoại: “Thái Bình Dương có phải là đại dương lớn nhất thế giới không ạ? Nó dài bao nhiêu dặm ạ? Bố sẽ mất bao lâu để bay vòng quanh thế giới?”
Đã đến giờ ngủ. Tôi nằm trên giường trong khách sạch mà không thể nhắm mắt được, vì vậy tôi bắt đầu viết nhật ký:
Cố gắng để nghỉ ngơi một vài giờ. Nhưng không thể làm được, thật khốn khổ. Nhìn ra ngoài cửa sổ thấy một ngày đẹp trời đã kết thúc. Làn khói bay lên từ núi lửa trông giống như một đám mây mỏng trên bầu trời. Những chiếc xe ô tô với loa phóng thanh đang chạy qua những con phố để thông báo giờ chúng tôi khởi hành. Pháo hoa dự định được bắn vào lúc 2h30 sáng để đánh thức những người trong thị trấn chưa tỉnh ngủ. Hãy tưởng tượng hội đồng một thành phố ở Anh làm việc này! Tôi vẫn không cảm thấy lo lắng: hân hoan, phấn khởi nhưng không thực sự thấy lo lắng. Mọi thứ có vẻ diễn ra tốt đẹp. Bob cảm thấy điều kiện để đi và hạ cánh đều tốt như chúng tôi mong đợi. Tuy nhiên, vẫn còn một chút lo lắng về việc bơm khinh khí cầu. Trong hai tiếng, chúng tôi phải trở lại địa điểm để phỏng vấn trực tiếp cho chương trình News at One.
Khi trở lại địa điểm khởi hành, tôi đã cảm thấy có vấn đề. Vỏ của khinh khí cầu vẫn nằm trên mặt đất: việc bơm khinh khí cầu vẫn chưa bắt đầu. Phòng điều hành chật cứng bởi đội của Per đang trả lời phỏng vấn: “Quá nhiều gió, quá nguy hiểm, gió thổi theo quá nhiều hướng”. Họ quyết định để vỏ khinh khí cầu nằm trên mặt đất và hy vọng cơn gió sẽ biến mất vào đêm hôm sau. Với một khinh khí cầu 70 tấn đứng yên lặng, một cơn gió mạnh có thể xé rách vải. Tôi quay ra ngoài và yêu cầu người phiên dịch cho chúng tôi. Một ai đó đưa cho tôi microphone và tôi đã xin lỗi đám đông lộn xộn ở sườn đồi trên địa điểm khởi hành. Chúng tôi hứa sẽ cố gắng xuất phát vào ngày mai.

Ngày hôm sau thật dài và mệt mỏi. Luồng khí có vẻ hoạt động bất thường và Bob Rice đang cố gắng tính toán để xem liệu chúng tôi nên hạ cánh ở California hay Yukon.
“Ồ, thời tiết chết tiệt” – Bob, nhà khí tượng học phức tạp và nổi tiếng nhất cuối cùng cũng nói: “Đi thôi!”.
Tôi trở lại khách sạn để ngủ đêm cuối cùng và lại một lần nữa tôi không nhìn ngọn núi lửa qua cửa sổ. Tôi nghe tiếng thấy tiếng trống bắt đầu vang lên trong thị trấn. Rồi một bản fax được đưa vào dưới cửa của tôi. Trên những đường kẻ chằng chịt, những chữ cái nghiêng nghiêng, Holly đã viết:
Con hy vọng bố không hạ cánh xuống nước hay hạ cánh không ổn. Con hy vọng bố sẽ hạ cánh an toàn và hạ cánh trên vùng đất khô ráo, cô Salavesen cũng nói chúc bố hạ cánh an toàn. Con hy vọng bố có một chuyến đi tốt đẹp.

Tái bút: Chúc bố may mắn! Con yêu bố!
Tôi uống thuốc ngủ và lên giường nằm.

Thương yêu Con gái Holly.

Vài giờ sau Per đánh thức tôi dậy rồi chúng tôi lái xe tới địa điểm khởi hành. Một đám đông khoảng 5.000 người đã đến xem chúng tôi trong thời tiết lạnh giá. Có những gia đình, các bà và các em nhỏ. Tôi nghe tiếng hò reo khi khinh khí cầu bay lên từ mặt đất và lắc lư trên khoang chứa. Cái mỏ đèn cháy ầm ầm để đốt nóng không khí. Gió vẫn yên lặng nhưng chúng tôi cần khởi hành càng sớm càng tốt đề phòng có cơn gió mạnh có thể đuổi kịp chúng tôi trên mặt đất. Hàng trăm cái lò than đã được đưa ra trên con dốc. Khói của chúng bay thẳng lên bầu trời đêm đầy sao cho thấy rõ ràng gió lặng như thế nào.
Khi tôi đứng cùng với bố mẹ, say mê ngắm nhìn vẻ đẹp tráng lệ của khinh khí cầu thì một dải vải bỗng nhiên bong ra khỏi vỏ khinh khí cầu và rơi xuống.
Bố tôi hỏi: “Cái gì vậy?” Tôi chạy đi tìm Per:
“Chuyện gì đang xảy ra vậy?”
Per nói: “Chẳng có gì phải lo lắng về điều đó. Chỉ là mất một ít hơi nóng. Khinh khí cầu đủ lớn để đương đầu với nó”.
Tôi đưa Per trở lại phòng điều hành và bố tôi bắt tay anh ấy. Bố tôi nói: “Có cái gì đó đang đập vào giữa vỏ khinh khí cầu”.
Per nói: “Đó là không khí đang đi lên bên cạnh của khinh khí cầu”.

Bố tôi có vẻ không tin.
Per và tôi ra ngoài và đứng bên dưới khinh khí cầu. Thực tế đã có một lỗ hổng khi dải vải bị bong ra. Chúng tôi trở lại phòng điều hành và tìm bố tôi.
“Bố đừng kể với mẹ con” – Tôi nói “chúng con có một lỗ hổng, nhưng Per vẫn cảm thấy chúng con sẽ đến được Mỹ”.
Bố tôi bảo: “Con không thể bay với thứ này được đâu”. Một phút sau, lại có thêm những dải vải bắt đầu rơi xuống.
Per nói: “Richard, tôi sợ rằng chúng ta phải hủy bỏ chuyến bay. Nếu chúng ta cất cánh, chúng ta sẽ kết thúc dưới đáy Thái Bình Dương.”
Tôi nhìn đám đông ở sườn đồi. Tôi sẽ khiến tất cả bọn họ thất vọng. Bàn tay run run vì lạnh và thất vọng cay đắng, một lần nữa tôi lấy microphone.
Tôi nói, cố gắng để giọng của mình không tắc nghẹn: “Tôi xin lỗi. Dải vải của khinh khí cầu đã bị giật ra. Chúng tôi nghĩ đó là vì chúng tôi đã để khinh khí cầu ở ngoài suốt đêm cuối cùng và có một con ếch đã vào trong nó…”
Khi người phiên dịch lặp lại lời của tôi, đám đông trĩu xuống. Rồi có tiếng nói hổn hển, tôi nhìn lên thì thấy có ba bốn mảnh vải rời ra khỏi vỏ khinh khí cầu và rơi vào mỏ đèn.
Một người nào đó đã kéo chúng ra nhưng toàn bộ khinh khí cầu đã tan nát trước mắt chúng tôi.
Tôi hét lên: “Tắt mỏ đèn đi! Đứng lùi ra khỏi đó”.
Không có mỏ đèn, khinh khí cầu chùng xuống. Nó đổ về một phía, không khí nóng thoát ra ngoài qua lỗ hổng của nó.
Tôi hứa: “Chúng tôi sẽ quay trở lại vào năm sau. Xin hãy tin tưởng chúng tôi.”
Khi tất cả chúng tôi lái xe trở về khách sạn, bố tôi bảo: “Ổn thôi Richard, kỳ nghỉ với con không bao giờ buồn tẻ”.
Joan đã đi được hai tiếng trên chuyến bay tới Los Angeles khi cô nghe được những tin tức này.
Cô ấy kêu lên: “Tuyệt vời! Làm ơn hãy chuẩn bị rượu sâm panh!”
Viên phi công kéo cái van và chiếc trực thăng bay cao hơn. Biển xanh xám lung linh, lấp lánh phía dưới chúng tôi. Tôi quan sát khi chúng tôi đến gần Necker: dải san hô màu trắng và dải bãi biển xanh xám, những cây cọ nghiêng nghiêng và mái nhọn của căn nhà Bali, màu xanh thẫm của rừng trong đất liền. Chúng tôi bay vòng quanh trên cao và tôi trông thấy gia đình và bạn bè của mình đang đứng trên bãi biển. Hầu hết họ mặc đồ trắng với mũ rộng vành. Loáng thoáng có màu của một vài chiếc áo sơ mi miền nhiệt đới. Tôi nhận ra Vanessa và Robert; Lindi và chồng cô ấy, anh Robin; tất lũ trẻ con; Peter và Ceris; các bạn và hàng xóm của tôi đến từ Mill End; Ken và vợ anh ấy Nancy; Simon và vợ anh ấy, cô Francoise. Tôi vẫy tay khi họ ngẩng mặt lên. Giữa đám đông, tôi nhìn thấy Joan mặc chiếc váy màu trắng tuyệt đẹp, đứng với Holly và Sam, chị cô ấy là Rose, anh trai cô ấy là John và mẹ cô ấy đứng bên cạnh. Bà tôi đứng cùng với bố mẹ tôi, vui vẻ vẫy tay với tôi.
Tôi vỗ vai người phi công và anh ấy đưa chiếc trực thăng bay vòng tròn một lần nữa.
Tôi lấy hộp kẹo Milk Tray và ngậm trong miệng. Mọi thứ đã ở đúng vị trí. Tôi cúi xuống và ngừng lại khi mở cửa. Cơn gió nóng thổi mạnh vào mặt tôi, bãi biển và biển xanh bạc xoay tròn phía dưới khi tôi nhìn xuống. Chúng tôi lượn qua bể bơi. Tôi giữ chặt cánh cửa và nhìn người phi công.
Anh ấy hét lên: “Tất cả là do các quý cô đều yêu thích kẹo Milk Tray!” Tôi đáp lại: “Trẻ con cũng vậy”.
Tôi giơ ngón cái lên với anh ấy, nhìn xuống cái bể bơi lần cuối ở ngay phía dưới và rồi trèo ra ngoài thanh chắn đu xuống. Cuối cùng Joan và tôi cũng kết hôn và tôi không muốn kẹo Milk Tray tan chảy. Tôi chuẩn bị nhảy.

Chọn tập
Bình luận