2006
Rất nhiều điều đã đến cùng một lúc vào mùa hè năm 2006 khiến tôi phải tập trung vào hai vấn đề có mối liên quan với nhau đó là hiện tượng nóng lên toàn cầu và giá nhiên liệu tăng cao. Tôi nhìn thấy tín hiệu báo động đầu tiên khi các con số cho thấy rằng hóa đơn tiền nhiên liệu của Virgin tăng nửa tỷ đô-la một năm.
Khi còn trẻ, có thể do bị ảnh hưởng bởi một người họ hàng của mình là Peter Scott, người sáng lập ra Quỹ Động vật hoang dã Thế giới, tôi rất quan tâm đến vấn đề môi trường. Tôi bị hấp dẫn bởi Thuyết Gaia, một giả thuyết do James Loverlock đưa ra khoảng 40 năm về trước, thuyết này chỉ ra rằng Trái đất là một thực thể sống như một tế bào đơn lẻ, và giống như một tế bào đơn lẻ, mọi thứ mà nó cần để tồn tại đều nằm trong nó. Giáo sư Lovelock tin rằng hành tinh này có thể tự hàn gắn mọi phá hủy nhưng thậm chí với Gaia, không có điểm để trở về và khi đã vượt quá điểm này thì mọi thứ không thể đảo ngược trở lại. Chúng tôi biết nguy hiểm nào đến từ việc lãng phí tài nguyên và đốt cháy nhiên liệu hóa thạch một cách bừa bãi nhưng rất nhiều lý do, giữa những phần xanh nhất của phần màu xanh thì không có cảm giác khẩn cấp thực sự. Tôi e rằng không để cho đến khi điều này ảnh hưởng đến cá nhân tôi thì tôi mới đứng dậy và để ý.
Lần đầu tiên tôi quan tâm đến nhiên liệu thay thế là vào những năm 1990 khi tôi ý thức hơn rằng dầu là nguồn tài nguyên hạn chế. Dầu ở vùng biển Bắc do Anh sở hữu đang cạn kiệt và hầu hết phần còn lại nguồn cung cấp trên thế giới đang nằm trong tay của OPEC tại vùng Trung Đông bất ổn, nơi đó có thể làm cho dầu lửa vừa bị tấn công vừa đắt đỏ. Cuộc chiến tranh giữa Iraq và Iran vào những năm 1980 đã nâng giá dầu từ trung bình 16 đô-la một thùng lên đến khoảng 70 đô-la một thùng. Khi Saddam theo chân Kuwait tới mỏ dầu năm 1990, họ khẳng định rằng dầu không được bảo vệ khỏi chiến tranh. Là người tham gia kinh doanh ngành giao thông, tôi cần phải quan tâm đến giá dầu cũng như tính sẵn có của dầu và tôi tìm nhiên liệu thay thế. Virgin sử dụng hơn 700 triệu ga-lon nhiên liệu máy bay cho bốn tuyến hàng không, và một lượng lớn dầu diesel cho công ty Virgin Trains. Vào năm 1997, khi chúng tôi đầu tư vào một đoàn tàu mới, tôi hỏi nhà sản xuất Alstom để đảm bảo rằng đoàn tàu này sử dụng nhiên liệu một cách hiệu quả. Kết quả là đoàn tàu Pendolino của chúng tôi là đoàn tàu duy nhất ở châu Âu cho 20% lượng điện quay trở lại hệ thống đường dây mỗi lần phanh tàu. Và tàu điện diesel Voyages của chúng tôi được chuyển sang dùng nhiên liệu sinh học xay từ bã nho và đậu nành.
Năm 2005, sau cơn bão Katrina, khi Mỹ khoan nền của Vịnh Mexico và các nhà máy lọc dầu khổng lồ dọc bờ Vịnh bị tàn phá hoặc phá hủy, giá dầu lọc ở Mỹ tăng cao kịch kim.
Cùng với thiếu hụt về khả năng, tôi bắt đầu tìm hiểu tiềm năng đầu tư vào nhà máy lọc dầu của riêng mình, và trên thực tế tôi đã đăng một bài báo nói rằng chúng tôi đang xây dựng một nhà máy lọc dầu với hy vọng sẽ làm giá dầu giảm xuống.
Ted Turner là sự pha trộn của một nhà tư bản, một chuyên gia môi trường, một nhà từ thiện, ông nổi tiếng vì đã sáng lập và kênh thời sự CNN, ông đang sở hữu Atlanta Brave, một nhà du thuyền Olympic và từng chiến thắng cúp America. Lần cuối cùng tôi gặp ông là ở Hội nghị thượng đỉnh Y tế Thế giới Time vài tháng trước, cùng với Bill Gates, Madeleine Albright, Paul Wolfwitz, Bono và một số nhân vật khác – và sau khi tôi thông báo ý định của mình về việc xây dựng một nhà máy lọc dầu, Ted gọi điện cho tôi và nói: “Richard, anh đã nghĩ đến nguồn nhiên liệu thay thế chưa?”
“Anh có gợi ý gì không?”
“Tại sao anh không xây dựng một nhà máy lọc nhiên liệu sạch thay vì nhiên liệu bẩn?
Hãy đến và gặp người của tôi đi. Họ sẽ nói với anh rằng vẫn còn một cách khác.”
Ted mời tôi đến Washington ăn trưa với một vài thành viên của Quỹ tài trợ Liên hợp quốc, một nhóm chuyên gia cố vấn đã bắt đầu với quỹ tài trợ 1 tỷ đô-la để kiểm tra các vấn đề môi trường và thúc đẩy nhiên liệu sinh học ở Mỹ. Xung quanh bàn ăn với Ted là Thượng Nghị Sĩ Tim Wirth, Chủ tich UNF, John Podesta, cựu trưởng nhóm nhân viên của Bill Clinton; Boyden Grey, cố vấn pháp luật của George Bush (mới được bổ nhiệm là Đại sứ của Mỹ ở châu Âu) và Reid Detchon, lãnh đạo Liên minh Năng lượng tương lai.
Vấn đề thảo luận ngay lập tức được chuyển sang nhiên liệu sinh học. Tôi đã biết một chút về nhiên liệu nói chung, nhưng chưa biết nhiều về nhiên liệu sinh học như mọi người. Trong khi họ nói chuyện, tôi ghi chép vào quyển sổ tay mà tôi luôn mang theo, và vào cuối bữa ăn, tôi nhận ra rằng họ đã đúng. Thay vì đầu tư vào kiểu lọc dầu truyền thống, Virgin nên đầu tư một số tiền lớn vào sản xuất nhiên liệu thay thế. Tôi thấy may mắn khi đưa ra một quyết định nào đó, tôi có thể tham gia ban chỉ đạo của Liên minh năng lượng tương lai của Ted; và khi quay trở lại với nhóm của mình ở công ty Virgin, tôi yêu cầu họ tìm hiểu về ethanol do nhà máy sản xuất. Kết quả là tôi trở nên thích thú với tiềm năng của nhiên liệu sinh học. Đó thực sự là một điều cần thiết đối với môi trường và là một cách để nới lỏng sự phụ thuộc của thế giới vào các giếng dầu. Cả về mặt môi trường lẫn kinh tế, thật hoàn hảo nếu các quốc gia tự sản xuất dầu và sử dụng nó như điểm xuất phát, không cần phải chuyên chở nó qua nửa vòng trái đất – do đó ta có thể tiết kiệm được chi phí và giảm sự phát thải khí CO2.
Tôi thành lập Virgin Fuels vào đầu năm 2006, và bắt đầu một chương trình nghiên cứu đầu tư và phát triển nhiên liệu sinh học. Lần đầu tư đầu tiên của chúng tôi là để hỗ trợ công ty Cilion ở California, công ty này sản xuất ethanol sinh học từ ngô. Chúng tôi bắt đầu xây dựng nhà máy nhiên liệu sinh học ở phía Tây nước Mỹ và tại bang Tennessee, với cả hai mục đích là khởi nguồn và sử dụng, rồi sau đó chuyển sang Brazil. Bước tiếp theo là mở rộng sang bờ Đông của nước Mỹ và một số nơi khác ở châu Âu.
Tôi không hoàn toàn là người thuộc chủ nghĩa vị tha. Nhiên liệu thay thế sẽ là một hoạt động kinh doanh tốt, đầu tư vào lĩnh vực này sẽ tạo sức ép lên giá dầu thô và sẽ là vòng bảo hộ cho ngành hàng không và công ty tàu của Virgin. Nếu giá dầu vẫn tăng cao thì chúng tôi có thể khiến nó giảm giá cả về việc nghiên cứu, phát triển và việc đầu tư vào chi phí xây
dựng nhà máy. Thật là hoàn hảo nếu nhiên liệu của riêng chúng tôi thay thế một vài hoặc tất cả các nhiên liệu truyền thống trong khoảng từ năm đến sáu năm nữa.
Đầu mùa hè năm 2006, công ty Virgin Fuels đã sẵn sàng đầu tư lần đầu nhưng tôi vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tính cấp bách của hiện tượng nóng lên của toàn cầu. Nhưng không gì có thể thức tỉnh vấn đề này hơn việc cựu Phó Tổng thống Mỹ đã vượt qua cả một chặng đường đến nhà bạn ở Holland Park, London để thuyết trình một bài giảng cá nhân về hiện tượng nóng lên của toàn cầu. Khi bộ phim An Inconvenient Truth (Một sự thật đau lòng) được sản xuất vài tháng sau đó, tôi nhận ra rằng ông đã thử tôi vào ngày hôm đó.
Chúng tôi ngồi xuống ở dãy bàn thấp trong phòng khách, Joan phục vụ bánh và trà. Al ngồi ở góc bàn và bật chiếc máy tính cá nhân của mình lên. Tôi ngồi trên một chiếc ghế tựa lớn, Will Whitehorn ngồi sau tôi và Steve Howard của Nhóm Khí hậu ngồi ở phía đối diện, tất cả chúng tôi đều hướng về màn hình. Đây quả là một trải nghiệm hiếm có khi được lắng nghe một nhà diễn thuyết thiên tài như Al Gore thuyết trình ngay tại nhà. Đó không chỉ là một bài thuyết trình hay nhất mà tôi từng được nghe trong cuộc đời mình mà nó còn làm xáo trộn khiến chúng tôi nhận thức được rằng chúng ta đang phải đối mặt với ngày tận thế của thế giới. Tác động lên loài người và thế giới tự nhiên có thể lớn đến mức chúng ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải làm một điều gì đó quyết liệt, trước hết là để ngăn chặn các tác động đó và sau đó là để quay lại.
Trong suốt cuộc thảo luận căng thẳng của chúng tôi, Steve Horward nói rằng chúng tôi cần phải khiến mọi người tin rằng đây là một vấn đề có thể giải quyết được. Một số người nghĩ rằng việc giải quyết vấn đề thay đổi khí hậu có thể phá hủy nền kinh tế và do đó đây là một vấn đề không thể giải quyết được; nhưng chúng ta có thể làm nhiều thứ. Chúng ta thực sự không có sự lựa chọn nào khác trong vấn đề này: chúng ta phải hành động.
Al đồng ý. Nhìn thẳng vào tôi, ông hỏi: “Richard, anh rất hiểu thế giới. Anh có thể cùng tôi đi tiên phong giải quyết sự biến đổi khí hậu. Chúng ta cần các nhà lãnh đạo về kinh doanh dẫn đường chứ không phải các chính trị gia.”
Bài giảng của Al Gore có tính chất luận chiến, nhưng nó có đủ tính khoa học để mang lại hiệu quả. Đó là lần đầu tiên tôi được nghe thuyết trình đầy đủ về tính tàn khốc của những ảnh hưởng mà sự biến đổi khí hậu mang đến. Ngay lập tức tôi thấy rằng nếu chúng ta không nhanh chóng làm gì đó để xử lý tình trạng phát thải khí carbon thì chỉ trong một thời gian ngắn nữa thôi, Trái đất sẽ không còn là nơi có thể sinh sống được và các loài động vật trên hành tinh sẽ giảm nhanh. Hầu hết các loài động vật và thực vật sẽ bị tuyệt chủng và cuộc sống sẽ trở nên khốn khó. “Tôi chỉ định khai trương đường bay mới tới Dubai”, tôi nói. Thông thường, tôi thích làm những việc như thế này – nhưng bây giờ tôi có thể nhìn thấy nghịch lý của nó. Chúng ta muốn kết nối thế giới, chúng ta muốn bay nhưng chúng ta cũng muốn giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu.
“Chúng ta có bao nhiêu thời gian?” tôi hỏi
Al trả lời: “Các nhà khoa học nói rằng chúng ta có thể có mười năm trước khi vượt qua
điểm chóp, nếu vượt qua điểm đó thì đã là quá muộn. Chúng ta phải có một bước khởi đầu với quy mô lớn và phải thực sự quyết tâm. Việc đầu tiên chúng ta cần làm đó là bắt đầu cân bằng lượng khí CO2 trong vòng năm năm tới. Sự tiến hóa là một phần của quá trình này.
Bộ não của chúng ta rất giỏi trong việc nhận thức nguy hiểm ở dạng răng nanh và móng vuốt, nhện độc và lửa, nhưng chúng ta cảm thấy rất khó để đối đầu với những hiểm nguy vô hình cho đến khi mọi thứ đã là quá muộn – giống như việc thế giới đang nóng lên. Điều đó đang diễn ra ở hai cực trái đất, nơi rất ít người nhìn thấy và quan tâm.”
Al nói rất thuyết phục và có pha một chút hài hước, bất chấp trong cuộc tranh luận của ông với Will về việc Lovelock viết thuyết Gaia lần đầu tiên khi nào. Đôi khi thật thú vị khi trong cùng một căn phòng có hai người đều cho là mình đúng!
Sau khi Al Gore ra về, Will và tôi có một cuộc trò chuyện dài về cách mà Virgin có thể dẫn đường trong vấn đền giải quyết hiện tượng biến đổi khí hậu. Rõ ràng, với hơn 50 nghìn người đang làm việc cho chúng tôi và đứng trước nguy cơ công ăn việc làm của họ bị đe dọa, tôi không muốn có một sự thay đổi mạnh mẽ nào, điều đó có nghĩa là chúng ta đang làm ăn thua lỗ, nhưng tôi đã thấy cách mà Virgin có thể hành động có trách nhiệm là tạo ra những thay đổi nhỏ – ví dụ như sử dụng bóng đèn sáng lâu hơn và không dùng giấy – cũng như những thay đổi lớn, như chuyển sang dùng nhiên liệu sinh học khi có thể. Chúng tôi đặt ra cụm từ “Chủ nghĩa Tư bản Gaia” để miêu tả điều này. Khái niệm Chủ nghĩa Tư bản Gaia nói về các cách giải quyết: chúng ta muốn lấy sự mâu thuẫn rõ ràng và chỉ ra rằng nó hoạt động và khiến nó trở thành sự thật. Chúng ta có thể thực hiện điều này một cách hiệu quả vì Virgin giống như một hệ sinh thái có quy mô lớn. Các phần của hệ này hoạt động và điều hành tách rời nhau, và thậm chí chúng có những cổ đông riêng của mình, nhưng chúng luôn có mối liên hệ với nhau.
Ba tháng sau, Bill Clinton gọi cho tôi để xem liệu tôi có hứa ủng hộ Sáng kiến toàn cầu của ông không. Đêm hôm đó, khi đang ngâm mình trong bồn tắm, tôi nảy ra một ý tưởng. Al Gore đã nói rằng ông ấy cần tôi dẫn đường. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi hứa sẽ ủng hộ 100% lợi nhuận của Virgin Group có được từ hãng hàng không của chúng tôi cùng công ty tàu hỏa và sau đó đầu tư số tiền này vào việc phát triển nhiên liệu thay thế? Điều này có thể tạo ra sự khác biệt và có thể sẽ cuốn hút các nhà lãnh đạo khác cùng tham gia.
Sau cuộc trò chuyện với Bill Clinton, hai tháng sau đó tôi bay đến New York và tham dự vào Sáng kiến toàn cầu của Clinton. Ngày 21/9, ngày thứ hai của hội nghị, tôi tham gia cùng Bill Clinton và Al Gore hứa sẽ ủng hộ 3 tỷ đô-la để phát triển nhiên liệu sạch. Khi tôi định ký vào văn bản cam kết, tôi nhìn lên Tổng thống Bill Clinton và có một khoảng lặng xúc động, ngừng bút và tôi nói: “Nhiều số không kinh khủng.”
Đó là một lời cam kết chắc chắn, không chỉ thúc đẩy Virgin Group tiến về phía trước mà còn truyền cảm hứng cho các công ty khác. Ý tưởng xác định các công ty giao thông của chúng tôi đầu tư nhưng nếu ý tưởng đó cùng chung một hướng thì tiền sẽ phát triển từ các công việc kinh doanh khác của chúng tôi. Chúng tôi sẽ làm, cho dù chuyện gì xảy ra đi nữa. Một trong những điều mà tôi nhấn mạnh rằng đây không phải là công việc từ thiện. Dự án
Gaia của chúng tôi dựa trên ý nghĩa về thương mại. Tôi không muốn phương tiện truyền thông có ấn tượng rằng đây là một kiểu từ thiện vì lý do môi trường – nhưng họ đã làm như vậy, họ vẽ tôi thành một người hảo tâm mang tầm vũ trụ.
Lời công bố công khai của tôi trong giây lát đã lan tỏa khắp thế giới. Sau đó, Steve Horward nói: “Richard, chúng ta làm việc với rất nhiều tổ chức khác nhau, nhưng bước đi thay đổi của Virgin là không song song. Thực sự rất ấn tượng khi thấy cỗ máy Virgin tự giải phóng mình.”
Một số người hỏi tôi cảm thấy thế nào về việc giá dầu đang tăng cao. Với sự thất vọng của một vị Chủ tịch của một hãng hàng không, tôi nói: “Tôi nghĩ rằng việc tăng giá dầu là điều tốt nhất đang xảy ra trên thế giới. Nó buộc các Chính phủ và các công ty lớn phải tìm ra cách mới để ít phụ thuộc vào dầu. Chúng tôi cần một vài điều gì đó tương tự xảy ra để ngừng sự phụ thuộc hoàn toàn vào nhiên liệu hóa thạch. Nếu chúng ta thấy đúng, thì điều này có thể làm cuộc chiến tranh ở vùng Trung Đông dừng lại trong tương lai.”
Tôi thích học những điều về ngành công nghiệp mà tôi không biết. Ở trường, tôi không hứng thú với hóa học. Giờ đây tôi muốn học mọi thứ để biết về ethanol, cellulosic ethanlol, ISO butanol, methane và carbon; những sản phẩm tốt nhất để tạo ra nhiên liệu từ đường, ngô, cỏ, cây liễu và các sản phẩm rác, về năng lượng gió và năng lượng mặt trời; và về hydrogen, về địa nhiệt. Sau một khóa học ba tháng cấp tốc, tôi cảm thấy mình đã được trang bị đầy đủ để bắt đầu thực hiện lời thề 3 tỷ đô-la bằng cách tăng giá sản phẩm của Virgin Fuels theo sức ép của toàn cầu. Nhưng cách tốt nhất để họ bắt tay vào việc: cố gắng biến Necker và Moskito thành hòn đảo 100% carbon trung tính đầu tiên; xây dựng nhà máy sản xuất ethanol từ ngô và đường đầu tiên; cố gắng phát triển ISO butanol sạch cho máy bay; và nhiều việc khác nữa. Tôi muốn tái chế năng lượng như việc nguồn vốn tư nhân đã làm cho điện thoại hai thập kỷ trước bằng cách biến một ý kiến nhỏ thành hiện tượng của thế giới.
Đến cuối năm 2006, tôi mời Tim Flannery đến Necker để nói chuyện với tất cả các Giám đốc quản lý của Virgin trên toàn thế giới về vấn đề môi trường. Tim là một nhà khoa học và một nhà thám hiểm lỗi lạc của Australia, ông là tác giả của cuốn sách làm rung chuyển thế giới The weather makers (Người tạo nên thời tiết). Ông cũng là người đầu tiên khiến tôi suy nghĩ về vấn đề khí hậu. Tôi nghĩ rằng những gì Tim sẽ làm đó là giúp Virgin có được một nền tảng về khoa học cho con đường mà chúng tôi đang bắt tay vào, và giúp cho chúng tôi hiểu tại sao mình lại đi trên con đường đó. Tôi vừa thực hiện một cam kết chắc chắn rằng đây sẽ trở thành chiến lược công nghiệp của Virgin trong thế kỷ XXI. Tôi chắc chắn rằng mình đang bị nhiều người chỉ trích. Mọi người có thể chỉ trích tôi rằng: “Nếu sự phát thải khí CO2 là một vấn đề thì tại sao Richard Brandson lại không ngừng các máy bay của ông ấy?” Nhưng mọi người muốn bay và nếu chúng tôi ngừng lại, chúng tôi sẽ tạo ra một khoảng trống và một ai đó không có tinh thần trách nhiệm sẽ thế chỗ. Chúng tôi muốn trở thành người thực hiện các chuyến bay, nhưng bay theo cách có trách nhiệm. Đối với vấn đề này, vào cuối năm, chúng tôi hướng tới việc tiết kiệm nhiên liệu khi máy bay cất cánh. Nếu những chiếc máy bay này được lai dắt từ cuối đường băng để chờ cất cánh, thì
chúng không cần đứng chờ quá lâu mà động cơ vẫn thải khí CO2. Chúng tôi bắt đầu thí nghiệm những viên bi lăn tại sân bay Gatwick và Heathrow. Nếu các hãng hàng không khác đều làm như vậy thì chúng tôi ước tính chúng ta sẽ tiết kiệm được ba tấn nhiên liệu cho mỗi chuyến bay và cùng với những nỗ lực khác, các hãng hàng không có thể cắt giảm khoảng 25% lượng phát thải khí carbon trên toàn thế giới.
Còn trường hợp của Virgin Atlantic Challenger Global Fyer. Chiếc máy bay này không làm bằng kim loại; thay vào đó nó được làm hợp chất carbon, chất liệu nhẹ nhưng có thể vận hành an toàn ở độ cao nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng một cách ngạc nhiên. Một năm trước, khi đến Salina và Kansa, tôi đã nhìn thấy chuyến bay đầy kinh ngạc đó cất cánh. Tôi đã đuổi theo nó tới vùng hoang vu lạnh lẽo của Canada và trở lại Kansa khi nó hạ cánh 67 giờ sau. Tôi rất thích thú khi mình được chứng kiến nó đã lượn vòng giống như một con đại bàng rực rỡ trên độ cao khoảng 15 nghìn mét, và sử dụng ít nhiên liệu hơn một phương tiện bốn bánh trong mỗi giờ bay. Thành tựu đáng ngạc nhiên này đã dẫn đường cho chúng tôi mở công ty Virgin Galactic và đầu tư vào vũ trụ, vùng biên giới cuối cùng. Không có vũ trụ, và không có công việc của những tổ chức như NASA thì chúng tôi thậm chí còn không biết hoặc không hiểu về tình hình thực tế của sự biến đổi khí hậu hay tình hình dân số thế giới. Các thông tin từ vệ tinh cho phép người nông dân dự đoán thời tiết trong khoảng thời gian lâu hơn và giúp họ lên kế hoạch trồng trọt và thu hoạch một cách tốt nhất. Vũ trụ cũng cung cấp cho chúng ta câu trả lời về những chuyến đi cần thiết trong tương lai mà không có ảnh hưởng của khí quyển. Tuy nhiên, đáng buồn là công nghệ thì vẫn bẩn, vẫn ô nhiễm còn hàm lượng carbon vẫn ngày một tăng cao. Kỷ nguyên của chiến tranh lạnh và không có đầu tư tư nhân vào hệ thống phóng tàu lên vũ trụ đã sử dụng nhiên liệu có thể tái chế. Chúng tôi cũng có mục đích thay đổi điều đó.
Sử dụng chiếc máy bay Virgin Atlantic Challenger Global Flyer như là một mô hình, đoàn máy bay của Virgin Galactic là đoàn máy bay thân thiện với môi trường. Bên cạnh việc xây dựng tàu vũ trụ từ vật liệu carbon tổng hợp, mẫu hệ thống phóng tàu đầu tiên sử dụng hỗn hợp nhiên liệu chuyển hóa từ khí tê và cao su, và với hệ thống phóng tàu độc đáo đó, chúng tôi có thể thực hiện hàng nghìn chuyến bay cho từng người trong NASA.
Một trong những sự kiện lớn của công ty trong những năm vừa qua là Virgin Galactic vẫn hoạt động tốt. Dĩ nhiên chúng tôi có ý tưởng về hệ thống phóng tàu thân thiện với môi trường do Burt Rutan phát triển – thật thích thú khi nhận ra rằng đây có thể là hệ thống phóng tàu lên không gian mới để đưa hành khách và các nhà khoa học lên vũ trụ. Điều thứ hai, tôi có thể nhìn rõ tương lai và trả lời rất nhiều câu hỏi như: tại sao không gian vũ trụ lại là vấn đề quan trọng? Và tại sao anh lại tham gia vào vấn đề này? Dường như rất nhiều người nghĩ rằng Virgin Galactic là một kiểu thử thách, một thú tiêu khiển cá nhân cho dù nó vô cùng đắt đỏ. Quả thực, không gian vũ trụ là tương lai của loài người. Mọi người từ Tiến sỹ Tim Hansen ở Viện Goddard của NASA, một trong những cha đẻ của khoa học không gian, cho đến Giáo sư Stephen Hawking, cha đẻ của vật lý hiện đại, đều đồng ý rằng lối tiếp cận tốt hơn đến không gian và việc sử dụng không gian đang trở nên quan trọng đối với việc định hướng lại các ngành công nghiệp thế giới trong việc đương đầu với hiện tượng biến đổi khí hậu.
Lúc đầu, chúng tôi thậm chí còn không biết về biến đổi khí hậu nếu không có công việc từ trên vũ trụ chứng minh rằng khí hậu đang biến đổi. Khoa học dưới mặt đất không thể chứng minh sự biến đổi khí hậu như cách mà các vệ tinh đã làm. Thứ hai, rất ít người nhận ra rằng chúng ta không thể cung cấp thực phẩm cho tất cả mọi người trên thế giới mà không quan sát về khí hậu và dự báo thời tiết, công việc mà chúng ta chỉ có thể làm từ không gian. Vệ tinh thời tiết và nông nghiệp cùng hệ thống định vị toàn cầu trong không gian giúp người nông dân hiểu về các kiểu thời tiết và năng suất tăng 15% so với dự báo bằng kinh nghiệm. Các thùng chứa hoa quả sẽ không bị hỏng tại các bến tàu nữa; người nông dân sẽ chọn để xay ngô một ngày sớm hơn, trồng sớm hơn một ngày, trồng trong ngày kế tiếp. Điều đầu tiên mà rất nhiều người nông dân tại vành đai trồng ngô ở Mỹ, ở vùng đồng bằng Ấn Độ hay ở vùng miền trung Trung Quốc làm vào mỗi buổi sáng đó là lên mạng Internet và kiểm tra xem vệ tinh nông nghiệp dãy dài thông báo xem họ nên làm gì trong ngày hôm đó hoặc tuần đó. Lối tiếp cận với không gian cho phép chúng ta nâng cao khoảng 10% sản lượng lương thực trong 15 năm qua – đáp ứng được với sự tăng dân số.
Một trong những điều quan trọng nhất mà chúng ta đang phải đối mặt như một phần của sự văn minh hóa đó là gia tăng dân số. Đó là chìa khóa cho sự tồn tại của chúng ta trên hành tinh này. Chúng ta không thể tìm thấy giải pháp mang tính khoa học và công nghệ trừ khi chúng ta có sức mạnh ý chí để tìm ra giải pháp đó. Vấn đề là cuộc vận động hành lang về môi trường chưa thực sự hiểu được là trên hành tinh này có 6,5 tỷ người.
Tim Flannery nhìn thấy Trái đất như một con tàu vũ trụ đang quay trong không gian. Đây là điều mà anh ấy nói về chủ đề dân số trên con tàu Trái đất trong cuốn The Weather Makers:
Năm 1961, vẫn có chỗ cho diễn tập quân sự. Ở thời đó, thế giới chỉ có 3 tỷ người, và con người chỉ sử dụng một nửa tổng số tài nguyên mà hệ sinh thái toàn cầu có thể cung cấp một cách bền vững. Chỉ trong 25 năm sau, vào năm 1986, chúng ta đã tạo ra một bước ngoặt, vào năm đó dân số thế giới lên đến 5 tỷ người, và chúng ta đang khát tài nguyên, chúng ta đã sử dụng tất cả nguồn tài nguyên bền vững của trái đất.
Sự thật là, năm 1986 đánh dấu một năm mà loài người đạt đến điểm năng lực cung cấp của Trái đất, và chúng ta bị thiếu hụt ngân sách cho môi trường, nguồn ngân sách chỉ bền vững bằng cách chiếm nguồn vốn cơ sở. Việc chiếm nguồn vốn cơ sở diễn ra dưới hình thức khai thác quá mức cho phép trong nghề đánh cá, chăn thả quá mức trên các đồng cỏ khiến các khu vực này biến thành sa mạc, phá hủy các khu rừng, và làm ô nhiễm các đại dương và không khí, dẫn đến việc chúng ta đang phải đối mặt với rất nhiều các vấn đề về môi trường. Cuối cùng, nguồn dự trữ môi trường chỉ còn lại số lượng rất ít mà chúng ta có thể đếm được dễ dàng.
Vào năm 2001, số tiền thâm hụt của loài người đã lên đến 20%, và dân số đạt tới con số 6 tỷ người. Đến năm 2050, khi dân số được ước tính là đạt 9 tỷ người, gánh nặng về sự tồn tại của con người ước tính là chúng ta sẽ sử dụng số tài nguyên bằng số tài nguyên của gần hai hành tinh – trong trường hợp nếu chúng ta vẫn tìm thấy nguồn tài nguyên.
Nhưng chúng ta sẽ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm tài nguyên và việc xử lý rác thải, đặc biệt là khí gây hiệu ứng nhà kính, là yếu tố cản trở.
Trong thế kỷ tới, khi dân số đạt mức 9 tỷ, chúng ta sẽ để tâm đến vấn đề không gian.
Trong suốt năm 2006, khi tôi đi đến các thành phố lớn của các quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, tôi quan sát, nhìn và suy ngẫm. Tôi là người tin vào lòng nhân đạo và vào giá trị của mỗi con người. Tôi không thể chịu được sự khổ sở của loài người và sẽ làm tất cả mọi việc tôi có thể để xóa đói nghèo, bệnh tật, nỗi đau khổ – con số 9 tỷ người sẽ còn thay đổi. Con số tuyệt đối và sự sử dụng nguồn tài nguyên quá mức sẽ giết chúng ta. Tôi không biết câu trả lời nằm ở đâu, hay hướng đi tiếp là hướng nào. Tôi biết rằng chúng ta đang trong tình thế khẩn cấp phải ngăn chặn sự biến đổi khí hậu nhanh nhất có thể để chúng ta có được không gian để thở trước khi chúng ta bắt đầu nghĩ đến dân số.
Kế hoạch của chúng tôi cho Virgin Galactic đang tiến triển với tốc độ nhanh chóng.
Chúng tôi đã tiến hành khởi công xây dựng trạm không gian trong tương lai ở New Mexico. Nó giống như một câu chuyện viễn tưởng khoa học. Nhà thiết kế về thuyết vị lai Phillipe Starck có ý tưởng về logo con mắt ấn tượng – tròng mắt màu xanh nhạt với con ngươi màu đen – và logo này được đặt trên một chiếc đĩa phẳng trùm lên một hầm dưới mặt đất chứa tên lửa khổng lồ. Chiếc đĩa trượt nhẹ vào trong như cách được miêu tả trong tác phẩm Star Trek để mở miếng đệm phóng ở bên dưới.
Quay trở lại năm 2004, chúng tôi lần đầu tiên bàn về việc khai trương Virgin USA ở Mỹ như là một phương án hàng không thay thế có chi phí rẻ cho hãng vận tải nội địa lúc bấy giờ để thực hiện chuyến bay dài giữa bờ Đông và bờ Tây. Virgin đặt hàng máy bay Airbus để giới thiệu dự định của chúng tôi và trông chờ một vài ý kiến phản đối theo cách cạnh tranh lành mạnh. Điều chúng tôi không trông đợi đó Virgin bị Luật bài ngoại cũ chặn lại. Vào những ngày đầu thực hiện các chuyến bay, Mỹ lo lắng về việc “máy bay nước ngoài” đang bay trên bầu trời nước Mỹ. Để ngăn chặn việc này, vào năm 1926, chính phủ Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Thương mại Hàng không. Đạo luật Thương mại Hàng không đòi hỏi tất cả các hãng hàng không nội địa phải nằm dưới sự quản lý của công dân Mỹ. Điều này được Đạo luật Hàng không dân dụng năm 1938 thúc đẩy, Đạo luật này nói rằng người nước ngoài không được nắm giữ quá 25% cổ phiếu có quyền biểu quyết trong bất kỳ công ty hàng không nào đặt tại Mỹ. Điều này có nghĩa là 75% cổ phiếu phải nằm trong tay của công dân Mỹ và Bộ Giao thông Mỹ yêu cầu chúng tôi phải tái cơ cấu.
Chúng tôi cố gắng làm theo nhưng không biết sẽ gặp phải những vấn đề không bao giờ kết thúc. Hai năm dài lê thê trôi qua với những tranh cãi về pháp luật và cuối cùng, vào năm 2006, tôi yêu cầu Fred Reid, cựu Giám đốc của Delta bắt tay vào một công việc mới. Đó là công ty dưới sự quản lý của một công ty Mỹ là VAI partner, công ty nắm giữ 75% vốn cổ phần và hai phần ba số thành viên có quyền bỏ phiếu là thành viên của Ban Giám đốc. Chúng tôi tách riêng Virgin America ra khỏi Virgin Atlantic Challenger và tất cả các công ty khác của chúng tôi bao gồm Virgin Galactic hay bất cứ công ty nào có nhãn hiệu Virgin.
Bên cạnh việc đặt hàng thêm máy bay mới, chúng tôi dành khoảng 200 triệu đô-la để bắt đầu chiến dịch marketing ở Mỹ. Chúng tôi chuyển văn phòng hoạt động từ New York về
San Francisco và tôi nghĩ rằng cuối cùng chúng tôi cũng đang đi đúng hướng.
Tuy nhiên, tôi đồng ý trở thành người đại diện thường trực của hãng hàng không. Tôi sẵn sàng ra ngoài quảng bá nó như tôi luôn từng làm với tất cả các công ty Virgin. Có thể tôi xuất hiện quá nhiều. Tôi nhận được rất nhiều lời phản đối từ Công đoàn lao động và các hãng hàng không lớn ở Mỹ như Continential Airlines, American, United và nhiều hãng khác nữa. Chứng chỉ của Bộ Giao thông vận tải bị giữ trong vài tháng vì sự phản đối của những người ủng hộ chế độ bảo hộ nền công nghiệp trong nước, trong khi chúng tôi làm mọi thứ có thể để phù hợp với mọi rào cản và mọi bước đi. Dù Virgin America nằm dưới sự điều hành của một ban mà thành viên phần lớn là người Mỹ, những người phản đối nói rằng đó là một mánh khóe và tôi sẽ phải chịu trách nhiệm. Từ năm 2005 đến năm 2006, người ta thông báo với chúng tôi rằng: “Phản ứng của Virgin America đối với các yêu cầu là chưa đủ để chứng minh rằng hãng hàng không này là hãng hàng không của công dân Mỹ”. Những người chống lại chúng tôi thúc giục Bộ Giao thông vận tải yêu cầu chúng tôi phải đưa thêm nhiều hồ sơ bổ sung. Cho dù chúng tôi có làm gì thì dường như vẫn không đủ.
Một lần nữa, chúng tôi đề xuất tái cơ cấu hãng hàng không. Trong lần tái cơ cấu này, cổ đông có quyền biểu quyết được một người tín nhiệm nắm giữ do Bộ Giao thông vận tải phê duyệt và chỉ có hai Giám đốc của Virgin Group nằm trong Ban Giám đốc gồm tám người.
Bên cạnh việc loại bỏ quyền phủ quyết và đồng thuận của Virgin Group, Virgin America nói rằng họ sẽ loại tôi ra khỏi Ban Giám đốc và thậm chí có thể bỏ hoàn toàn nhãn hiệu Virgin. Ban Giám đốc mới nói họ sẵn sàng để loại bỏ Chủ tịch Hội đồng quản trị Fred Reid “nếu Bộ Giao thông vận tải thấy cần thiết”.
Về điểm đó, tôi lùi bước, mặc dù tôi được thông báo như một cổ đông. Tôi thấy rất hài lòng về sự thay đổi ý kiến của người ủng hộ chủ nghĩa dân túy về Virgin America. Lãnh đạo bang California là Arnold Schwarzeneger, thị trưởng San Francisco là Gavin Newsom và Hillary Clinton đều nói rằng hãng hàng không mới sẽ tạo ra hàng nghìn việc làm trong năm dịch vụ đầu tiên (theo ước tính thì hãng sẽ tạo ra 50 nghìn việc làm mới trên khắp nước Mỹ tính đến năm thứ năm). Thậm chí San Francisco Giants cũng lên tiếng ủng hộ.
Bất ngờ lớn nhất là có 50 nghìn lá thư được gửi đến ủng hộ chúng tôi tại Quốc hội và Bộ Giao thông vận tải. Có khoảng 25 nghìn người Mỹ đã ký vào kiến nghị ủng hộ chúng tôi và một trang web được lập để mọi người có thể truy cập để đọc tin tức đó là www.letVAfly.com. Người ta cũng bán những chiếc áo phông và những chiếc cốc nhựa có in slogan LET VA FLY (Hãy để VA được bay).
Tôi nghĩ mọi người nhận ra rằng Virgin America sẽ giữ giá thấp và cải thiện chất lượng các chuyến bay. Trên thực tế, một nghiên cứu của nhóm Campel-Hill cho thấy rằng Virgin America đã được phép bay vào năm 2006 và hãng đã tiết kiệm cho người tiêu dùng Mỹ hơn 786 triệu đô-la, hay khoảng 88 đô-la cho mỗi chuyến bay. Điều đó dẫn đến việc hạ giá của hầu hết các hãng hàng không, nếu không nói là của tất cả các thị trường mới. Đây là một vấn đề mà phe phản đối đưa ra. Như Fred nói: “Trong thời kỳ cũ của ngành hàng không, chúng tôi là ác mộng của mọi người. Họ muốn giết một hãng hàng không mới nhưng mạnh ngay trong trứng nước. Có thể họ cần chú ý rằng điều mà các khách hàng đang nói đến đó
chính là mức độ của dịch vụ.”
Tất cả những nỗ lực của chúng tôi đều trở nên vô ích. Vào cuối năm 2006, Virgin America vẫn không được bay. Tin đồn nổi lên rằng chúng tôi chỉ được phép bay nếu Mỹ được mở cửa bay đến Heathrow và các sân bay châu Âu khác, thậm chí hai vấn đề trên hoàn toàn không hề liên quan tới nhau.
Vào cuối tháng 9/2006, tôi ở Nam Phi khi Brad Pitt và tôi gặp Nelson Mandela để giúp đỡ ý tưởng về việc dỡ bỏ những quả mìn còn sót lại trong lòng đất với tên gọi là Sole of Africa (châu Phi đơn độc). Chương trình này có khẩu hiệu: “Đã đến lúc bạn đặt chân xuống”. Các nhà tài trợ khác bao gồm vợ của Mandela’s là Graca Machel, vợ của Jordan là Queen Noor và vợ của John Paul Mitchell là John Paul DeJoria. Chương trình Sole of Africa hợp tác với Quỹ Mineseeker (Quỹ dò mìn) để loại bỏ 100 triệu quả mìn bị chôn sâu dưới đất. Những quả mìn này cứ 20 phút lại giết chết hoặc khiến ai đó bị thương. Một phần tư triệu dặm vuông trên thế giới bị bỏ không, hầu hết diện tích này nằm ở châu Phi, đặc biệt là ở Mozambique. Graca sinh ra trong một gia đình nông dân ở đất nước tươi đẹp này nên cô rất hào hứng tham gia dự án. Chúng tôi bắt đầu ở Mozambique để dọn sạch đất và biến đất này trở lại thành đất nông nghiệp. Ngay khi đất được dọn sạch, hợp tác xã “Sole” đào tạo người dân địa phương cách gieo trồng và thu hoạch vụ mùa, việc này đồng nghĩa với việc cung cấp lương thực cho họ và giúp họ kiếm kế sinh nhai bằng cách bán sản phẩm dư thừa.
Bộ Quốc phòng Anh đã tạo ra một công nghệ radar tuyệt vời được sử dụng trên khí cầu do một công ty của tập đoàn Virgin là Lightship Group xây dựng để định vị mìn. Trước đó, chỉ 40 m2 đất được dọn sạch một ngày thì nay nhờ công nghệ khí cầu tối tân này ta có thể quét qua 100m2 đất trong một giây. Những việc mà trước đây con người mất 500 năm để làm thì nay con người chỉ mất một thập kỷ hoặc ít hơn thế. Khi Mozambique trở lại với những người nông dân của nó thì chúng tôi lại tiếp tục đi từ nước này qua nước khác.
Graca cũng là một người ủng hộ trẻ em. Cô và Mandela thảo luận với chúng tôi về vấn đề rất nhiều trẻ mồ côi ở châu Phi mắc bệnh AIDS. Một lần nữa, con số đưa ra là chưa toàn diện. Brad khá sốc khi Mandela quay sang anh và nói: “Có một triệu trẻ em ở đây có bố mẹ chết vì bệnh AIDS. Trung bình hơn một nghìn trẻ em ở Nam Phi bị mồ côi một ngày. Trẻ ở độ tuổi sáu, bảy và tám hiện nay đang là trụ cột trong gia đình.”
Số lượng những câu chuyện thương tâm là quá nhiều nhưng có một câu chuyện mà tôi thấy rất cảm động. Câu chuyện như thế này: có một bé gái nhỏ đang đi dạo trên bãi biển, trên bãi biển có những con sóng xô bờ rửa sạch hàng trăm con sao biển đang nằm chờ chết trên bờ. Khi cô bé cúi xuống, nhặt một con sao biển và ném nó trở lại biển cả. Một người đàn ông già đi ngang qua và hỏi cô bé: “Tại sao cháu lại làm vậy? Chẳng có gì khác cả vì ở đây có cả hàng trăm con nữa.” Cô bé nhìn người đàn ông và nói: “Nếu cháu có thể làm nên sự khác biệt cho một trong số đó thì cũng đáng chứ ạ.”
Đây chính là câu chuyện đã tạo nên Starfish, một tổ chức nhỏ được thành lập và điều hành AIDS Community Day Care Center (Trung tâm chăm sóc cộng đồng AIDS) ở Nam
Phi. Virgin Unite đã làm việc từ bước nền tảng đầu tiên và tìm cách chăm sóc những đứa trẻ mồ côi. Châu Phi là một nơi của những người phụ nữ mạnh mẽ, kỳ diệu, đó là những người có thể đem mọi thứ đến với nhau bằng cách của Mẹ trái đất. Nora là một trong những người như thế. Tôi nhớ lần đầu tiên gặp cô tại một ngôi làng nhỏ cách Johannesburg 45 phút. Trong một túp lều nhỏ, được quét dọn sạch sẽ, một người phụ nữ lớn tuổi là Nora đang nấu cơm cho 200 đứa trẻ mồ côi đang sống cùng cô. Bằng cách này hay cách khác, cô có thể nuôi chúng bằng cách ra ngoài và tìm kiếm thực phẩm, sau đó nấu cho chúng bằng một cái bếp nhỏ. Chúng tôi chỉ đứng đó nhìn và tất cả những gì tôi có thể thấy là một đám đông 200 đứa trẻ với cơ thể bé nhỏ và đôi mắt quá to trên khuôn mặt gầy đói. Chúng chẳng có ai thân thích và trông quá đáng sợ để bạn có thể ôm lấy.
Chỉ có một người phụ nữ. Chẳng có cách nào để có thể chăm sóc được 200 đứa trẻ nhưng cô ấy đã làm được điều đó. Thật đáng kinh ngạc. Có một cách mà chúng tôi có thể giúp đỡ đó là đầu tư vào người phụ nữ này, một người đang cần sự giúp đỡ và được sinh ra như là một người mẹ đảm đang. Đó là một vấn đề lớn và không ai thực sự suy nghĩ về kết quả của việc những đứa trẻ lớn lên mà không có tình yêu cùng sự quan tâm, điều mà chúng thực sự cần khi đang trong giai đoạn phát triển về tâm lý và tình cảm. Tôi nhìn quanh đám trẻ, chúng đang chơi và ăn một cách ngon lành bữa ăn đạm bạc của mình. Và tôi có thể thấy ngay rằng trong cái lều nhỏ này chẳng có đủ chỗ để cho chúng ngủ.
Tôi hỏi: “Nora, bọn trẻ ngủ ở đâu?”
Cô cười và nói: “Ôi, chúng như những con chim. Chúng tản ra khắp nơi vào buổi tối và tìm một chỗ nào đó an toàn để ngủ. Buổi sáng, chúng tỉnh như sáo và quay về để ăn sáng – và bằng cách nào đó tôi luôn cố gắng tìm cho chúng cái gì đó để ăn”.
Tôi cảm thấy xúc động xen lẫn tức giận. Nếu mẹ chúng đã được phát thuốc kháng vi-rút RNA thì họ có thể nuôi nấng những đứa con của mình thay vì để mấy tay phục vụ tang lễ hốt tiền. Tổ chức Starfish đã sẵn sàng giúp đỡ Nora, nhưng chúng tôi đưa cho họ một ít tiền để chi trả một số chi phí. Làm việc với những nhà tình nguyện của Virgin Unite, chúng tôi mở rộng túp lều của Nora và xây thêm một phần nữa bên cạnh để làm chỗ cho bọn trẻ ngủ. Sau đó chúng tôi cho cô một cái bếp lớn và hứa rằng sẽ cung cấp nhiên liệu nấu ăn thường xuyên. Chúng tôi không thể đem đến cho tất cả những đứa trẻ của Nora một gia đình riêng nhưng chúng tôi có thể giúp Nora và những phụ nữ như cô.
Thật đáng buồn, lục địa châu Phi là một trong số ít nơi trên thế giới mà ở đó tỷ lệ nhiễm HIV ngày một gia tăng. Vào năm 2010, ước tính sẽ có xấp xỉ ba triệu trẻ em ở Nam Phi rơi vào cảnh mồ côi. Hiện giờ chúng tôi hỗ trợ hai Trung tâm chăm sóc cộng đồng. Vào tháng Mười, chúng tôi hỗ trợ thêm năm trung tâm nữa cùng với tổ chức Loomba Trust. Cherie Blair đi cùng chúng tôi trong chuyến đi đó và bắt đầu công việc. Nếu tính cả Anh và Mỹ, chúng tôi có rất nhiều nguồn để hỗ trợ cho hoạt động của các tố chức này. Điều chúng ta đều cần phải làm là không cho tình trạng đáng buồn này tiếp diễn. Cảm xúc này của tôi lên đến đỉnh điểm trong một vài phút, ngay cả khi tôi tham dự bữa tối trịnh trọng do Loomba Trust tổ chức. Con người không thể chết dần vì những căn bệnh có thể phòng tránh và chữa
trị được – bất kể họ sống ở nơi nào trên thế giới.
Cái chết vì bệnh AIDS của một trong số những người bồi bàn của chúng tôi ở Ulusaba một vài năm trước đã khiến tôi suy nghĩ nhiều. HIV/AIDS là căn bệnh có thể chữa trị được ở phương Tây và tỷ lệ tử vong đã giảm xuống một cách đáng kể. Như tôi đã chứng kiến, điều làm được ở phương Tây khác xa so với ở châu Phi. Ai đó ở nơi chúng tôi đang sống mà bị chết như vậy thì là một cú sốc. Cho dù có kết quả xét nghiệm dương tính Donald Makhubele vẫn sáng tác thơ, nhạc và các ca khúc. Ông đã viết những lời rất đẹp trước khi chết. Khi tôi đọc những lời này tôi cảm thấy buồn vì một tài năng trẻ như ông đã ra đi.
Những dòng dưới đây được bạn của chúng tôi viết – nhà thơ, nhạc sĩ Donald Makhubele. Ông đã qua đời vì bệnh AIDS. Âm nhạc của ông và suy nghĩ của ông cùng với những ca từ đẹp đẽ sẽ sống mãi và khiến mọi người hiểu rõ hơn. Mơ ước của ông là được ở bên mọi người khi còn sống và khỏe mạnh. Thế giới dường như vẫn nghe được tiếng nói của ông vọng về từ cõi vô tận…
BIẾT SỰ THẬT VÀ SỰ THẬT SẼ ĐEM TỰ DO ĐẾN CHO BẠN MỘT CÂU CHUYỆN NGẮN VỀ CĂN BỆNH CỦA DONALD.
Ngày 14/9/2003 là ngày thứ hai tôi làm việc ở Ulusaba Private Game Reserve (Khu bảo tồn động vật săn mồi tư nhân Ulusaba). Đó là mùa hè nhưng đến nửa đêm thì tôi bắt đầu cảm thấy lạnh. Tôi cảm giác như đang là mùa đông vậy. Tôi định sang phòng của David.
David đang ở phòng bên cạnh, nên tôi định mượn anh ấy cái máy sưởi vì tôi không thể chịu đựng cái lạnh thêm chút nào nữa.
Sáng hôm sau, David đưa cho tôi ít tiền để đi khám. Bác sĩ không nói cho tôi biết thứ gì đang giết chết tôi. Ông nghi ngờ đó là bệnh sốt rét; nhưng đó không phải là bệnh sốt rét.
Tôi trở về Ulusaba cùng với mẩu giấy nhắn của bác sỹ.Tôi không thể làm việc cho đến ngày tôi khỏi hẳn bệnh.
Tôi quay trở lại với công việc nhưng từ đó cuộc sống của tôi bị xáo trộn. Mỗi khi cảm thấy mệt tôi đều phải nghỉ ở nhà. Tôi đã đến khám chỗ bác sỹ tư nhân Songonmas nhưng họ đều không phát hiện được gì.
Chỉ một ngày sau kỳ nghỉ phép hàng năm của tôi, tôi nhận ra rằng dạ dày của tôi rất đau. Sau đó tôi đến phòng khám tư của bác sỹ Hlatswayo ở Hazyview. Ông đã giúp tôi rất nhiều vì ông đã khuyến khích tôi đi khám ở bệnh viện Matilwane.
“THÚ NHẬN VÀ ĐỪNG NGẠI YÊU CẦU GIÚP ĐỠ”
Bác sỹ và tôi thỏa thuận rằng tôi sẽ đến bệnh viện khám. Khi tôi đến bệnh viện, tôi định sẽ thừa nhận vì tình trạng của tôi không được tốt. Họ đưa tôi đi chụp X-quang nhưng cuối cùng họ cũng không phát hiện ra điều gì. Họ cũng kiểm tra máu và vẫn chẳng kết luận được gì cho đến khi họ lấy một chút nước từ dạ dày của tôi để kiểm tra. Lúc đó dạ dày của tôi đầy nước. Họ gửi mẫu đó đến phòng thí nghiệm nên tôi phải ngồi chờ kết quả. Kết quả
là tôi bị viêm màng phổi TB.
Sau khi nhận kết quả, tôi bắt đầu uống thuốc TB họ đưa cho tôi (Rifampin) và thú thực là những viên thuốc này đã giúp tôi cảm thấy khá hơn rất nhiều. Tôi cố gắng lấy lại cân nặng. Tôi ăn ngon miệng hơn nhưng tình trạng của tôi bắt đầu xấu hơn sau khi tôi dừng điều trị bằng thuốc Rifampin. Mỗi ngày tôi uống năm viên và sau đó là hai viên nhưng tình trạng sức khỏe của tôi lại bắt đầu xấu đi. Tôi cảm thấy chóng mặt, tay chân bải hoải và đổ rất nhiều mồ hôi. Khi tôi trở lại bệnh viện để kiểm tra, tôi nói với các bác sĩ về tình trạng của mình nhưng họ không hề lưu tâm. Họ chỉ làm theo cách riêng của họ. Tôi tiếp tục điều trị bằng thuốc chữa TB trong gần chín tháng cho tới khi tôi quay trở lại khám một lần nữa, và lần này họ yêu cầu tôi kiểm tra HIV.
“NGƯỜI CỦA TÔI ĐANG CHẾT DẦN VÌ THIẾU HIỂU BIẾT”.
Họ tiến hành kiểm tra và sau khi có kết quả, họ nói với tôi rằng tôi dương tính với HIV nhưng họ không thể điều trị cho tôi vì họ đang chờ kết quả đếm CD4, chỉ sau khi có kết quả thì họ mới biết nên tiếp tục điều trị như thế nào. Họ nói rằng họ không thể điều trị cho tôi nếu tế bào CD4 của tôi lớn hơn 200 và họ chỉ điều trị khi tế bào đó dưới 200.
QUAN ĐIỂM CỦA TÔI
Theo như tôi biết thì Chính phủ đang hỗ trợ những người nhiễm HIV/AIDS trong việc phá hủy quốc gia. Họ nói với tôi rằng kết quả đếm CD4 của tôi là trên 200, điều đó có nghĩa là hệ thống của tôi vẫn khỏe mạnh và đó là lý do tại sao họ không thể giúp tôi. Tôi nghĩ rằng kết quả này hoàn toàn sai. Tại sao lại phải chờ đến khi kết quả CD4 của tôi giảm xuống trước khi họ giúp tôi? Tại sao họ không thể chắc chắn rằng virus sẽ không đi qua ranh giới để biến từ HIV sang AIDS?
“CHÚA PHÙ HỘ NHỮNG NGƯỜI SẴN LÒNG GIÚP ĐỠ NGƯỜI KHÁC VÌ CHÚA SẼ CHO HỌ SỰ KHÔN NGOAN”.
Vì mọi thứ tôi đã trải qua trong suốt thời kỳ bị mắc bệnh và cho đến tận bây giờ, tôi biết rằng cái gì đang giết chết tôi. Tôi cảm giác như tôi có thể đứng lên và tỏa sáng. Nhờ đó mà mọi người có thể biết sự thật và sự thật sẽ đem tự do đến cho mọi người. Tôi mất khá nhiều thời gian để quyết định liệu có nên thực hiện kiểm tra hay không. Vì tôi lo sợ rằng nếu họ thông báo tôi có kết quả dương tính mọi người sẽ cười nhạo tôi. Nhưng tôi phải nói với các bạn rằng tôi biết tình trạng của mình và tôi chấp nhận nó. Tôi tha thứ cho bản thân và cầu xin Chúa tha thứ. Tôi để tất cả mọi thứ lại phía sau khi tôi đi từ X đến nơi tiếp theo. Tôi rất dũng cảm và mạnh mẽ để sống chung với căn bệnh và tôi sẽ không bao giờ chết giống như một kẻ nhát gan mà phải giống như một vị anh hùng.
Nhân đây, tôi là một nhạc sỹ viết về HIV/AIDS nên tôi phải biết tình trạng của mình để có thể luyện tập những gì tôi dạy cho mọi người. Tôi muốn trở thành một ví dụ, đặc biệt là ở vùng nông thôn nơi tôi ở và mọi người vẫn còn sợ phơi bày bản thân mình. Virus sẽ lan rộng nếu chúng ta giấu giếm nó không cho người khác biết.
Hãy cùng chung tay góp sức, tự hào về bản thân và có chung mục đích để đánh bại kẻ thù của chúng ta. Đây không phải là một căn bệnh mà đây là một cuộc chiến tranh đang phá hoại lục địa châu Phi của chúng ta. Mong những người đang đọc thông điệp này hãy để ý đến nó và hãy có ý tưởng gì đó để giúp đỡ đất nước.
TÔI LÀ DONALD, NGƯỜI BỊ NHIỄM BỆNH
Là một người sống chung với HIV, tôi luôn nghĩ về những điều tích cực theo cách mà không có gì đau đớn xảy đến với tôi nữa và trong tim tôi không có chỗ cho sự thất vọng vì trước đây tôi đã có quá nhiều nỗi thất vọng trong cuộc đời mình. Không có sự thất vọng như thế lần thứ hai.
Tôi tự hào về bản thân mình, tôi yêu bản thân mình và tôi luôn luôn chăm sóc bản thân mình để sức khỏe tôi trở nên tốt hơn và tôi sống cho cuộc sống và tương lai của người khác. Giờ đây tôi thực sự nhận thức được rằng tôi phải chịu trách nhiệm với gia đình và bản thân mình và hy vọng tôi sẽ khỏe trở lại. Tôi thực sự không tin rằng bạn có thể sống với HIV và AIDS trong một thời gian dài nhưng tôi tin rằng tôi đã sống với nó trong một quãng thời gian mà tôi không hề biết về tình trạng của tôi. Giờ đây tôi biết điều đó, tôi hứa rằng bệnh này sẽ được cứu chữa và tôi sẽ khỏi và trở thành một người đàn ông tự do. Là một người đàn ông đã được thả ra khỏi xiềng xích, tôi đang kể với bạn rằng bạn sẽ đứng dậy lần nữa.
Chúa nói rằng Ngài sẽ ban sức mạnh cho kẻ yếu để họ có thể bay như một con đại bàng.
Nếu điều này có hiệu quả với tôi lần nữa thì tôi biết rằng nó sẽ có hiệu quả với bạn, các bạn của tôi; đừng sợ đi kiểm tra vì cuộc kiểm tra này rất hữu ích, đặc biệt khi bạn không chắc chắn về tình trạng của mình. Đây là thời điểm thích hợp để bước tiếp và dũng cảm chiến đấu lại với bệnh tật và lắng nghe. Chúng ta sẽ đứng nếu chúng ta sát cánh bên nhau, còn nếu chia rẽ thì chúng ta sẽ ngã; do đó hãy cùng nhau chung sức để trở thành người chiến thắng vào cuối mỗi ngày.
Nguyên nhân chủ yếu khiến Donald chết đó là AIDS; nhưng nguyên nhân chính là bệnh sốt rét. Sau khi Donald qua đời, tôi thề rằng sẽ không có nhân viên nào của Virgin sẽ phải chết một cách không cần thiết như vậy. Sau những lời nói xúc động của Donald, và khám phá bản thân, tôi cho là một công ty đang phạm sai lầm khi công ty đó dù ở đâu trên thế giới đã đánh mất nhân viên của mình vì bệnh AIDS, và mỗi công ty trên thế giới phải thề rằng họ sẽ khuyến khích nhân viên của mình tự nguyện đi khám và chắc chắn một điều là họ được uống thuốc antitretrovials kịp để ngăn ngừa HIV chuyển thành AIDS. Việc đầu tiên là tôi cố gắng sắp xếp mọi thứ trong nhà về đúng trật tự. Joan và tôi bắt đầu hỗ trợ tất cả những người đang làm việc cùng chúng tôi. Sau đó, chúng tôi tổ chức một cuộc kiểm tra HIV cho tất cả mọi người và chúng tôi cố gắng thu hút mọi nhiều người tham gia nhất có thể. Hầu hết mọi người đã tham gia; và chúng tôi cũng đề nghị những người trẻ nhiễm HIV đến và giải thích xem thuốc antiretroviral đã cứu sống cuộc đời họ như thế nào để mọi người hiểu chương trình đã hoạt động ra sao. Chúng tôi làm hai bộ phim đặc biệt dành cho châu Phi. Bộ phim nói về cách cơ thể con người hoạt động; điều gì xảy ra khi mức CD4 giảm xuống dưới 200; tại sao con người lại chết; hệ thống miễn dịch hoạt động như thế
nào; và cách bao cao su bảo vệ con người. Trong một cuộc kiểm tra tại một trong những công ty ở Nam Phi, gần 24% số người có kết quả dương tính với HIV. Tôi e rằng đó là con số trung bình, điều này có nghĩa là 24% nhân viên của chúng tôi có thể sẽ chết trong vòng sáu đến bảy năm nữa nếu họ không sử dụng thuốc antiretrovirals. Chúng tôi giải thích rõ rằng chúng tôi sẽ cung cấp miễn phí thuốc antiretrovirals cho tất cả những ai có CD4 thấp hơn
300. Chúng tôi cũng bắt đầu đặt ra tiêu chuẩn 0% ở các công ty trên thế giới, nhằm đảm bảo rằng không có nhân viên nào của Virgin phải chết vì bệnh AIDS, đó sẽ bao gồm 0% nhân viên có kết quả dương tính với HIV, và 0% những người mẹ mang bầu có kết quả dương tính với HIV sẽ truyền HIV cho đứa trẻ. Con số này cũng bao gồm 0% khoan dung cho sự phân biệt đối xử với những người dương tính với HIV trong công ty của chúng tôi.
Donald nói: “Đây không chỉ là một căn bệnh mà còn là một cuộc chiến nhằm phá hủy lục địa châu Phi của chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau hành động, hãy tự hào về bản thân chúng ta và đặt ra mục đích để đánh tan kẻ thù.” Để tưởng nhớ Donald, tôi đã quyết định sẽ thành lập một “Phòng chiến tranh” để giúp phối hợp và gắn kết tất cả các tổ chức ở châu Phi đang cố gắng chiến thắng căn bệnh thế kỷ này. “Phòng chiến tranh” sẽ đưa ra các vấn đề, tìm ra cách giải quyết và tối đa hóa các tiềm lực. “Phòng chiến tranh” sẽ tham gia vào công việc chứ không phải để tranh luận. Nó sẽ thức tỉnh thế giới về những căn bệnh mới như AIDS trước khi con người không thể kiểm soát được. Trong cuộc chiến với HIV, sốt rét, TB và bệnh đường rò. Tổ chức này sẽ huy động các chuyên gia, các nhà vận động và các tín đồ tham gia nhanh chóng bằng cách tìm những người liên lạc, Chính phủ và các nhà sáng lập. Mục đích cuối cùng là đảm bảo rằng không có ai như Donald nữa và qua cái chết của ông thì hàng nghìn người khác sẽ được sống.
Sau khi Donald qua đời, tôi tình cờ ghé thăm một bệnh viện địa phương với mẹ tôi, và một cách ngẫu nhiên tôi gặp một người đàn ông vui vẻ có tên là Dyke. Dyke từng là tài xế ở Ulusaba. Anh đang nằm trên giường bệnh tuyệt vọng với thân hình chỉ còn da bọc xương. Khi anh nhìn thấy mẹ tôi, tôi thấy trong mắt anh ánh lên niềm vui. Ngay lập tức, chúng tôi cho anh uống thuốc antiretroviral. Anh hồi phục rất nhanh. Anh hoàn toàn hồi phục. Nhờ được uống thuốc và điều trị đúng cách, anh đã được cứu sống khi cái chết đang cận kề.
Những người bị AIDS đều phải có cơ hội sống lại như thế này. Thật đáng buồn, Dyke đã chết vì bệnh sốt rét khi anh đang trên đường đến Mozambique. Cái chết của anh khiến tôi có thêm quyết tâm không để một loài côn trùng nhỏ tiếp tục cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người mỗi ngày ở châu Phi.
Tôi thực hiện một số cuộc nghiên cứu với Virgin Unite và một người đàn ông tuyệt vời đến từ Mỹ có tên là Tiến sỹ Brian Brink về tìm kiếm hy vọng ở một nơi không cây cối, chỉ có đồi núi đá và cái nghèo thương tâm của một thị trấn nông thôn bụi bặm ở Elandsdoorn ở tỉnh Limpopo. Chúng tôi đi qua trung tâm y tế Ndlovu. Trung tâm này do tiến sỹ Hugo Templeman điều hành. Ông là một nhà vật lý tâm huyết người Hà Lan, ông đã cống hiến 15 năm qua để chữa bệnh HIV/AIDS cũng như những căn bệnh khác đang giết người dân châu Phi như TB và sốt rét.
Một trong những điều đầu tiên mà tôi chú ý khi đi thăm quan khu dự án phát triển
ngoài bệnh viện Ndlovu bao gồm một lò bánh mỳ, một hiệu sửa chữa, một nhà máy sản xuất tã lót, trường mẫu giáo, trường máy tính, hiệu rửa xe, một phòng tập thể hình đều đang tuyển nhân công địa phương. Hugo thấy rằng tôi cảm thấy rất ấn tượng.
“Vâng, chúng tôi đều hy vọng và chúng tôi muốn mọi người biết rằng họ sẽ khỏe trở lại.
Họ cũng cần phải kiếm sống để nuôi sống gia đình và bản thân trong quá trình điều trị.”
Tiến sỹ Brink đã chiến đấu một trận chiến khó khăn trong suốt nhiều năm qua để có được thuốc antiretroviral miễn phí cung cấp cho khoảng 10 nghìn công nhân người Anglo đang cần nó. Cuối cùng, anh đã thắng bằng cách chỉ ra rằng việc mất đi những nhân viên đã được đào tạo tốn kém nhiều hơn so với việc mua thuốc điều trị. Khi giành chiến thắng, anh hỏi: “Thế còn gia đình của những người thợ mỏ bị HIV và AIDS thì sẽ như thế nào?”
Tôi nhiệt liệt tán thành quan điểm thẳng thắn của anh. Chúng tôi thảo luận với Hugo và Virgin Unite về việc xây dựng một bệnh viện để phục vụ quận Sabi-Sands ở Ulusaba. Lần đầu tiên tôi giúp đỡ việc kiểm soát sự lây lan của HIV là vào đầu những năm 1990, khi tôi bắt đầu làm công việc từ thiện phân phát miễn phí bao cao su Mates. Từ phát miễn phí bao cao su Mate cho đến mở một trung tâm y tế cùng Anglo America. Chúng tôi quyết định rằng bệnh viện mới sẽ được đặt tên là Trung tâm y tế cộng đồng Bhubezi theo ngôn ngữ Zulu nghĩa là con hổ. Trung tâm này sẽ phục vụ 100 nghìn người. Trung tâm điều trị bệnh HIV, TB và sốt rét miễn phí, nhưng các dịch vụ y tế khác sẽ được tính tiền rẻ để đảm bảo rằng trung tâm y tế sẽ có khả năng hoạt động sau một thời gian dài. 100 nghìn người ở Ulusaba sẽ được bảo vệ. Tuy nhiên, đối với những người sống xa bệnh viện thì họ phải được điều trị tại nhà.
Thật là khó để đến được những khu vực hẻo lánh để cung cấp dịch vụ y tế. Do đó, chúng tôi phát động một phong trào mang tên Những thiên thần của Thiên đường trong toàn bộ tập đoàn Virgin Group nhằm gây quỹ mua và bảo trì xe máy. Các công ty đặc biệt là Virgin Trains và Virgin Atlantic Challenger đã gây được một triệu đô-la Mỹ để mua hơn 100 chiếc xe máy. Chúng tôi đang xây dựng mô hình làm việc như sau: một người nào đó từ một làng quê vay tiền mua xe máy; ngược lại họ được đào tạo và trả tiền để cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế bằng xe máy cứ ba ngày một tuần, còn những ngày còn lại họ có thể sử dụng xe máy cho công việc kinh doanh của riêng mình. Bằng cách này, hoạt động này sẽ bền vững hơn và nhiều người trong cộng đồng sẽ có việc làm. Năm 2007, chúng tôi bắt đầu kiểm tra mô hình với một đối tác lớn là SHEF. Công ty này đã xây dựng hơn 64 trung tâm y tế và dược bền vững trên khắp Kenya, và những trung tâm này do người dân địa phương làm chủ.
Chúng tôi muốn nhân rộng những trung tâm như thế này để cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế cho khắp các vùng của châu Phi, không chỉ với một trăm mà với hàng nghìn nhân viên y tế làm việc bằng xe máy, và bằng cách chỉ cho mọi người cách kiếm sống và giúp đỡ lẫn nhau.
Mặt khác, tôi cũng đang làm việc chăm chỉ thông qua Virgin Unite để cố gắng giúp đỡ các nước đang phát triển giải quyết một số vấn đề mà họ đang gặp phải. Bên cạnh đó, tôi cũng đang làm việc chăm chỉ để tiếp tục chương trình du hành không gian. Đó là một ranh
giới khác lạ nhưng hấp dẫn. Virgin Galactic đã khuấy động thế giới và mọi người đã đăng ký chuyến bay đầu tiên của chúng tôi. Sau đó, một điều gì đó ấn tượng đã diễn ra trong chuyến du hành cá nhân của tôi lên vũ trụ.
Tháng 11, khi đang ở Necker với Burt Rutan, nhà thiết kế tàu vũ trụ và một nhóm khách hàng của chúng tôi, họ chính là những người tìm những chi tiết của dự án do chính Burt nói ra. Will gọi điện từ London để thông báo rằng anh ấy vừa nghe Giáo sư Stephen Hawking trên chương trình Today trên sóng Radio 4.
Will nói: “Stephen Hawking đã thực hiện một cuộc phỏng vấn đầy kinh ngạc về việc tại sao con người cần phải đi vào không gian – tại sao ông vẫn muốn bay và tại sao ông thích đi cùng Richard Branson nếu có thể!”
Chúng tôi tập hợp tất cả những khách hàng sáng lập và Burt thành một nhóm nhà phát biểu và chúng tôi kết nối Internet và bật podcast của Stephen Hawking từ đài BBC: “Loài người phải chuyển tới một hành tinh xa hơn hệ mặt trời để bảo vệ tương lai muôn loài.
Cuộc sống có thể bị tiêu diệt vì thảm họa nguyên tử hay một thiên thạch lao vào Trái đất. Một khi chúng ta mở rộng ra không gian và thành lập thuộc địa thì tương lai của chúng ta sẽ an toàn. Không có hành tinh nào giống Trái đất trong hệ mặt trời nên loài người sẽ phải đi đến một ngôi sao khác. Những tên lửa hóa học và hạt nhân hiện tại đều không đủ để đưa người dân lên không gian và thực hiện được điều này sẽ mất 50 nghìn năm. Tôi không kể đến việc sự thực hiện những chuyến đi với tốc độ ánh sáng để đưa mọi người đến một nơi định cư mới.
“Thay vào đó, tôi ủng hộ sự hủy diệt phản vật chất như là một động lực. Khi vật chất và phản vật chất gặp nhau, chúng sẽ biến mất trong một vụ nổ phóng xạ. Nếu vụ nổ này được phát ra từ đằng sau một con tàu vũ trụ thì nó có thể đưa con tàu về phía trước. Di chuyển với tốc độ thấp hơn tốc độ của ánh sáng một chút thì ta sẽ mất khoảng sáu năm để bay tới một ngôi sao mới. Để đạt được tốc độ gần bằng tốc độ của ánh sáng thì cần phải tốn rất nhiều năng lượng.
“Mục tiêu tiếp theo của tôi là bay vào vũ trụ; có thể Richard Branson sẽ giúp tôi.”
Các phi hành gia của chúng tôi đang trở nên phấn khích. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy tự hào được trở thành một phần của của dự án mà mọi người nhiệt tình tham gia. Tôi chưa bao giờ hết ngạc nhiên vì Giáo sư Hawking, một người mà tôi cực kỳ ngưỡng mộ. Tôi gặp ông khoảng hai năm về trước nên tôi đã nhấc điện thoại lên và gọi cho ông. Tôi giải thích rằng chúng tôi chưa tặng vé miễn phí sử dụng dịch phụ Virgin Galactic cho ai, mặc dù có rất nhiều người nổi tiếng đã đến với chúng tôi, nhưng nếu Stephen cảm thấy đủ sức khỏe để tham gia chuyến bay thì chúng tôi sẽ dành cho anh ấy một cơ hội đặc biệt để bay vào không gian.
Sử dụng giọng nói ghi âm của mình, ông giải thích rằng loài người đơn giản là phải bay vào không gian nếu chúng ta tiếp tục duy trì sự sống trên Trái Đất. “Loài người sẽ đe dọa sự sống trên Trái Đất. Hai nguyên nhân chính của mối quan tâm này là sự nóng lên toàn cầu
và biến đổi gen do vắc-xin và các cơ quan vi mô. Vì chúng ta có đủ kiến thức về những việc có thể xảy ra trên hành tinh này để biết rằng chúng ta cần phải sử dụng các nguồn tài nguyên còn lại của hệ mặt trời nếu chúng ta tiếp tục sống như là một nền văn minh. Và chúng ta cũng cần phải có động cơ để bay ra ngoài vũ trụ và khám phá; và không phải chỉ có robot mới bay vào không gian mặc dù robot là một phần của câu trả lời. Mọi người phải có thể bay ra ngoài vũ trụ.” Ông cho biết thêm: “Virgin Galactic là một bước tiến để bay vào vũ trụ trong số rất ít những công ty được chọn.”
Theo yêu cầu của tôi, Stephen Attenborough, người đứng đầu mối quan hệ giữa các phi hành gia, đến gặp Giáo sư Hawking cùng với Trưởng phòng khám để thảo luận về công tác hậu cần để sắp xếp một chuyến bay trọng lực mô phỏng cho ông càng sớm càng tốt.
Tiếp tục từ sự quan tâm của Tiến sỹ Hawking đến dự án của chúng tôi, chúng tôi nhìn vào rất nhiều khía cạnh khác nhau để xem tại sao vũ trụ lại là một vấn đề quan trọng. Có một lý do ngắn hạn về việc hiểu vấn đề biến đổi khí hậu và việc cung cấp cho chúng tôi những thông tin để giữ cho hành tinh này tiếp tục sản xuất thực phẩm để cung cấp cho dân số đang ngày càng tăng lên. Nhưng theo ông nói thì về mặt lâu dài chúng ta cũng cần phải bay vào không gian để cung cấp những nguồn năng lượng cho hành tinh và có thể là một vài giải pháp cho vấn đề biến đổi khí hậu. Ví dụ, rất nhiều ý kiến hay đang được triển khai như ô mặt trời. Ô mặt trời không lớn như mọi người nghĩ mà nó chỉ là những cấu trúc pha lê nhỏ được làm từ phim trong suốt, chúng được rải vào không gian như những quả bóng ở điểm Lagrange nằm ở giữa Mặt trời và Trái Đất. Ở đây, những chiếc ô sẽ phản lại khoảng 5% tia mặt trời trong số vô vàn tia. Mọi người cũng nghĩ rằng mạng Internet là một nguồn phi năng lượng, nhưng nó phát ra rất nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính. Các nhà khoa học đã nhìn vào nông trại Serva, nơi được cung cấp nhiên liệu bằng những ô thu năng lượng mặt trời và chiếu lại tín hiệu đài từ không gian trực tiếp đến máy tính, tiết kiệm 80% điện. Một trong những điều mà mà tôi vô cùng quan tâm đó là khả năng đưa một nhóm nghiên cứu nhiên liệu Virgin Fuels lên mặt trăng, sau đó xây dựng một đội tàu vũ trụ để chúng tôi có thể làm việc ở đó. Điều này nghe có vẻ như một câu chuyện viễn tưởng nhưng từ đầu thập kỷ tôi không tưởng tượng được việc sẽ có ngày được điều hành một đội tàu vũ trụ với những nhà vật lý tài ba nhất như hôm nay. Để giữ quan điểm của Stephen Hawking rằng tương lai của chúng ta có thể nằm trên vũ trụ, tôi tìm kiếm một loại nhiên liệu ngoài không gian đó là Helium-3. Đây là một dạng heli hiếm gặp trên bề mặt Trái Đất và có sẵn ở lõi Trái Đất, ở một nơi rất xa mà chúng ta không thể tới được. Nhưng lượng khí dồi dào này có mặt trong bụi Mặt Trăng. Khi tôi tính toán rằng chỉ cần một con tàu chở khí này về từ mặt trăng thì có thể cung cấp điện cho nước Mỹ dùng trong một năm, điều này khiến tôi thực hiện thêm nhiều cuộc nghiên cứu để tìm ra các khả năng. Helium-3 được tạo ra dưới một áp lực và hơi nóng tuyệt đối. Nó được tạo ra khi mặt trăng tách ra khỏi Trái Đất và bay vào quỹ đạo xung quanh Trái Đất, và tiếp tục được hình thành bởi gió mặt trời trong hàng triệu năm. Các nhà khoa học chỉ có thể tạo ra một lượng nhỏ xíu với chi phí khoảng hàng tỷ đô- la bằng máy gia tốc tại Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu (Cern). Lấy được chất này từ Mặt Trăng bằng cách thu thập bụi và sau đó đốt nóng để lấy khí sẽ không quá tốn kém cũng như không vượt quá khả năng của chúng ta. Helium-3 có thể cung cấp tất cả năng lượng mà Trái Đất cần trong tương lai bằng cách nấu chảy, cách này vừa sạch vừa an toàn.
Chất này cho phép đất được đánh dấu để phát triển nhiên liệu sinh học được dùng để trồng thực phẩm. Nghe có vẻ cường điệu nhưng Helium-3 có thể cứu sống nhân loại vào một ngày nào đó.
Vào tháng 2/2003, khi cuộc xâm lược Iraq của Mỹ và Anh dường như là một điều không thể tránh khỏi, tôi quyết định không thể đứng nhìn. Tôi phải làm một điều gì đó để dừng cuộc chiến này lại. Thật đáng buồn là trước khi tôi có thể thì Mỹ đã bắt đầu đánh bom Iraq. Nhưng điều này khiến tôi suy nghĩ: có thể chúng tôi nên tập hợp lại với nhau thành một nhóm những vị bô lão toàn cầu với hy vọng rằng tiếng nói, sự thông minh và sức thuyết phục của họ có thể giúp tránh những xung đột như vậy trong tương lai.
Cùng lúc đó, tại nhà của mình gần Bath, Peter Gabriel, một người bạn tốt của tôi đã có một tầm nhìn tuyệt vời rằng công nghệ đang đẩy con người tới một nơi to lớn hơn – nhưng vẫn chưa có ai dẫn đường và sử dụng công nghệ như là một lực lượng mạnh mẽ. Rất nhiều các nhà lãnh đạo hiện nay không ở đó để làm những điều đúng đắn cho nhân loại, thay vào đó, hầu hết họ đều có những chương trình liên quan đến sức mạnh chính trị, quân sự, kinh tế hay sức mạnh tôn giáo. Ý tưởng của chúng tôi cùng hướng về một chuyến đi cảm động tới Nam Phi vào tháng 11/2003 khi chúng tôi đang giúp đỡ Mandela bắt đầu chiến dịch 46664 của mình. Từ khi đó, chúng tôi tham gia vào một chuyến đi mà chúng tôi hoàn toàn mãn nguyện với sự giúp đỡ của nhiều cá nhân để xây dựng giấc mơ lập tổ chức Global Elders (Hội Bô lão toàn cầu) . Chúng tôi tin rằng đàn ông và phụ nữ, những con người chính trực và có khả năng lãnh đạo đều có thể có những ý kiến tuyệt vời. Đó là sự thông thái của các vị bô lão được truyền từ đời này qua đời khác trong bộ lạc hay của làng xã. Sự thông minh về trực giác chính là những gì mà ngôi làng công nghệ cao toàn cầu cần. Khi Mandela và vợ ông là Graca Machel đồng ý trở thành những người sáng lập và Archbishop Tutu đồng ý làm trưởng nhóm, chúng tôi biết rằng chúng tôi có nòng cốt của một điều gì đó rất đặc biệt.
Vào tháng 7/2006 ở Necker, chúng tôi tổ chức một cuộc gặp gỡ giữa những nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới trong các lĩnh vực công nghệ, từ thiện, kinh doanh, khoa học, nghệ thuật và rất nhiều lĩnh vực khác. Tất cả các nhà lãnh đạo đều tập trung lại để tranh luận về ý tưởng hội bô lão và tiếp tục đi đến bước tiếp theo.
Peter và tôi mở đầu trong ngày đầu tiên của hội nghị qua bài phát biểu giải thích về ý tưởng hội bô lão. Peter nói: “Tôi thấy rằng ý tưởng này dựa trên các bộ tộc châu Phi, những người kính trọng các vị bô lão trong ngôi làng của họ. Nhưng bây giờ chúng ta đi xa hơn ngôi làng nhỏ bé đó. Giờ đây chúng ta có Google và Wikipedia và tất cả những công cụ kết nối con người khác.”
Tôi gật đầu. “Có những vị bô lão đang làm việc một mình trong một thời gian dài.
Những người đàn ông và phụ nữ tốt bụng đã nói lên ý kiến của mình. Ý kiến đó chính là liệu những người được tôn trọng nhất trên thế giới có thể tập hợp lại thành một nhóm, họ sẽ hành động hiệu quả hơn. Thay vì có sức mạnh của một người, chúng ta sẽ có sức mạnh của 12 người.”
Đó là hai tuần với đầy những ý tưởng tuyệt vời và đầy tranh cãi, nhưng đông đảo mọi ý
kiến đều cho rằng thế giới cần một nhóm người như thế này. Đó là một trải nghiệm tuyệt vời khi được gặp những con người tuyệt vời như Archbishop Tutu và Tổng thống Carter. Cả hai người đó đều có cái nhìn sâu sắc về ý tưởng các vị bô lão. Tôi sẽ không bao giờ quên những khoảnh khắc kỳ diệu như lúc Peter chơi đàn dương cầm trong phòng khách tại Great House còn Tutu và vợ của ông là Leah đang cùng nhau khiêu vũ. Hay đó là khi Peter trong chiếc áo dài màu trắng đang dạy Tutu bơi. Dường như ông rất thích thú với việc học bơi và ông đã dành nhiều thời gian với Peter và tôi luyện tập trong bể bơi.
“Tôi có một bể bơi ở nhà và tôi không sử dụng nó. Vợ tôi và những đứa trẻ đều biết bơi, nên có thể tôi sẽ tham gia”, anh nói và cười tươi.
Chúng tôi cũng rất vinh dự khi có một số vị bô lão cùng tham gia bày tỏ quan điểm về cách làm thế nào để nhóm Global Elders có thể tạo nên sự khác biệt. Zachie Achmat đến từ nhóm Treatment Action Group (Nhóm chuyên gia cố vấn sức khỏe cộng đồng) đã truyền cho chúng tôi tất cả niềm say mê của ông về việc mọi người có kết quả dương tính với HIV đều đảm bảo chắc chắn được điều trị bằng thuốc antiretroviral. Anh thực sự đã cống hiến cả cuộc đời mình để đấu tranh cho cuộc đời của người khác, anh từ chối điều trị cho chính bản thân mình cho đến khi mọi người đều có thuốc điều trị. Hy vọng rằng nhóm Global Elders có thể đóng vai trò trong việc truyền bá tiếng nói của mọi người như Zachie và Taddy Bletcher – những người đang làm những công việc có tầm ảnh hưởng, những người mà tiếng nói của họ cần phải được cả thế giới lắng nghe để giúp họ mở rộng tầm ảnh hưởng của mình. Mọi người đều phát biểu một cách tự do và thật lòng, đưa ra những ý kiến, quan điểm thẳng thắn và hiểu biết.
Jean Oelwang bắt đầu một phần bằng việc nhận xét về Mandela. “Đây là một thời điểm đáng ngạc nhiên trong lịch sử. Mandela có sự can đảm về tinh thần thực sự. Ông sẽ nói những điều như nhau trước mặt và đằng sau lưng công chúng. Ông tập trung vào những gì tốt nhất cho nhân loại và ông chứng minh tính lãnh đạo, không chỉ thông qua hành động mà còn thông qua lòng trắc ẩn.”
Bà bắt đầu chuyển sang Archibishop Tutu. Ông khó khăn đứng dậy từ chiếc ghế thấp và nói đùa: “Điều này có thể xảy ra khi bạn ở tuổi tôi. Bạn phải có một cuộc trò chuyện với cơ thể mình và nói, này anh bạn, chúng ta phải thức dậy thôi, anh thấy thế nào?”
Tôi xoa vai ông, tất cả những điều mà Tutu nói đều rất xúc động. “Tôi rất vui khi tôi không phải là Chúa. Chúa chắc hẳn đang rơi nước mắt; quyền năng của Người là vô hạn nhưng dường như quyền năng đó rất yếu. Chúng ta phân vân tại sao Chúa lại không tiêu diệt những kẻ đã làm những điều sai trái. Nhưng có những người lớn lên và làm những điều đúng đắn – họ đã đánh đổ nạn phân biệt chủng tộc ở Nam Phi. Thỉnh thoảng, như mặt trời chiếu sáng những cơn mưa, Chúa ngắm nhìn và mỉm cười. Ngày hôm nay, Người đã mỉm cười trên hòn đảo này. Tôi chắc chắn tin rằng đây là một hành tinh mang tính đạo đức. Dù cho mọi sự biểu hiện đối nghịch mà dường như là ác quỷ đang nổi giận. Nhưng cuối cùng thì cái tốt vẫn chiến thắng. Lòng trắc ẩn, sự quan tâm là những điều quyết định cuối cùng.”
Một vấn đề quan trọng mà chúng tôi thảo luận đó là sự khác biệt mà hội các vị bô lão có thể tạo ra, không lặp lại vai trò của Liên Hợp Quốc, hoặc những công việc quan trọng của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Tôi bắt đầu cuộc trao đổi: “Chúng ta đã bàn bạc về ý tưởng các vị bô lão sẽ có phạm vi hoạt động ở những vùng mà Liên hợp quốc và đất nước chưa bao trùm.”
Rõ ràng là Jimmy Carter có kinh nghiệm riêng không chỉ làm việc cho Liên hợp quốc mà còn làm việc cho cả công ty của riêng mình, Trung tâm Carter. Ông nói rằng một trong những vấn đề gây khó khăn cho UN đó chính là quyền phủ quyết và có quá nhiều những người đang thương lượng đằng sau để thông qua Nghị quyết. “Bạn không thể phớt lờ quyền phủ quyết của UN. Các vị bô lão có thể bỏ qua điều này. Không có nơi nào mà mọi người lại có thể ủng hộ một nghị quyết đầy tranh cãi. Để xúc tiến hòa bình. Để đưa cho các chuyên gia cách mà bạn thương lượng về hòa bình. Có những tổ chức như Havard, Carter Center, nhưng bạn không thể đi đến Liên hợp quốc vì bạn biết Mỹ sẽ bỏ phiếu phủ quyết một bên, còn Nga và Trung Quốc sẽ phủ quyết bên khác. Do đó, Global Elders sẽ là một nền móng của hòa bình hay là bất cứ một hội nào đó mà mọi người sẽ tìm đến đầu tiên, chẳng hạn như: Tại sao tôi lại không đến Hội bô lão để chống lại chiến tranh? Nếu chúng ta có một Liên hợp quốc hoàn hảo thì chúng ta sẽ không cần có hội này nữa. Nhưng Liên hợp quốc không thể giải quyết vấn đề hòa bình hay làm dịu bớt những nỗi đau khổ, vi phạm quyền con người, hay sự áp bức phụ nữ. Bạn không thể khiến họ tranh luận về sự áp bức phụ nữ vì có rất nhiều quốc gia theo đạo hồi đang chống lại điều này. Và cả những nước theo đạo tin lành cũng vậy. Đây là vấn đề mà các vị bô lão có thể giải quyết mà không hề bị ép buộc và và có một sự thực khủng khiếp đó là vấn đề này đang không được thực hiện. Tôi cá rằng Kofi Annan sẽ thốt lên “Lạy Chúa tôi!” khi đề cập đến vấn đề này. Carter Center đã lập một ủy ban cấp cao về Quyền con người mà Liên hợp quốc không hề muốn. Chúng ta đang nói về một tổ chức ma có thể thay thế Liên hợp quốc và tránh những cưỡng ép cố hữu của một tổ chức 200 thành viên.
Đây là một công việc rất nặng nề. Chúng tôi đạt được sự đồng thuận trong suốt buổi họp rằng Hội Global Elders nên tìm kiếm biện pháp để củng cố quyền của phụ nữ và để thực hiện nó từ vị trí của các chính trị gia.
“Nhưng không với uy quyền”, Jimmy nói. “Đó là điều quan trọng. Chỉ có uy quyền thuộc về đạo đức”.
Nơi nào mà công việc của Tổ chức Y tế Thế giới được quan tâm, thì Hội các vị bô lão sẽ cần một chương trình lớn hơn để nhìn vào các vấn đề đang gây tranh cãi như HIV/AIDS, đảm bảo mọi người có nước sạch để uống vì hiện nay có khoảng 80% dân số ở các nước thế giới thứ ba không được tiếp cận với nguồn nước sạch, và đang phải chịu đựng bệnh tật.
Trong khi Hội Global Elders hỗ trợ việc xóa bỏ bệnh sốt rét. Ví dụ chỉ WHO có quyền được sử dụng từ “xóa bỏ”.
Jimmy nói: “Global Elders có thể cố gắng cải thiện chất lượng cuộc sống tại các nước bị tác động mạnh bởi nạn đói. Cho dù họ không muốn tạo ra một điều gì đó, họ vẫn có thể hỗ
trợ việc cơ cấu. Việc làm nhẹ bớt những nỗi đau khổ thông qua việc xóa bỏ bệnh tật là một phần công việc của Hội.”
Một ngày thường diễn ra như thế này – những cuộc thảo luận và tranh cãi gay cấn, qua mỗi lần thảo luận thì ý tưởng và giấc mơ của chúng tôi lại như tiến thêm được một bước đi mới. Tất cả chúng tôi đều hiểu chính xác Peter đến từ đâu khi anh nói: “Thế giới là một tấm gương sống. Các nhà du hành không gian nói rằng từ trên vũ trụ bạn nhìn thấy một quả bóng màu xanh. Quả bóng đó được ánh sáng bao trùm; mọi thứ đều được phản chiếu. Đứa con bốn tuổi của tôi kể cho tôi nghe một câu chuyện. Nó nói rằng khi mọi người kết nối với nhau, họ tỏa sáng, nếu không thì họ sẽ rơi vào bóng tối. Do đó, chúng ta nên cố gắng kết nối với nhau. Họ ở đây không phải là những con số hay những số liệu thống kê mà là những con người thực.”
Các ý tưởng kích thích những ý tưởng khác nảy ra. Nó như thể chúng ta có những hy vọng được chôn giấu bên trong và chỉ chờ cơ hội để bật ra. Thậm chí, chỉ trước khi Jimmy Carter rời đi, ông quay trở lại với những ý tưởng nảy ra vào phút chót. “Các vị bô lão chính là lương tâm của thế giới. Họ có thể là những người dẫn đường cho thế giới, một vật thể được công nhận để thúc đẩy lý tưởng hòa bình và sự công bằng. Được ở đây là một điều thú vị. Đây là một trải nghiệm đầy cảm hứng, thú vị, bất ngờ và phấn khởi.” Ông nở một nụ cười và vẫy tay chào mọi người rồi bước lên chiếc trực thăng chở ông và phu nhân Rose.
Quay trở lại căn nhà, tôi hỏi xem Tutu có muốn uống trà không. Anh nháy mắt trả lời: “Không, tôi không phải là người Anh.”
Tôi nói đùa: “Ồ, anh sẽ thích trà của Peter. Anh ấy có nhiều thời gian để pha trà hơn tôi.”
Một tháng sau, tôi gặp Graca và Mandela ở nhà họ để lựa chọn thành viên cho Hội Global Elders. Những đứa trẻ chạy nhốn nháo xung quanh chúng tôi. Jean và tôi ra khỏi cuộc họp, cảm thấy rằng Global Elders cuối cùng cũng trở thành hiện thực. Chúng tôi tiếp tục tới Ulusaba và có một lễ kỷ niệm tuyệt vời để ký vào những bức thư mời. Thật là xúc động khi cả bố và mẹ tôi có mặt ở đó để chia sẻ những giây phút đặc biệt với chúng tôi. Giấc mơ mà Peter và tôi đã mơ ước trong nhiều năm đang trên đà phát triển.
2006
Rất nhiều điều đã đến cùng một lúc vào mùa hè năm 2006 khiến tôi phải tập trung vào hai vấn đề có mối liên quan với nhau đó là hiện tượng nóng lên toàn cầu và giá nhiên liệu tăng cao. Tôi nhìn thấy tín hiệu báo động đầu tiên khi các con số cho thấy rằng hóa đơn tiền nhiên liệu của Virgin tăng nửa tỷ đô-la một năm.
Khi còn trẻ, có thể do bị ảnh hưởng bởi một người họ hàng của mình là Peter Scott, người sáng lập ra Quỹ Động vật hoang dã Thế giới, tôi rất quan tâm đến vấn đề môi trường. Tôi bị hấp dẫn bởi Thuyết Gaia, một giả thuyết do James Loverlock đưa ra khoảng 40 năm về trước, thuyết này chỉ ra rằng Trái đất là một thực thể sống như một tế bào đơn lẻ, và giống như một tế bào đơn lẻ, mọi thứ mà nó cần để tồn tại đều nằm trong nó. Giáo sư Lovelock tin rằng hành tinh này có thể tự hàn gắn mọi phá hủy nhưng thậm chí với Gaia, không có điểm để trở về và khi đã vượt quá điểm này thì mọi thứ không thể đảo ngược trở lại. Chúng tôi biết nguy hiểm nào đến từ việc lãng phí tài nguyên và đốt cháy nhiên liệu hóa thạch một cách bừa bãi nhưng rất nhiều lý do, giữa những phần xanh nhất của phần màu xanh thì không có cảm giác khẩn cấp thực sự. Tôi e rằng không để cho đến khi điều này ảnh hưởng đến cá nhân tôi thì tôi mới đứng dậy và để ý.
Lần đầu tiên tôi quan tâm đến nhiên liệu thay thế là vào những năm 1990 khi tôi ý thức hơn rằng dầu là nguồn tài nguyên hạn chế. Dầu ở vùng biển Bắc do Anh sở hữu đang cạn kiệt và hầu hết phần còn lại nguồn cung cấp trên thế giới đang nằm trong tay của OPEC tại vùng Trung Đông bất ổn, nơi đó có thể làm cho dầu lửa vừa bị tấn công vừa đắt đỏ. Cuộc chiến tranh giữa Iraq và Iran vào những năm 1980 đã nâng giá dầu từ trung bình 16 đô-la một thùng lên đến khoảng 70 đô-la một thùng. Khi Saddam theo chân Kuwait tới mỏ dầu năm 1990, họ khẳng định rằng dầu không được bảo vệ khỏi chiến tranh. Là người tham gia kinh doanh ngành giao thông, tôi cần phải quan tâm đến giá dầu cũng như tính sẵn có của dầu và tôi tìm nhiên liệu thay thế. Virgin sử dụng hơn 700 triệu ga-lon nhiên liệu máy bay cho bốn tuyến hàng không, và một lượng lớn dầu diesel cho công ty Virgin Trains. Vào năm 1997, khi chúng tôi đầu tư vào một đoàn tàu mới, tôi hỏi nhà sản xuất Alstom để đảm bảo rằng đoàn tàu này sử dụng nhiên liệu một cách hiệu quả. Kết quả là đoàn tàu Pendolino của chúng tôi là đoàn tàu duy nhất ở châu Âu cho 20% lượng điện quay trở lại hệ thống đường dây mỗi lần phanh tàu. Và tàu điện diesel Voyages của chúng tôi được chuyển sang dùng nhiên liệu sinh học xay từ bã nho và đậu nành.
Năm 2005, sau cơn bão Katrina, khi Mỹ khoan nền của Vịnh Mexico và các nhà máy lọc dầu khổng lồ dọc bờ Vịnh bị tàn phá hoặc phá hủy, giá dầu lọc ở Mỹ tăng cao kịch kim.
Cùng với thiếu hụt về khả năng, tôi bắt đầu tìm hiểu tiềm năng đầu tư vào nhà máy lọc dầu của riêng mình, và trên thực tế tôi đã đăng một bài báo nói rằng chúng tôi đang xây dựng một nhà máy lọc dầu với hy vọng sẽ làm giá dầu giảm xuống.
Ted Turner là sự pha trộn của một nhà tư bản, một chuyên gia môi trường, một nhà từ thiện, ông nổi tiếng vì đã sáng lập và kênh thời sự CNN, ông đang sở hữu Atlanta Brave, một nhà du thuyền Olympic và từng chiến thắng cúp America. Lần cuối cùng tôi gặp ông là ở Hội nghị thượng đỉnh Y tế Thế giới Time vài tháng trước, cùng với Bill Gates, Madeleine Albright, Paul Wolfwitz, Bono và một số nhân vật khác – và sau khi tôi thông báo ý định của mình về việc xây dựng một nhà máy lọc dầu, Ted gọi điện cho tôi và nói: “Richard, anh đã nghĩ đến nguồn nhiên liệu thay thế chưa?”
“Anh có gợi ý gì không?”
“Tại sao anh không xây dựng một nhà máy lọc nhiên liệu sạch thay vì nhiên liệu bẩn?
Hãy đến và gặp người của tôi đi. Họ sẽ nói với anh rằng vẫn còn một cách khác.”
Ted mời tôi đến Washington ăn trưa với một vài thành viên của Quỹ tài trợ Liên hợp quốc, một nhóm chuyên gia cố vấn đã bắt đầu với quỹ tài trợ 1 tỷ đô-la để kiểm tra các vấn đề môi trường và thúc đẩy nhiên liệu sinh học ở Mỹ. Xung quanh bàn ăn với Ted là Thượng Nghị Sĩ Tim Wirth, Chủ tich UNF, John Podesta, cựu trưởng nhóm nhân viên của Bill Clinton; Boyden Grey, cố vấn pháp luật của George Bush (mới được bổ nhiệm là Đại sứ của Mỹ ở châu Âu) và Reid Detchon, lãnh đạo Liên minh Năng lượng tương lai.
Vấn đề thảo luận ngay lập tức được chuyển sang nhiên liệu sinh học. Tôi đã biết một chút về nhiên liệu nói chung, nhưng chưa biết nhiều về nhiên liệu sinh học như mọi người. Trong khi họ nói chuyện, tôi ghi chép vào quyển sổ tay mà tôi luôn mang theo, và vào cuối bữa ăn, tôi nhận ra rằng họ đã đúng. Thay vì đầu tư vào kiểu lọc dầu truyền thống, Virgin nên đầu tư một số tiền lớn vào sản xuất nhiên liệu thay thế. Tôi thấy may mắn khi đưa ra một quyết định nào đó, tôi có thể tham gia ban chỉ đạo của Liên minh năng lượng tương lai của Ted; và khi quay trở lại với nhóm của mình ở công ty Virgin, tôi yêu cầu họ tìm hiểu về ethanol do nhà máy sản xuất. Kết quả là tôi trở nên thích thú với tiềm năng của nhiên liệu sinh học. Đó thực sự là một điều cần thiết đối với môi trường và là một cách để nới lỏng sự phụ thuộc của thế giới vào các giếng dầu. Cả về mặt môi trường lẫn kinh tế, thật hoàn hảo nếu các quốc gia tự sản xuất dầu và sử dụng nó như điểm xuất phát, không cần phải chuyên chở nó qua nửa vòng trái đất – do đó ta có thể tiết kiệm được chi phí và giảm sự phát thải khí CO2.
Tôi thành lập Virgin Fuels vào đầu năm 2006, và bắt đầu một chương trình nghiên cứu đầu tư và phát triển nhiên liệu sinh học. Lần đầu tư đầu tiên của chúng tôi là để hỗ trợ công ty Cilion ở California, công ty này sản xuất ethanol sinh học từ ngô. Chúng tôi bắt đầu xây dựng nhà máy nhiên liệu sinh học ở phía Tây nước Mỹ và tại bang Tennessee, với cả hai mục đích là khởi nguồn và sử dụng, rồi sau đó chuyển sang Brazil. Bước tiếp theo là mở rộng sang bờ Đông của nước Mỹ và một số nơi khác ở châu Âu.
Tôi không hoàn toàn là người thuộc chủ nghĩa vị tha. Nhiên liệu thay thế sẽ là một hoạt động kinh doanh tốt, đầu tư vào lĩnh vực này sẽ tạo sức ép lên giá dầu thô và sẽ là vòng bảo hộ cho ngành hàng không và công ty tàu của Virgin. Nếu giá dầu vẫn tăng cao thì chúng tôi có thể khiến nó giảm giá cả về việc nghiên cứu, phát triển và việc đầu tư vào chi phí xây
dựng nhà máy. Thật là hoàn hảo nếu nhiên liệu của riêng chúng tôi thay thế một vài hoặc tất cả các nhiên liệu truyền thống trong khoảng từ năm đến sáu năm nữa.
Đầu mùa hè năm 2006, công ty Virgin Fuels đã sẵn sàng đầu tư lần đầu nhưng tôi vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tính cấp bách của hiện tượng nóng lên của toàn cầu. Nhưng không gì có thể thức tỉnh vấn đề này hơn việc cựu Phó Tổng thống Mỹ đã vượt qua cả một chặng đường đến nhà bạn ở Holland Park, London để thuyết trình một bài giảng cá nhân về hiện tượng nóng lên của toàn cầu. Khi bộ phim An Inconvenient Truth (Một sự thật đau lòng) được sản xuất vài tháng sau đó, tôi nhận ra rằng ông đã thử tôi vào ngày hôm đó.
Chúng tôi ngồi xuống ở dãy bàn thấp trong phòng khách, Joan phục vụ bánh và trà. Al ngồi ở góc bàn và bật chiếc máy tính cá nhân của mình lên. Tôi ngồi trên một chiếc ghế tựa lớn, Will Whitehorn ngồi sau tôi và Steve Howard của Nhóm Khí hậu ngồi ở phía đối diện, tất cả chúng tôi đều hướng về màn hình. Đây quả là một trải nghiệm hiếm có khi được lắng nghe một nhà diễn thuyết thiên tài như Al Gore thuyết trình ngay tại nhà. Đó không chỉ là một bài thuyết trình hay nhất mà tôi từng được nghe trong cuộc đời mình mà nó còn làm xáo trộn khiến chúng tôi nhận thức được rằng chúng ta đang phải đối mặt với ngày tận thế của thế giới. Tác động lên loài người và thế giới tự nhiên có thể lớn đến mức chúng ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải làm một điều gì đó quyết liệt, trước hết là để ngăn chặn các tác động đó và sau đó là để quay lại.
Trong suốt cuộc thảo luận căng thẳng của chúng tôi, Steve Horward nói rằng chúng tôi cần phải khiến mọi người tin rằng đây là một vấn đề có thể giải quyết được. Một số người nghĩ rằng việc giải quyết vấn đề thay đổi khí hậu có thể phá hủy nền kinh tế và do đó đây là một vấn đề không thể giải quyết được; nhưng chúng ta có thể làm nhiều thứ. Chúng ta thực sự không có sự lựa chọn nào khác trong vấn đề này: chúng ta phải hành động.
Al đồng ý. Nhìn thẳng vào tôi, ông hỏi: “Richard, anh rất hiểu thế giới. Anh có thể cùng tôi đi tiên phong giải quyết sự biến đổi khí hậu. Chúng ta cần các nhà lãnh đạo về kinh doanh dẫn đường chứ không phải các chính trị gia.”
Bài giảng của Al Gore có tính chất luận chiến, nhưng nó có đủ tính khoa học để mang lại hiệu quả. Đó là lần đầu tiên tôi được nghe thuyết trình đầy đủ về tính tàn khốc của những ảnh hưởng mà sự biến đổi khí hậu mang đến. Ngay lập tức tôi thấy rằng nếu chúng ta không nhanh chóng làm gì đó để xử lý tình trạng phát thải khí carbon thì chỉ trong một thời gian ngắn nữa thôi, Trái đất sẽ không còn là nơi có thể sinh sống được và các loài động vật trên hành tinh sẽ giảm nhanh. Hầu hết các loài động vật và thực vật sẽ bị tuyệt chủng và cuộc sống sẽ trở nên khốn khó. “Tôi chỉ định khai trương đường bay mới tới Dubai”, tôi nói. Thông thường, tôi thích làm những việc như thế này – nhưng bây giờ tôi có thể nhìn thấy nghịch lý của nó. Chúng ta muốn kết nối thế giới, chúng ta muốn bay nhưng chúng ta cũng muốn giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu.
“Chúng ta có bao nhiêu thời gian?” tôi hỏi
Al trả lời: “Các nhà khoa học nói rằng chúng ta có thể có mười năm trước khi vượt qua
điểm chóp, nếu vượt qua điểm đó thì đã là quá muộn. Chúng ta phải có một bước khởi đầu với quy mô lớn và phải thực sự quyết tâm. Việc đầu tiên chúng ta cần làm đó là bắt đầu cân bằng lượng khí CO2 trong vòng năm năm tới. Sự tiến hóa là một phần của quá trình này.
Bộ não của chúng ta rất giỏi trong việc nhận thức nguy hiểm ở dạng răng nanh và móng vuốt, nhện độc và lửa, nhưng chúng ta cảm thấy rất khó để đối đầu với những hiểm nguy vô hình cho đến khi mọi thứ đã là quá muộn – giống như việc thế giới đang nóng lên. Điều đó đang diễn ra ở hai cực trái đất, nơi rất ít người nhìn thấy và quan tâm.”
Al nói rất thuyết phục và có pha một chút hài hước, bất chấp trong cuộc tranh luận của ông với Will về việc Lovelock viết thuyết Gaia lần đầu tiên khi nào. Đôi khi thật thú vị khi trong cùng một căn phòng có hai người đều cho là mình đúng!
Sau khi Al Gore ra về, Will và tôi có một cuộc trò chuyện dài về cách mà Virgin có thể dẫn đường trong vấn đền giải quyết hiện tượng biến đổi khí hậu. Rõ ràng, với hơn 50 nghìn người đang làm việc cho chúng tôi và đứng trước nguy cơ công ăn việc làm của họ bị đe dọa, tôi không muốn có một sự thay đổi mạnh mẽ nào, điều đó có nghĩa là chúng ta đang làm ăn thua lỗ, nhưng tôi đã thấy cách mà Virgin có thể hành động có trách nhiệm là tạo ra những thay đổi nhỏ – ví dụ như sử dụng bóng đèn sáng lâu hơn và không dùng giấy – cũng như những thay đổi lớn, như chuyển sang dùng nhiên liệu sinh học khi có thể. Chúng tôi đặt ra cụm từ “Chủ nghĩa Tư bản Gaia” để miêu tả điều này. Khái niệm Chủ nghĩa Tư bản Gaia nói về các cách giải quyết: chúng ta muốn lấy sự mâu thuẫn rõ ràng và chỉ ra rằng nó hoạt động và khiến nó trở thành sự thật. Chúng ta có thể thực hiện điều này một cách hiệu quả vì Virgin giống như một hệ sinh thái có quy mô lớn. Các phần của hệ này hoạt động và điều hành tách rời nhau, và thậm chí chúng có những cổ đông riêng của mình, nhưng chúng luôn có mối liên hệ với nhau.
Ba tháng sau, Bill Clinton gọi cho tôi để xem liệu tôi có hứa ủng hộ Sáng kiến toàn cầu của ông không. Đêm hôm đó, khi đang ngâm mình trong bồn tắm, tôi nảy ra một ý tưởng. Al Gore đã nói rằng ông ấy cần tôi dẫn đường. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi hứa sẽ ủng hộ 100% lợi nhuận của Virgin Group có được từ hãng hàng không của chúng tôi cùng công ty tàu hỏa và sau đó đầu tư số tiền này vào việc phát triển nhiên liệu thay thế? Điều này có thể tạo ra sự khác biệt và có thể sẽ cuốn hút các nhà lãnh đạo khác cùng tham gia.
Sau cuộc trò chuyện với Bill Clinton, hai tháng sau đó tôi bay đến New York và tham dự vào Sáng kiến toàn cầu của Clinton. Ngày 21/9, ngày thứ hai của hội nghị, tôi tham gia cùng Bill Clinton và Al Gore hứa sẽ ủng hộ 3 tỷ đô-la để phát triển nhiên liệu sạch. Khi tôi định ký vào văn bản cam kết, tôi nhìn lên Tổng thống Bill Clinton và có một khoảng lặng xúc động, ngừng bút và tôi nói: “Nhiều số không kinh khủng.”
Đó là một lời cam kết chắc chắn, không chỉ thúc đẩy Virgin Group tiến về phía trước mà còn truyền cảm hứng cho các công ty khác. Ý tưởng xác định các công ty giao thông của chúng tôi đầu tư nhưng nếu ý tưởng đó cùng chung một hướng thì tiền sẽ phát triển từ các công việc kinh doanh khác của chúng tôi. Chúng tôi sẽ làm, cho dù chuyện gì xảy ra đi nữa. Một trong những điều mà tôi nhấn mạnh rằng đây không phải là công việc từ thiện. Dự án
Gaia của chúng tôi dựa trên ý nghĩa về thương mại. Tôi không muốn phương tiện truyền thông có ấn tượng rằng đây là một kiểu từ thiện vì lý do môi trường – nhưng họ đã làm như vậy, họ vẽ tôi thành một người hảo tâm mang tầm vũ trụ.
Lời công bố công khai của tôi trong giây lát đã lan tỏa khắp thế giới. Sau đó, Steve Horward nói: “Richard, chúng ta làm việc với rất nhiều tổ chức khác nhau, nhưng bước đi thay đổi của Virgin là không song song. Thực sự rất ấn tượng khi thấy cỗ máy Virgin tự giải phóng mình.”
Một số người hỏi tôi cảm thấy thế nào về việc giá dầu đang tăng cao. Với sự thất vọng của một vị Chủ tịch của một hãng hàng không, tôi nói: “Tôi nghĩ rằng việc tăng giá dầu là điều tốt nhất đang xảy ra trên thế giới. Nó buộc các Chính phủ và các công ty lớn phải tìm ra cách mới để ít phụ thuộc vào dầu. Chúng tôi cần một vài điều gì đó tương tự xảy ra để ngừng sự phụ thuộc hoàn toàn vào nhiên liệu hóa thạch. Nếu chúng ta thấy đúng, thì điều này có thể làm cuộc chiến tranh ở vùng Trung Đông dừng lại trong tương lai.”
Tôi thích học những điều về ngành công nghiệp mà tôi không biết. Ở trường, tôi không hứng thú với hóa học. Giờ đây tôi muốn học mọi thứ để biết về ethanol, cellulosic ethanlol, ISO butanol, methane và carbon; những sản phẩm tốt nhất để tạo ra nhiên liệu từ đường, ngô, cỏ, cây liễu và các sản phẩm rác, về năng lượng gió và năng lượng mặt trời; và về hydrogen, về địa nhiệt. Sau một khóa học ba tháng cấp tốc, tôi cảm thấy mình đã được trang bị đầy đủ để bắt đầu thực hiện lời thề 3 tỷ đô-la bằng cách tăng giá sản phẩm của Virgin Fuels theo sức ép của toàn cầu. Nhưng cách tốt nhất để họ bắt tay vào việc: cố gắng biến Necker và Moskito thành hòn đảo 100% carbon trung tính đầu tiên; xây dựng nhà máy sản xuất ethanol từ ngô và đường đầu tiên; cố gắng phát triển ISO butanol sạch cho máy bay; và nhiều việc khác nữa. Tôi muốn tái chế năng lượng như việc nguồn vốn tư nhân đã làm cho điện thoại hai thập kỷ trước bằng cách biến một ý kiến nhỏ thành hiện tượng của thế giới.
Đến cuối năm 2006, tôi mời Tim Flannery đến Necker để nói chuyện với tất cả các Giám đốc quản lý của Virgin trên toàn thế giới về vấn đề môi trường. Tim là một nhà khoa học và một nhà thám hiểm lỗi lạc của Australia, ông là tác giả của cuốn sách làm rung chuyển thế giới The weather makers (Người tạo nên thời tiết). Ông cũng là người đầu tiên khiến tôi suy nghĩ về vấn đề khí hậu. Tôi nghĩ rằng những gì Tim sẽ làm đó là giúp Virgin có được một nền tảng về khoa học cho con đường mà chúng tôi đang bắt tay vào, và giúp cho chúng tôi hiểu tại sao mình lại đi trên con đường đó. Tôi vừa thực hiện một cam kết chắc chắn rằng đây sẽ trở thành chiến lược công nghiệp của Virgin trong thế kỷ XXI. Tôi chắc chắn rằng mình đang bị nhiều người chỉ trích. Mọi người có thể chỉ trích tôi rằng: “Nếu sự phát thải khí CO2 là một vấn đề thì tại sao Richard Brandson lại không ngừng các máy bay của ông ấy?” Nhưng mọi người muốn bay và nếu chúng tôi ngừng lại, chúng tôi sẽ tạo ra một khoảng trống và một ai đó không có tinh thần trách nhiệm sẽ thế chỗ. Chúng tôi muốn trở thành người thực hiện các chuyến bay, nhưng bay theo cách có trách nhiệm. Đối với vấn đề này, vào cuối năm, chúng tôi hướng tới việc tiết kiệm nhiên liệu khi máy bay cất cánh. Nếu những chiếc máy bay này được lai dắt từ cuối đường băng để chờ cất cánh, thì
chúng không cần đứng chờ quá lâu mà động cơ vẫn thải khí CO2. Chúng tôi bắt đầu thí nghiệm những viên bi lăn tại sân bay Gatwick và Heathrow. Nếu các hãng hàng không khác đều làm như vậy thì chúng tôi ước tính chúng ta sẽ tiết kiệm được ba tấn nhiên liệu cho mỗi chuyến bay và cùng với những nỗ lực khác, các hãng hàng không có thể cắt giảm khoảng 25% lượng phát thải khí carbon trên toàn thế giới.
Còn trường hợp của Virgin Atlantic Challenger Global Fyer. Chiếc máy bay này không làm bằng kim loại; thay vào đó nó được làm hợp chất carbon, chất liệu nhẹ nhưng có thể vận hành an toàn ở độ cao nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng một cách ngạc nhiên. Một năm trước, khi đến Salina và Kansa, tôi đã nhìn thấy chuyến bay đầy kinh ngạc đó cất cánh. Tôi đã đuổi theo nó tới vùng hoang vu lạnh lẽo của Canada và trở lại Kansa khi nó hạ cánh 67 giờ sau. Tôi rất thích thú khi mình được chứng kiến nó đã lượn vòng giống như một con đại bàng rực rỡ trên độ cao khoảng 15 nghìn mét, và sử dụng ít nhiên liệu hơn một phương tiện bốn bánh trong mỗi giờ bay. Thành tựu đáng ngạc nhiên này đã dẫn đường cho chúng tôi mở công ty Virgin Galactic và đầu tư vào vũ trụ, vùng biên giới cuối cùng. Không có vũ trụ, và không có công việc của những tổ chức như NASA thì chúng tôi thậm chí còn không biết hoặc không hiểu về tình hình thực tế của sự biến đổi khí hậu hay tình hình dân số thế giới. Các thông tin từ vệ tinh cho phép người nông dân dự đoán thời tiết trong khoảng thời gian lâu hơn và giúp họ lên kế hoạch trồng trọt và thu hoạch một cách tốt nhất. Vũ trụ cũng cung cấp cho chúng ta câu trả lời về những chuyến đi cần thiết trong tương lai mà không có ảnh hưởng của khí quyển. Tuy nhiên, đáng buồn là công nghệ thì vẫn bẩn, vẫn ô nhiễm còn hàm lượng carbon vẫn ngày một tăng cao. Kỷ nguyên của chiến tranh lạnh và không có đầu tư tư nhân vào hệ thống phóng tàu lên vũ trụ đã sử dụng nhiên liệu có thể tái chế. Chúng tôi cũng có mục đích thay đổi điều đó.
Sử dụng chiếc máy bay Virgin Atlantic Challenger Global Flyer như là một mô hình, đoàn máy bay của Virgin Galactic là đoàn máy bay thân thiện với môi trường. Bên cạnh việc xây dựng tàu vũ trụ từ vật liệu carbon tổng hợp, mẫu hệ thống phóng tàu đầu tiên sử dụng hỗn hợp nhiên liệu chuyển hóa từ khí tê và cao su, và với hệ thống phóng tàu độc đáo đó, chúng tôi có thể thực hiện hàng nghìn chuyến bay cho từng người trong NASA.
Một trong những sự kiện lớn của công ty trong những năm vừa qua là Virgin Galactic vẫn hoạt động tốt. Dĩ nhiên chúng tôi có ý tưởng về hệ thống phóng tàu thân thiện với môi trường do Burt Rutan phát triển – thật thích thú khi nhận ra rằng đây có thể là hệ thống phóng tàu lên không gian mới để đưa hành khách và các nhà khoa học lên vũ trụ. Điều thứ hai, tôi có thể nhìn rõ tương lai và trả lời rất nhiều câu hỏi như: tại sao không gian vũ trụ lại là vấn đề quan trọng? Và tại sao anh lại tham gia vào vấn đề này? Dường như rất nhiều người nghĩ rằng Virgin Galactic là một kiểu thử thách, một thú tiêu khiển cá nhân cho dù nó vô cùng đắt đỏ. Quả thực, không gian vũ trụ là tương lai của loài người. Mọi người từ Tiến sỹ Tim Hansen ở Viện Goddard của NASA, một trong những cha đẻ của khoa học không gian, cho đến Giáo sư Stephen Hawking, cha đẻ của vật lý hiện đại, đều đồng ý rằng lối tiếp cận tốt hơn đến không gian và việc sử dụng không gian đang trở nên quan trọng đối với việc định hướng lại các ngành công nghiệp thế giới trong việc đương đầu với hiện tượng biến đổi khí hậu.
Lúc đầu, chúng tôi thậm chí còn không biết về biến đổi khí hậu nếu không có công việc từ trên vũ trụ chứng minh rằng khí hậu đang biến đổi. Khoa học dưới mặt đất không thể chứng minh sự biến đổi khí hậu như cách mà các vệ tinh đã làm. Thứ hai, rất ít người nhận ra rằng chúng ta không thể cung cấp thực phẩm cho tất cả mọi người trên thế giới mà không quan sát về khí hậu và dự báo thời tiết, công việc mà chúng ta chỉ có thể làm từ không gian. Vệ tinh thời tiết và nông nghiệp cùng hệ thống định vị toàn cầu trong không gian giúp người nông dân hiểu về các kiểu thời tiết và năng suất tăng 15% so với dự báo bằng kinh nghiệm. Các thùng chứa hoa quả sẽ không bị hỏng tại các bến tàu nữa; người nông dân sẽ chọn để xay ngô một ngày sớm hơn, trồng sớm hơn một ngày, trồng trong ngày kế tiếp. Điều đầu tiên mà rất nhiều người nông dân tại vành đai trồng ngô ở Mỹ, ở vùng đồng bằng Ấn Độ hay ở vùng miền trung Trung Quốc làm vào mỗi buổi sáng đó là lên mạng Internet và kiểm tra xem vệ tinh nông nghiệp dãy dài thông báo xem họ nên làm gì trong ngày hôm đó hoặc tuần đó. Lối tiếp cận với không gian cho phép chúng ta nâng cao khoảng 10% sản lượng lương thực trong 15 năm qua – đáp ứng được với sự tăng dân số.
Một trong những điều quan trọng nhất mà chúng ta đang phải đối mặt như một phần của sự văn minh hóa đó là gia tăng dân số. Đó là chìa khóa cho sự tồn tại của chúng ta trên hành tinh này. Chúng ta không thể tìm thấy giải pháp mang tính khoa học và công nghệ trừ khi chúng ta có sức mạnh ý chí để tìm ra giải pháp đó. Vấn đề là cuộc vận động hành lang về môi trường chưa thực sự hiểu được là trên hành tinh này có 6,5 tỷ người.
Tim Flannery nhìn thấy Trái đất như một con tàu vũ trụ đang quay trong không gian. Đây là điều mà anh ấy nói về chủ đề dân số trên con tàu Trái đất trong cuốn The Weather Makers:
Năm 1961, vẫn có chỗ cho diễn tập quân sự. Ở thời đó, thế giới chỉ có 3 tỷ người, và con người chỉ sử dụng một nửa tổng số tài nguyên mà hệ sinh thái toàn cầu có thể cung cấp một cách bền vững. Chỉ trong 25 năm sau, vào năm 1986, chúng ta đã tạo ra một bước ngoặt, vào năm đó dân số thế giới lên đến 5 tỷ người, và chúng ta đang khát tài nguyên, chúng ta đã sử dụng tất cả nguồn tài nguyên bền vững của trái đất.
Sự thật là, năm 1986 đánh dấu một năm mà loài người đạt đến điểm năng lực cung cấp của Trái đất, và chúng ta bị thiếu hụt ngân sách cho môi trường, nguồn ngân sách chỉ bền vững bằng cách chiếm nguồn vốn cơ sở. Việc chiếm nguồn vốn cơ sở diễn ra dưới hình thức khai thác quá mức cho phép trong nghề đánh cá, chăn thả quá mức trên các đồng cỏ khiến các khu vực này biến thành sa mạc, phá hủy các khu rừng, và làm ô nhiễm các đại dương và không khí, dẫn đến việc chúng ta đang phải đối mặt với rất nhiều các vấn đề về môi trường. Cuối cùng, nguồn dự trữ môi trường chỉ còn lại số lượng rất ít mà chúng ta có thể đếm được dễ dàng.
Vào năm 2001, số tiền thâm hụt của loài người đã lên đến 20%, và dân số đạt tới con số 6 tỷ người. Đến năm 2050, khi dân số được ước tính là đạt 9 tỷ người, gánh nặng về sự tồn tại của con người ước tính là chúng ta sẽ sử dụng số tài nguyên bằng số tài nguyên của gần hai hành tinh – trong trường hợp nếu chúng ta vẫn tìm thấy nguồn tài nguyên.
Nhưng chúng ta sẽ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm tài nguyên và việc xử lý rác thải, đặc biệt là khí gây hiệu ứng nhà kính, là yếu tố cản trở.
Trong thế kỷ tới, khi dân số đạt mức 9 tỷ, chúng ta sẽ để tâm đến vấn đề không gian.
Trong suốt năm 2006, khi tôi đi đến các thành phố lớn của các quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, tôi quan sát, nhìn và suy ngẫm. Tôi là người tin vào lòng nhân đạo và vào giá trị của mỗi con người. Tôi không thể chịu được sự khổ sở của loài người và sẽ làm tất cả mọi việc tôi có thể để xóa đói nghèo, bệnh tật, nỗi đau khổ – con số 9 tỷ người sẽ còn thay đổi. Con số tuyệt đối và sự sử dụng nguồn tài nguyên quá mức sẽ giết chúng ta. Tôi không biết câu trả lời nằm ở đâu, hay hướng đi tiếp là hướng nào. Tôi biết rằng chúng ta đang trong tình thế khẩn cấp phải ngăn chặn sự biến đổi khí hậu nhanh nhất có thể để chúng ta có được không gian để thở trước khi chúng ta bắt đầu nghĩ đến dân số.
Kế hoạch của chúng tôi cho Virgin Galactic đang tiến triển với tốc độ nhanh chóng.
Chúng tôi đã tiến hành khởi công xây dựng trạm không gian trong tương lai ở New Mexico. Nó giống như một câu chuyện viễn tưởng khoa học. Nhà thiết kế về thuyết vị lai Phillipe Starck có ý tưởng về logo con mắt ấn tượng – tròng mắt màu xanh nhạt với con ngươi màu đen – và logo này được đặt trên một chiếc đĩa phẳng trùm lên một hầm dưới mặt đất chứa tên lửa khổng lồ. Chiếc đĩa trượt nhẹ vào trong như cách được miêu tả trong tác phẩm Star Trek để mở miếng đệm phóng ở bên dưới.
Quay trở lại năm 2004, chúng tôi lần đầu tiên bàn về việc khai trương Virgin USA ở Mỹ như là một phương án hàng không thay thế có chi phí rẻ cho hãng vận tải nội địa lúc bấy giờ để thực hiện chuyến bay dài giữa bờ Đông và bờ Tây. Virgin đặt hàng máy bay Airbus để giới thiệu dự định của chúng tôi và trông chờ một vài ý kiến phản đối theo cách cạnh tranh lành mạnh. Điều chúng tôi không trông đợi đó Virgin bị Luật bài ngoại cũ chặn lại. Vào những ngày đầu thực hiện các chuyến bay, Mỹ lo lắng về việc “máy bay nước ngoài” đang bay trên bầu trời nước Mỹ. Để ngăn chặn việc này, vào năm 1926, chính phủ Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Thương mại Hàng không. Đạo luật Thương mại Hàng không đòi hỏi tất cả các hãng hàng không nội địa phải nằm dưới sự quản lý của công dân Mỹ. Điều này được Đạo luật Hàng không dân dụng năm 1938 thúc đẩy, Đạo luật này nói rằng người nước ngoài không được nắm giữ quá 25% cổ phiếu có quyền biểu quyết trong bất kỳ công ty hàng không nào đặt tại Mỹ. Điều này có nghĩa là 75% cổ phiếu phải nằm trong tay của công dân Mỹ và Bộ Giao thông Mỹ yêu cầu chúng tôi phải tái cơ cấu.
Chúng tôi cố gắng làm theo nhưng không biết sẽ gặp phải những vấn đề không bao giờ kết thúc. Hai năm dài lê thê trôi qua với những tranh cãi về pháp luật và cuối cùng, vào năm 2006, tôi yêu cầu Fred Reid, cựu Giám đốc của Delta bắt tay vào một công việc mới. Đó là công ty dưới sự quản lý của một công ty Mỹ là VAI partner, công ty nắm giữ 75% vốn cổ phần và hai phần ba số thành viên có quyền bỏ phiếu là thành viên của Ban Giám đốc. Chúng tôi tách riêng Virgin America ra khỏi Virgin Atlantic Challenger và tất cả các công ty khác của chúng tôi bao gồm Virgin Galactic hay bất cứ công ty nào có nhãn hiệu Virgin.
Bên cạnh việc đặt hàng thêm máy bay mới, chúng tôi dành khoảng 200 triệu đô-la để bắt đầu chiến dịch marketing ở Mỹ. Chúng tôi chuyển văn phòng hoạt động từ New York về
San Francisco và tôi nghĩ rằng cuối cùng chúng tôi cũng đang đi đúng hướng.
Tuy nhiên, tôi đồng ý trở thành người đại diện thường trực của hãng hàng không. Tôi sẵn sàng ra ngoài quảng bá nó như tôi luôn từng làm với tất cả các công ty Virgin. Có thể tôi xuất hiện quá nhiều. Tôi nhận được rất nhiều lời phản đối từ Công đoàn lao động và các hãng hàng không lớn ở Mỹ như Continential Airlines, American, United và nhiều hãng khác nữa. Chứng chỉ của Bộ Giao thông vận tải bị giữ trong vài tháng vì sự phản đối của những người ủng hộ chế độ bảo hộ nền công nghiệp trong nước, trong khi chúng tôi làm mọi thứ có thể để phù hợp với mọi rào cản và mọi bước đi. Dù Virgin America nằm dưới sự điều hành của một ban mà thành viên phần lớn là người Mỹ, những người phản đối nói rằng đó là một mánh khóe và tôi sẽ phải chịu trách nhiệm. Từ năm 2005 đến năm 2006, người ta thông báo với chúng tôi rằng: “Phản ứng của Virgin America đối với các yêu cầu là chưa đủ để chứng minh rằng hãng hàng không này là hãng hàng không của công dân Mỹ”. Những người chống lại chúng tôi thúc giục Bộ Giao thông vận tải yêu cầu chúng tôi phải đưa thêm nhiều hồ sơ bổ sung. Cho dù chúng tôi có làm gì thì dường như vẫn không đủ.
Một lần nữa, chúng tôi đề xuất tái cơ cấu hãng hàng không. Trong lần tái cơ cấu này, cổ đông có quyền biểu quyết được một người tín nhiệm nắm giữ do Bộ Giao thông vận tải phê duyệt và chỉ có hai Giám đốc của Virgin Group nằm trong Ban Giám đốc gồm tám người.
Bên cạnh việc loại bỏ quyền phủ quyết và đồng thuận của Virgin Group, Virgin America nói rằng họ sẽ loại tôi ra khỏi Ban Giám đốc và thậm chí có thể bỏ hoàn toàn nhãn hiệu Virgin. Ban Giám đốc mới nói họ sẵn sàng để loại bỏ Chủ tịch Hội đồng quản trị Fred Reid “nếu Bộ Giao thông vận tải thấy cần thiết”.
Về điểm đó, tôi lùi bước, mặc dù tôi được thông báo như một cổ đông. Tôi thấy rất hài lòng về sự thay đổi ý kiến của người ủng hộ chủ nghĩa dân túy về Virgin America. Lãnh đạo bang California là Arnold Schwarzeneger, thị trưởng San Francisco là Gavin Newsom và Hillary Clinton đều nói rằng hãng hàng không mới sẽ tạo ra hàng nghìn việc làm trong năm dịch vụ đầu tiên (theo ước tính thì hãng sẽ tạo ra 50 nghìn việc làm mới trên khắp nước Mỹ tính đến năm thứ năm). Thậm chí San Francisco Giants cũng lên tiếng ủng hộ.
Bất ngờ lớn nhất là có 50 nghìn lá thư được gửi đến ủng hộ chúng tôi tại Quốc hội và Bộ Giao thông vận tải. Có khoảng 25 nghìn người Mỹ đã ký vào kiến nghị ủng hộ chúng tôi và một trang web được lập để mọi người có thể truy cập để đọc tin tức đó là www.letVAfly.com. Người ta cũng bán những chiếc áo phông và những chiếc cốc nhựa có in slogan LET VA FLY (Hãy để VA được bay).
Tôi nghĩ mọi người nhận ra rằng Virgin America sẽ giữ giá thấp và cải thiện chất lượng các chuyến bay. Trên thực tế, một nghiên cứu của nhóm Campel-Hill cho thấy rằng Virgin America đã được phép bay vào năm 2006 và hãng đã tiết kiệm cho người tiêu dùng Mỹ hơn 786 triệu đô-la, hay khoảng 88 đô-la cho mỗi chuyến bay. Điều đó dẫn đến việc hạ giá của hầu hết các hãng hàng không, nếu không nói là của tất cả các thị trường mới. Đây là một vấn đề mà phe phản đối đưa ra. Như Fred nói: “Trong thời kỳ cũ của ngành hàng không, chúng tôi là ác mộng của mọi người. Họ muốn giết một hãng hàng không mới nhưng mạnh ngay trong trứng nước. Có thể họ cần chú ý rằng điều mà các khách hàng đang nói đến đó
chính là mức độ của dịch vụ.”
Tất cả những nỗ lực của chúng tôi đều trở nên vô ích. Vào cuối năm 2006, Virgin America vẫn không được bay. Tin đồn nổi lên rằng chúng tôi chỉ được phép bay nếu Mỹ được mở cửa bay đến Heathrow và các sân bay châu Âu khác, thậm chí hai vấn đề trên hoàn toàn không hề liên quan tới nhau.
Vào cuối tháng 9/2006, tôi ở Nam Phi khi Brad Pitt và tôi gặp Nelson Mandela để giúp đỡ ý tưởng về việc dỡ bỏ những quả mìn còn sót lại trong lòng đất với tên gọi là Sole of Africa (châu Phi đơn độc). Chương trình này có khẩu hiệu: “Đã đến lúc bạn đặt chân xuống”. Các nhà tài trợ khác bao gồm vợ của Mandela’s là Graca Machel, vợ của Jordan là Queen Noor và vợ của John Paul Mitchell là John Paul DeJoria. Chương trình Sole of Africa hợp tác với Quỹ Mineseeker (Quỹ dò mìn) để loại bỏ 100 triệu quả mìn bị chôn sâu dưới đất. Những quả mìn này cứ 20 phút lại giết chết hoặc khiến ai đó bị thương. Một phần tư triệu dặm vuông trên thế giới bị bỏ không, hầu hết diện tích này nằm ở châu Phi, đặc biệt là ở Mozambique. Graca sinh ra trong một gia đình nông dân ở đất nước tươi đẹp này nên cô rất hào hứng tham gia dự án. Chúng tôi bắt đầu ở Mozambique để dọn sạch đất và biến đất này trở lại thành đất nông nghiệp. Ngay khi đất được dọn sạch, hợp tác xã “Sole” đào tạo người dân địa phương cách gieo trồng và thu hoạch vụ mùa, việc này đồng nghĩa với việc cung cấp lương thực cho họ và giúp họ kiếm kế sinh nhai bằng cách bán sản phẩm dư thừa.
Bộ Quốc phòng Anh đã tạo ra một công nghệ radar tuyệt vời được sử dụng trên khí cầu do một công ty của tập đoàn Virgin là Lightship Group xây dựng để định vị mìn. Trước đó, chỉ 40 m2 đất được dọn sạch một ngày thì nay nhờ công nghệ khí cầu tối tân này ta có thể quét qua 100m2 đất trong một giây. Những việc mà trước đây con người mất 500 năm để làm thì nay con người chỉ mất một thập kỷ hoặc ít hơn thế. Khi Mozambique trở lại với những người nông dân của nó thì chúng tôi lại tiếp tục đi từ nước này qua nước khác.
Graca cũng là một người ủng hộ trẻ em. Cô và Mandela thảo luận với chúng tôi về vấn đề rất nhiều trẻ mồ côi ở châu Phi mắc bệnh AIDS. Một lần nữa, con số đưa ra là chưa toàn diện. Brad khá sốc khi Mandela quay sang anh và nói: “Có một triệu trẻ em ở đây có bố mẹ chết vì bệnh AIDS. Trung bình hơn một nghìn trẻ em ở Nam Phi bị mồ côi một ngày. Trẻ ở độ tuổi sáu, bảy và tám hiện nay đang là trụ cột trong gia đình.”
Số lượng những câu chuyện thương tâm là quá nhiều nhưng có một câu chuyện mà tôi thấy rất cảm động. Câu chuyện như thế này: có một bé gái nhỏ đang đi dạo trên bãi biển, trên bãi biển có những con sóng xô bờ rửa sạch hàng trăm con sao biển đang nằm chờ chết trên bờ. Khi cô bé cúi xuống, nhặt một con sao biển và ném nó trở lại biển cả. Một người đàn ông già đi ngang qua và hỏi cô bé: “Tại sao cháu lại làm vậy? Chẳng có gì khác cả vì ở đây có cả hàng trăm con nữa.” Cô bé nhìn người đàn ông và nói: “Nếu cháu có thể làm nên sự khác biệt cho một trong số đó thì cũng đáng chứ ạ.”
Đây chính là câu chuyện đã tạo nên Starfish, một tổ chức nhỏ được thành lập và điều hành AIDS Community Day Care Center (Trung tâm chăm sóc cộng đồng AIDS) ở Nam
Phi. Virgin Unite đã làm việc từ bước nền tảng đầu tiên và tìm cách chăm sóc những đứa trẻ mồ côi. Châu Phi là một nơi của những người phụ nữ mạnh mẽ, kỳ diệu, đó là những người có thể đem mọi thứ đến với nhau bằng cách của Mẹ trái đất. Nora là một trong những người như thế. Tôi nhớ lần đầu tiên gặp cô tại một ngôi làng nhỏ cách Johannesburg 45 phút. Trong một túp lều nhỏ, được quét dọn sạch sẽ, một người phụ nữ lớn tuổi là Nora đang nấu cơm cho 200 đứa trẻ mồ côi đang sống cùng cô. Bằng cách này hay cách khác, cô có thể nuôi chúng bằng cách ra ngoài và tìm kiếm thực phẩm, sau đó nấu cho chúng bằng một cái bếp nhỏ. Chúng tôi chỉ đứng đó nhìn và tất cả những gì tôi có thể thấy là một đám đông 200 đứa trẻ với cơ thể bé nhỏ và đôi mắt quá to trên khuôn mặt gầy đói. Chúng chẳng có ai thân thích và trông quá đáng sợ để bạn có thể ôm lấy.
Chỉ có một người phụ nữ. Chẳng có cách nào để có thể chăm sóc được 200 đứa trẻ nhưng cô ấy đã làm được điều đó. Thật đáng kinh ngạc. Có một cách mà chúng tôi có thể giúp đỡ đó là đầu tư vào người phụ nữ này, một người đang cần sự giúp đỡ và được sinh ra như là một người mẹ đảm đang. Đó là một vấn đề lớn và không ai thực sự suy nghĩ về kết quả của việc những đứa trẻ lớn lên mà không có tình yêu cùng sự quan tâm, điều mà chúng thực sự cần khi đang trong giai đoạn phát triển về tâm lý và tình cảm. Tôi nhìn quanh đám trẻ, chúng đang chơi và ăn một cách ngon lành bữa ăn đạm bạc của mình. Và tôi có thể thấy ngay rằng trong cái lều nhỏ này chẳng có đủ chỗ để cho chúng ngủ.
Tôi hỏi: “Nora, bọn trẻ ngủ ở đâu?”
Cô cười và nói: “Ôi, chúng như những con chim. Chúng tản ra khắp nơi vào buổi tối và tìm một chỗ nào đó an toàn để ngủ. Buổi sáng, chúng tỉnh như sáo và quay về để ăn sáng – và bằng cách nào đó tôi luôn cố gắng tìm cho chúng cái gì đó để ăn”.
Tôi cảm thấy xúc động xen lẫn tức giận. Nếu mẹ chúng đã được phát thuốc kháng vi-rút RNA thì họ có thể nuôi nấng những đứa con của mình thay vì để mấy tay phục vụ tang lễ hốt tiền. Tổ chức Starfish đã sẵn sàng giúp đỡ Nora, nhưng chúng tôi đưa cho họ một ít tiền để chi trả một số chi phí. Làm việc với những nhà tình nguyện của Virgin Unite, chúng tôi mở rộng túp lều của Nora và xây thêm một phần nữa bên cạnh để làm chỗ cho bọn trẻ ngủ. Sau đó chúng tôi cho cô một cái bếp lớn và hứa rằng sẽ cung cấp nhiên liệu nấu ăn thường xuyên. Chúng tôi không thể đem đến cho tất cả những đứa trẻ của Nora một gia đình riêng nhưng chúng tôi có thể giúp Nora và những phụ nữ như cô.
Thật đáng buồn, lục địa châu Phi là một trong số ít nơi trên thế giới mà ở đó tỷ lệ nhiễm HIV ngày một gia tăng. Vào năm 2010, ước tính sẽ có xấp xỉ ba triệu trẻ em ở Nam Phi rơi vào cảnh mồ côi. Hiện giờ chúng tôi hỗ trợ hai Trung tâm chăm sóc cộng đồng. Vào tháng Mười, chúng tôi hỗ trợ thêm năm trung tâm nữa cùng với tổ chức Loomba Trust. Cherie Blair đi cùng chúng tôi trong chuyến đi đó và bắt đầu công việc. Nếu tính cả Anh và Mỹ, chúng tôi có rất nhiều nguồn để hỗ trợ cho hoạt động của các tố chức này. Điều chúng ta đều cần phải làm là không cho tình trạng đáng buồn này tiếp diễn. Cảm xúc này của tôi lên đến đỉnh điểm trong một vài phút, ngay cả khi tôi tham dự bữa tối trịnh trọng do Loomba Trust tổ chức. Con người không thể chết dần vì những căn bệnh có thể phòng tránh và chữa
trị được – bất kể họ sống ở nơi nào trên thế giới.
Cái chết vì bệnh AIDS của một trong số những người bồi bàn của chúng tôi ở Ulusaba một vài năm trước đã khiến tôi suy nghĩ nhiều. HIV/AIDS là căn bệnh có thể chữa trị được ở phương Tây và tỷ lệ tử vong đã giảm xuống một cách đáng kể. Như tôi đã chứng kiến, điều làm được ở phương Tây khác xa so với ở châu Phi. Ai đó ở nơi chúng tôi đang sống mà bị chết như vậy thì là một cú sốc. Cho dù có kết quả xét nghiệm dương tính Donald Makhubele vẫn sáng tác thơ, nhạc và các ca khúc. Ông đã viết những lời rất đẹp trước khi chết. Khi tôi đọc những lời này tôi cảm thấy buồn vì một tài năng trẻ như ông đã ra đi.
Những dòng dưới đây được bạn của chúng tôi viết – nhà thơ, nhạc sĩ Donald Makhubele. Ông đã qua đời vì bệnh AIDS. Âm nhạc của ông và suy nghĩ của ông cùng với những ca từ đẹp đẽ sẽ sống mãi và khiến mọi người hiểu rõ hơn. Mơ ước của ông là được ở bên mọi người khi còn sống và khỏe mạnh. Thế giới dường như vẫn nghe được tiếng nói của ông vọng về từ cõi vô tận…
BIẾT SỰ THẬT VÀ SỰ THẬT SẼ ĐEM TỰ DO ĐẾN CHO BẠN MỘT CÂU CHUYỆN NGẮN VỀ CĂN BỆNH CỦA DONALD.
Ngày 14/9/2003 là ngày thứ hai tôi làm việc ở Ulusaba Private Game Reserve (Khu bảo tồn động vật săn mồi tư nhân Ulusaba). Đó là mùa hè nhưng đến nửa đêm thì tôi bắt đầu cảm thấy lạnh. Tôi cảm giác như đang là mùa đông vậy. Tôi định sang phòng của David.
David đang ở phòng bên cạnh, nên tôi định mượn anh ấy cái máy sưởi vì tôi không thể chịu đựng cái lạnh thêm chút nào nữa.
Sáng hôm sau, David đưa cho tôi ít tiền để đi khám. Bác sĩ không nói cho tôi biết thứ gì đang giết chết tôi. Ông nghi ngờ đó là bệnh sốt rét; nhưng đó không phải là bệnh sốt rét.
Tôi trở về Ulusaba cùng với mẩu giấy nhắn của bác sỹ.Tôi không thể làm việc cho đến ngày tôi khỏi hẳn bệnh.
Tôi quay trở lại với công việc nhưng từ đó cuộc sống của tôi bị xáo trộn. Mỗi khi cảm thấy mệt tôi đều phải nghỉ ở nhà. Tôi đã đến khám chỗ bác sỹ tư nhân Songonmas nhưng họ đều không phát hiện được gì.
Chỉ một ngày sau kỳ nghỉ phép hàng năm của tôi, tôi nhận ra rằng dạ dày của tôi rất đau. Sau đó tôi đến phòng khám tư của bác sỹ Hlatswayo ở Hazyview. Ông đã giúp tôi rất nhiều vì ông đã khuyến khích tôi đi khám ở bệnh viện Matilwane.
“THÚ NHẬN VÀ ĐỪNG NGẠI YÊU CẦU GIÚP ĐỠ”
Bác sỹ và tôi thỏa thuận rằng tôi sẽ đến bệnh viện khám. Khi tôi đến bệnh viện, tôi định sẽ thừa nhận vì tình trạng của tôi không được tốt. Họ đưa tôi đi chụp X-quang nhưng cuối cùng họ cũng không phát hiện ra điều gì. Họ cũng kiểm tra máu và vẫn chẳng kết luận được gì cho đến khi họ lấy một chút nước từ dạ dày của tôi để kiểm tra. Lúc đó dạ dày của tôi đầy nước. Họ gửi mẫu đó đến phòng thí nghiệm nên tôi phải ngồi chờ kết quả. Kết quả
là tôi bị viêm màng phổi TB.
Sau khi nhận kết quả, tôi bắt đầu uống thuốc TB họ đưa cho tôi (Rifampin) và thú thực là những viên thuốc này đã giúp tôi cảm thấy khá hơn rất nhiều. Tôi cố gắng lấy lại cân nặng. Tôi ăn ngon miệng hơn nhưng tình trạng của tôi bắt đầu xấu hơn sau khi tôi dừng điều trị bằng thuốc Rifampin. Mỗi ngày tôi uống năm viên và sau đó là hai viên nhưng tình trạng sức khỏe của tôi lại bắt đầu xấu đi. Tôi cảm thấy chóng mặt, tay chân bải hoải và đổ rất nhiều mồ hôi. Khi tôi trở lại bệnh viện để kiểm tra, tôi nói với các bác sĩ về tình trạng của mình nhưng họ không hề lưu tâm. Họ chỉ làm theo cách riêng của họ. Tôi tiếp tục điều trị bằng thuốc chữa TB trong gần chín tháng cho tới khi tôi quay trở lại khám một lần nữa, và lần này họ yêu cầu tôi kiểm tra HIV.
“NGƯỜI CỦA TÔI ĐANG CHẾT DẦN VÌ THIẾU HIỂU BIẾT”.
Họ tiến hành kiểm tra và sau khi có kết quả, họ nói với tôi rằng tôi dương tính với HIV nhưng họ không thể điều trị cho tôi vì họ đang chờ kết quả đếm CD4, chỉ sau khi có kết quả thì họ mới biết nên tiếp tục điều trị như thế nào. Họ nói rằng họ không thể điều trị cho tôi nếu tế bào CD4 của tôi lớn hơn 200 và họ chỉ điều trị khi tế bào đó dưới 200.
QUAN ĐIỂM CỦA TÔI
Theo như tôi biết thì Chính phủ đang hỗ trợ những người nhiễm HIV/AIDS trong việc phá hủy quốc gia. Họ nói với tôi rằng kết quả đếm CD4 của tôi là trên 200, điều đó có nghĩa là hệ thống của tôi vẫn khỏe mạnh và đó là lý do tại sao họ không thể giúp tôi. Tôi nghĩ rằng kết quả này hoàn toàn sai. Tại sao lại phải chờ đến khi kết quả CD4 của tôi giảm xuống trước khi họ giúp tôi? Tại sao họ không thể chắc chắn rằng virus sẽ không đi qua ranh giới để biến từ HIV sang AIDS?
“CHÚA PHÙ HỘ NHỮNG NGƯỜI SẴN LÒNG GIÚP ĐỠ NGƯỜI KHÁC VÌ CHÚA SẼ CHO HỌ SỰ KHÔN NGOAN”.
Vì mọi thứ tôi đã trải qua trong suốt thời kỳ bị mắc bệnh và cho đến tận bây giờ, tôi biết rằng cái gì đang giết chết tôi. Tôi cảm giác như tôi có thể đứng lên và tỏa sáng. Nhờ đó mà mọi người có thể biết sự thật và sự thật sẽ đem tự do đến cho mọi người. Tôi mất khá nhiều thời gian để quyết định liệu có nên thực hiện kiểm tra hay không. Vì tôi lo sợ rằng nếu họ thông báo tôi có kết quả dương tính mọi người sẽ cười nhạo tôi. Nhưng tôi phải nói với các bạn rằng tôi biết tình trạng của mình và tôi chấp nhận nó. Tôi tha thứ cho bản thân và cầu xin Chúa tha thứ. Tôi để tất cả mọi thứ lại phía sau khi tôi đi từ X đến nơi tiếp theo. Tôi rất dũng cảm và mạnh mẽ để sống chung với căn bệnh và tôi sẽ không bao giờ chết giống như một kẻ nhát gan mà phải giống như một vị anh hùng.
Nhân đây, tôi là một nhạc sỹ viết về HIV/AIDS nên tôi phải biết tình trạng của mình để có thể luyện tập những gì tôi dạy cho mọi người. Tôi muốn trở thành một ví dụ, đặc biệt là ở vùng nông thôn nơi tôi ở và mọi người vẫn còn sợ phơi bày bản thân mình. Virus sẽ lan rộng nếu chúng ta giấu giếm nó không cho người khác biết.
Hãy cùng chung tay góp sức, tự hào về bản thân và có chung mục đích để đánh bại kẻ thù của chúng ta. Đây không phải là một căn bệnh mà đây là một cuộc chiến tranh đang phá hoại lục địa châu Phi của chúng ta. Mong những người đang đọc thông điệp này hãy để ý đến nó và hãy có ý tưởng gì đó để giúp đỡ đất nước.
TÔI LÀ DONALD, NGƯỜI BỊ NHIỄM BỆNH
Là một người sống chung với HIV, tôi luôn nghĩ về những điều tích cực theo cách mà không có gì đau đớn xảy đến với tôi nữa và trong tim tôi không có chỗ cho sự thất vọng vì trước đây tôi đã có quá nhiều nỗi thất vọng trong cuộc đời mình. Không có sự thất vọng như thế lần thứ hai.
Tôi tự hào về bản thân mình, tôi yêu bản thân mình và tôi luôn luôn chăm sóc bản thân mình để sức khỏe tôi trở nên tốt hơn và tôi sống cho cuộc sống và tương lai của người khác. Giờ đây tôi thực sự nhận thức được rằng tôi phải chịu trách nhiệm với gia đình và bản thân mình và hy vọng tôi sẽ khỏe trở lại. Tôi thực sự không tin rằng bạn có thể sống với HIV và AIDS trong một thời gian dài nhưng tôi tin rằng tôi đã sống với nó trong một quãng thời gian mà tôi không hề biết về tình trạng của tôi. Giờ đây tôi biết điều đó, tôi hứa rằng bệnh này sẽ được cứu chữa và tôi sẽ khỏi và trở thành một người đàn ông tự do. Là một người đàn ông đã được thả ra khỏi xiềng xích, tôi đang kể với bạn rằng bạn sẽ đứng dậy lần nữa.
Chúa nói rằng Ngài sẽ ban sức mạnh cho kẻ yếu để họ có thể bay như một con đại bàng.
Nếu điều này có hiệu quả với tôi lần nữa thì tôi biết rằng nó sẽ có hiệu quả với bạn, các bạn của tôi; đừng sợ đi kiểm tra vì cuộc kiểm tra này rất hữu ích, đặc biệt khi bạn không chắc chắn về tình trạng của mình. Đây là thời điểm thích hợp để bước tiếp và dũng cảm chiến đấu lại với bệnh tật và lắng nghe. Chúng ta sẽ đứng nếu chúng ta sát cánh bên nhau, còn nếu chia rẽ thì chúng ta sẽ ngã; do đó hãy cùng nhau chung sức để trở thành người chiến thắng vào cuối mỗi ngày.
Nguyên nhân chủ yếu khiến Donald chết đó là AIDS; nhưng nguyên nhân chính là bệnh sốt rét. Sau khi Donald qua đời, tôi thề rằng sẽ không có nhân viên nào của Virgin sẽ phải chết một cách không cần thiết như vậy. Sau những lời nói xúc động của Donald, và khám phá bản thân, tôi cho là một công ty đang phạm sai lầm khi công ty đó dù ở đâu trên thế giới đã đánh mất nhân viên của mình vì bệnh AIDS, và mỗi công ty trên thế giới phải thề rằng họ sẽ khuyến khích nhân viên của mình tự nguyện đi khám và chắc chắn một điều là họ được uống thuốc antitretrovials kịp để ngăn ngừa HIV chuyển thành AIDS. Việc đầu tiên là tôi cố gắng sắp xếp mọi thứ trong nhà về đúng trật tự. Joan và tôi bắt đầu hỗ trợ tất cả những người đang làm việc cùng chúng tôi. Sau đó, chúng tôi tổ chức một cuộc kiểm tra HIV cho tất cả mọi người và chúng tôi cố gắng thu hút mọi nhiều người tham gia nhất có thể. Hầu hết mọi người đã tham gia; và chúng tôi cũng đề nghị những người trẻ nhiễm HIV đến và giải thích xem thuốc antiretroviral đã cứu sống cuộc đời họ như thế nào để mọi người hiểu chương trình đã hoạt động ra sao. Chúng tôi làm hai bộ phim đặc biệt dành cho châu Phi. Bộ phim nói về cách cơ thể con người hoạt động; điều gì xảy ra khi mức CD4 giảm xuống dưới 200; tại sao con người lại chết; hệ thống miễn dịch hoạt động như thế
nào; và cách bao cao su bảo vệ con người. Trong một cuộc kiểm tra tại một trong những công ty ở Nam Phi, gần 24% số người có kết quả dương tính với HIV. Tôi e rằng đó là con số trung bình, điều này có nghĩa là 24% nhân viên của chúng tôi có thể sẽ chết trong vòng sáu đến bảy năm nữa nếu họ không sử dụng thuốc antiretrovirals. Chúng tôi giải thích rõ rằng chúng tôi sẽ cung cấp miễn phí thuốc antiretrovirals cho tất cả những ai có CD4 thấp hơn
300. Chúng tôi cũng bắt đầu đặt ra tiêu chuẩn 0% ở các công ty trên thế giới, nhằm đảm bảo rằng không có nhân viên nào của Virgin phải chết vì bệnh AIDS, đó sẽ bao gồm 0% nhân viên có kết quả dương tính với HIV, và 0% những người mẹ mang bầu có kết quả dương tính với HIV sẽ truyền HIV cho đứa trẻ. Con số này cũng bao gồm 0% khoan dung cho sự phân biệt đối xử với những người dương tính với HIV trong công ty của chúng tôi.
Donald nói: “Đây không chỉ là một căn bệnh mà còn là một cuộc chiến nhằm phá hủy lục địa châu Phi của chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau hành động, hãy tự hào về bản thân chúng ta và đặt ra mục đích để đánh tan kẻ thù.” Để tưởng nhớ Donald, tôi đã quyết định sẽ thành lập một “Phòng chiến tranh” để giúp phối hợp và gắn kết tất cả các tổ chức ở châu Phi đang cố gắng chiến thắng căn bệnh thế kỷ này. “Phòng chiến tranh” sẽ đưa ra các vấn đề, tìm ra cách giải quyết và tối đa hóa các tiềm lực. “Phòng chiến tranh” sẽ tham gia vào công việc chứ không phải để tranh luận. Nó sẽ thức tỉnh thế giới về những căn bệnh mới như AIDS trước khi con người không thể kiểm soát được. Trong cuộc chiến với HIV, sốt rét, TB và bệnh đường rò. Tổ chức này sẽ huy động các chuyên gia, các nhà vận động và các tín đồ tham gia nhanh chóng bằng cách tìm những người liên lạc, Chính phủ và các nhà sáng lập. Mục đích cuối cùng là đảm bảo rằng không có ai như Donald nữa và qua cái chết của ông thì hàng nghìn người khác sẽ được sống.
Sau khi Donald qua đời, tôi tình cờ ghé thăm một bệnh viện địa phương với mẹ tôi, và một cách ngẫu nhiên tôi gặp một người đàn ông vui vẻ có tên là Dyke. Dyke từng là tài xế ở Ulusaba. Anh đang nằm trên giường bệnh tuyệt vọng với thân hình chỉ còn da bọc xương. Khi anh nhìn thấy mẹ tôi, tôi thấy trong mắt anh ánh lên niềm vui. Ngay lập tức, chúng tôi cho anh uống thuốc antiretroviral. Anh hồi phục rất nhanh. Anh hoàn toàn hồi phục. Nhờ được uống thuốc và điều trị đúng cách, anh đã được cứu sống khi cái chết đang cận kề.
Những người bị AIDS đều phải có cơ hội sống lại như thế này. Thật đáng buồn, Dyke đã chết vì bệnh sốt rét khi anh đang trên đường đến Mozambique. Cái chết của anh khiến tôi có thêm quyết tâm không để một loài côn trùng nhỏ tiếp tục cướp đi sinh mạng của hàng nghìn người mỗi ngày ở châu Phi.
Tôi thực hiện một số cuộc nghiên cứu với Virgin Unite và một người đàn ông tuyệt vời đến từ Mỹ có tên là Tiến sỹ Brian Brink về tìm kiếm hy vọng ở một nơi không cây cối, chỉ có đồi núi đá và cái nghèo thương tâm của một thị trấn nông thôn bụi bặm ở Elandsdoorn ở tỉnh Limpopo. Chúng tôi đi qua trung tâm y tế Ndlovu. Trung tâm này do tiến sỹ Hugo Templeman điều hành. Ông là một nhà vật lý tâm huyết người Hà Lan, ông đã cống hiến 15 năm qua để chữa bệnh HIV/AIDS cũng như những căn bệnh khác đang giết người dân châu Phi như TB và sốt rét.
Một trong những điều đầu tiên mà tôi chú ý khi đi thăm quan khu dự án phát triển
ngoài bệnh viện Ndlovu bao gồm một lò bánh mỳ, một hiệu sửa chữa, một nhà máy sản xuất tã lót, trường mẫu giáo, trường máy tính, hiệu rửa xe, một phòng tập thể hình đều đang tuyển nhân công địa phương. Hugo thấy rằng tôi cảm thấy rất ấn tượng.
“Vâng, chúng tôi đều hy vọng và chúng tôi muốn mọi người biết rằng họ sẽ khỏe trở lại.
Họ cũng cần phải kiếm sống để nuôi sống gia đình và bản thân trong quá trình điều trị.”
Tiến sỹ Brink đã chiến đấu một trận chiến khó khăn trong suốt nhiều năm qua để có được thuốc antiretroviral miễn phí cung cấp cho khoảng 10 nghìn công nhân người Anglo đang cần nó. Cuối cùng, anh đã thắng bằng cách chỉ ra rằng việc mất đi những nhân viên đã được đào tạo tốn kém nhiều hơn so với việc mua thuốc điều trị. Khi giành chiến thắng, anh hỏi: “Thế còn gia đình của những người thợ mỏ bị HIV và AIDS thì sẽ như thế nào?”
Tôi nhiệt liệt tán thành quan điểm thẳng thắn của anh. Chúng tôi thảo luận với Hugo và Virgin Unite về việc xây dựng một bệnh viện để phục vụ quận Sabi-Sands ở Ulusaba. Lần đầu tiên tôi giúp đỡ việc kiểm soát sự lây lan của HIV là vào đầu những năm 1990, khi tôi bắt đầu làm công việc từ thiện phân phát miễn phí bao cao su Mates. Từ phát miễn phí bao cao su Mate cho đến mở một trung tâm y tế cùng Anglo America. Chúng tôi quyết định rằng bệnh viện mới sẽ được đặt tên là Trung tâm y tế cộng đồng Bhubezi theo ngôn ngữ Zulu nghĩa là con hổ. Trung tâm này sẽ phục vụ 100 nghìn người. Trung tâm điều trị bệnh HIV, TB và sốt rét miễn phí, nhưng các dịch vụ y tế khác sẽ được tính tiền rẻ để đảm bảo rằng trung tâm y tế sẽ có khả năng hoạt động sau một thời gian dài. 100 nghìn người ở Ulusaba sẽ được bảo vệ. Tuy nhiên, đối với những người sống xa bệnh viện thì họ phải được điều trị tại nhà.
Thật là khó để đến được những khu vực hẻo lánh để cung cấp dịch vụ y tế. Do đó, chúng tôi phát động một phong trào mang tên Những thiên thần của Thiên đường trong toàn bộ tập đoàn Virgin Group nhằm gây quỹ mua và bảo trì xe máy. Các công ty đặc biệt là Virgin Trains và Virgin Atlantic Challenger đã gây được một triệu đô-la Mỹ để mua hơn 100 chiếc xe máy. Chúng tôi đang xây dựng mô hình làm việc như sau: một người nào đó từ một làng quê vay tiền mua xe máy; ngược lại họ được đào tạo và trả tiền để cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế bằng xe máy cứ ba ngày một tuần, còn những ngày còn lại họ có thể sử dụng xe máy cho công việc kinh doanh của riêng mình. Bằng cách này, hoạt động này sẽ bền vững hơn và nhiều người trong cộng đồng sẽ có việc làm. Năm 2007, chúng tôi bắt đầu kiểm tra mô hình với một đối tác lớn là SHEF. Công ty này đã xây dựng hơn 64 trung tâm y tế và dược bền vững trên khắp Kenya, và những trung tâm này do người dân địa phương làm chủ.
Chúng tôi muốn nhân rộng những trung tâm như thế này để cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế cho khắp các vùng của châu Phi, không chỉ với một trăm mà với hàng nghìn nhân viên y tế làm việc bằng xe máy, và bằng cách chỉ cho mọi người cách kiếm sống và giúp đỡ lẫn nhau.
Mặt khác, tôi cũng đang làm việc chăm chỉ thông qua Virgin Unite để cố gắng giúp đỡ các nước đang phát triển giải quyết một số vấn đề mà họ đang gặp phải. Bên cạnh đó, tôi cũng đang làm việc chăm chỉ để tiếp tục chương trình du hành không gian. Đó là một ranh
giới khác lạ nhưng hấp dẫn. Virgin Galactic đã khuấy động thế giới và mọi người đã đăng ký chuyến bay đầu tiên của chúng tôi. Sau đó, một điều gì đó ấn tượng đã diễn ra trong chuyến du hành cá nhân của tôi lên vũ trụ.
Tháng 11, khi đang ở Necker với Burt Rutan, nhà thiết kế tàu vũ trụ và một nhóm khách hàng của chúng tôi, họ chính là những người tìm những chi tiết của dự án do chính Burt nói ra. Will gọi điện từ London để thông báo rằng anh ấy vừa nghe Giáo sư Stephen Hawking trên chương trình Today trên sóng Radio 4.
Will nói: “Stephen Hawking đã thực hiện một cuộc phỏng vấn đầy kinh ngạc về việc tại sao con người cần phải đi vào không gian – tại sao ông vẫn muốn bay và tại sao ông thích đi cùng Richard Branson nếu có thể!”
Chúng tôi tập hợp tất cả những khách hàng sáng lập và Burt thành một nhóm nhà phát biểu và chúng tôi kết nối Internet và bật podcast của Stephen Hawking từ đài BBC: “Loài người phải chuyển tới một hành tinh xa hơn hệ mặt trời để bảo vệ tương lai muôn loài.
Cuộc sống có thể bị tiêu diệt vì thảm họa nguyên tử hay một thiên thạch lao vào Trái đất. Một khi chúng ta mở rộng ra không gian và thành lập thuộc địa thì tương lai của chúng ta sẽ an toàn. Không có hành tinh nào giống Trái đất trong hệ mặt trời nên loài người sẽ phải đi đến một ngôi sao khác. Những tên lửa hóa học và hạt nhân hiện tại đều không đủ để đưa người dân lên không gian và thực hiện được điều này sẽ mất 50 nghìn năm. Tôi không kể đến việc sự thực hiện những chuyến đi với tốc độ ánh sáng để đưa mọi người đến một nơi định cư mới.
“Thay vào đó, tôi ủng hộ sự hủy diệt phản vật chất như là một động lực. Khi vật chất và phản vật chất gặp nhau, chúng sẽ biến mất trong một vụ nổ phóng xạ. Nếu vụ nổ này được phát ra từ đằng sau một con tàu vũ trụ thì nó có thể đưa con tàu về phía trước. Di chuyển với tốc độ thấp hơn tốc độ của ánh sáng một chút thì ta sẽ mất khoảng sáu năm để bay tới một ngôi sao mới. Để đạt được tốc độ gần bằng tốc độ của ánh sáng thì cần phải tốn rất nhiều năng lượng.
“Mục tiêu tiếp theo của tôi là bay vào vũ trụ; có thể Richard Branson sẽ giúp tôi.”
Các phi hành gia của chúng tôi đang trở nên phấn khích. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy tự hào được trở thành một phần của của dự án mà mọi người nhiệt tình tham gia. Tôi chưa bao giờ hết ngạc nhiên vì Giáo sư Hawking, một người mà tôi cực kỳ ngưỡng mộ. Tôi gặp ông khoảng hai năm về trước nên tôi đã nhấc điện thoại lên và gọi cho ông. Tôi giải thích rằng chúng tôi chưa tặng vé miễn phí sử dụng dịch phụ Virgin Galactic cho ai, mặc dù có rất nhiều người nổi tiếng đã đến với chúng tôi, nhưng nếu Stephen cảm thấy đủ sức khỏe để tham gia chuyến bay thì chúng tôi sẽ dành cho anh ấy một cơ hội đặc biệt để bay vào không gian.
Sử dụng giọng nói ghi âm của mình, ông giải thích rằng loài người đơn giản là phải bay vào không gian nếu chúng ta tiếp tục duy trì sự sống trên Trái Đất. “Loài người sẽ đe dọa sự sống trên Trái Đất. Hai nguyên nhân chính của mối quan tâm này là sự nóng lên toàn cầu
và biến đổi gen do vắc-xin và các cơ quan vi mô. Vì chúng ta có đủ kiến thức về những việc có thể xảy ra trên hành tinh này để biết rằng chúng ta cần phải sử dụng các nguồn tài nguyên còn lại của hệ mặt trời nếu chúng ta tiếp tục sống như là một nền văn minh. Và chúng ta cũng cần phải có động cơ để bay ra ngoài vũ trụ và khám phá; và không phải chỉ có robot mới bay vào không gian mặc dù robot là một phần của câu trả lời. Mọi người phải có thể bay ra ngoài vũ trụ.” Ông cho biết thêm: “Virgin Galactic là một bước tiến để bay vào vũ trụ trong số rất ít những công ty được chọn.”
Theo yêu cầu của tôi, Stephen Attenborough, người đứng đầu mối quan hệ giữa các phi hành gia, đến gặp Giáo sư Hawking cùng với Trưởng phòng khám để thảo luận về công tác hậu cần để sắp xếp một chuyến bay trọng lực mô phỏng cho ông càng sớm càng tốt.
Tiếp tục từ sự quan tâm của Tiến sỹ Hawking đến dự án của chúng tôi, chúng tôi nhìn vào rất nhiều khía cạnh khác nhau để xem tại sao vũ trụ lại là một vấn đề quan trọng. Có một lý do ngắn hạn về việc hiểu vấn đề biến đổi khí hậu và việc cung cấp cho chúng tôi những thông tin để giữ cho hành tinh này tiếp tục sản xuất thực phẩm để cung cấp cho dân số đang ngày càng tăng lên. Nhưng theo ông nói thì về mặt lâu dài chúng ta cũng cần phải bay vào không gian để cung cấp những nguồn năng lượng cho hành tinh và có thể là một vài giải pháp cho vấn đề biến đổi khí hậu. Ví dụ, rất nhiều ý kiến hay đang được triển khai như ô mặt trời. Ô mặt trời không lớn như mọi người nghĩ mà nó chỉ là những cấu trúc pha lê nhỏ được làm từ phim trong suốt, chúng được rải vào không gian như những quả bóng ở điểm Lagrange nằm ở giữa Mặt trời và Trái Đất. Ở đây, những chiếc ô sẽ phản lại khoảng 5% tia mặt trời trong số vô vàn tia. Mọi người cũng nghĩ rằng mạng Internet là một nguồn phi năng lượng, nhưng nó phát ra rất nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính. Các nhà khoa học đã nhìn vào nông trại Serva, nơi được cung cấp nhiên liệu bằng những ô thu năng lượng mặt trời và chiếu lại tín hiệu đài từ không gian trực tiếp đến máy tính, tiết kiệm 80% điện. Một trong những điều mà mà tôi vô cùng quan tâm đó là khả năng đưa một nhóm nghiên cứu nhiên liệu Virgin Fuels lên mặt trăng, sau đó xây dựng một đội tàu vũ trụ để chúng tôi có thể làm việc ở đó. Điều này nghe có vẻ như một câu chuyện viễn tưởng nhưng từ đầu thập kỷ tôi không tưởng tượng được việc sẽ có ngày được điều hành một đội tàu vũ trụ với những nhà vật lý tài ba nhất như hôm nay. Để giữ quan điểm của Stephen Hawking rằng tương lai của chúng ta có thể nằm trên vũ trụ, tôi tìm kiếm một loại nhiên liệu ngoài không gian đó là Helium-3. Đây là một dạng heli hiếm gặp trên bề mặt Trái Đất và có sẵn ở lõi Trái Đất, ở một nơi rất xa mà chúng ta không thể tới được. Nhưng lượng khí dồi dào này có mặt trong bụi Mặt Trăng. Khi tôi tính toán rằng chỉ cần một con tàu chở khí này về từ mặt trăng thì có thể cung cấp điện cho nước Mỹ dùng trong một năm, điều này khiến tôi thực hiện thêm nhiều cuộc nghiên cứu để tìm ra các khả năng. Helium-3 được tạo ra dưới một áp lực và hơi nóng tuyệt đối. Nó được tạo ra khi mặt trăng tách ra khỏi Trái Đất và bay vào quỹ đạo xung quanh Trái Đất, và tiếp tục được hình thành bởi gió mặt trời trong hàng triệu năm. Các nhà khoa học chỉ có thể tạo ra một lượng nhỏ xíu với chi phí khoảng hàng tỷ đô- la bằng máy gia tốc tại Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu (Cern). Lấy được chất này từ Mặt Trăng bằng cách thu thập bụi và sau đó đốt nóng để lấy khí sẽ không quá tốn kém cũng như không vượt quá khả năng của chúng ta. Helium-3 có thể cung cấp tất cả năng lượng mà Trái Đất cần trong tương lai bằng cách nấu chảy, cách này vừa sạch vừa an toàn.
Chất này cho phép đất được đánh dấu để phát triển nhiên liệu sinh học được dùng để trồng thực phẩm. Nghe có vẻ cường điệu nhưng Helium-3 có thể cứu sống nhân loại vào một ngày nào đó.
Vào tháng 2/2003, khi cuộc xâm lược Iraq của Mỹ và Anh dường như là một điều không thể tránh khỏi, tôi quyết định không thể đứng nhìn. Tôi phải làm một điều gì đó để dừng cuộc chiến này lại. Thật đáng buồn là trước khi tôi có thể thì Mỹ đã bắt đầu đánh bom Iraq. Nhưng điều này khiến tôi suy nghĩ: có thể chúng tôi nên tập hợp lại với nhau thành một nhóm những vị bô lão toàn cầu với hy vọng rằng tiếng nói, sự thông minh và sức thuyết phục của họ có thể giúp tránh những xung đột như vậy trong tương lai.
Cùng lúc đó, tại nhà của mình gần Bath, Peter Gabriel, một người bạn tốt của tôi đã có một tầm nhìn tuyệt vời rằng công nghệ đang đẩy con người tới một nơi to lớn hơn – nhưng vẫn chưa có ai dẫn đường và sử dụng công nghệ như là một lực lượng mạnh mẽ. Rất nhiều các nhà lãnh đạo hiện nay không ở đó để làm những điều đúng đắn cho nhân loại, thay vào đó, hầu hết họ đều có những chương trình liên quan đến sức mạnh chính trị, quân sự, kinh tế hay sức mạnh tôn giáo. Ý tưởng của chúng tôi cùng hướng về một chuyến đi cảm động tới Nam Phi vào tháng 11/2003 khi chúng tôi đang giúp đỡ Mandela bắt đầu chiến dịch 46664 của mình. Từ khi đó, chúng tôi tham gia vào một chuyến đi mà chúng tôi hoàn toàn mãn nguyện với sự giúp đỡ của nhiều cá nhân để xây dựng giấc mơ lập tổ chức Global Elders (Hội Bô lão toàn cầu) . Chúng tôi tin rằng đàn ông và phụ nữ, những con người chính trực và có khả năng lãnh đạo đều có thể có những ý kiến tuyệt vời. Đó là sự thông thái của các vị bô lão được truyền từ đời này qua đời khác trong bộ lạc hay của làng xã. Sự thông minh về trực giác chính là những gì mà ngôi làng công nghệ cao toàn cầu cần. Khi Mandela và vợ ông là Graca Machel đồng ý trở thành những người sáng lập và Archbishop Tutu đồng ý làm trưởng nhóm, chúng tôi biết rằng chúng tôi có nòng cốt của một điều gì đó rất đặc biệt.
Vào tháng 7/2006 ở Necker, chúng tôi tổ chức một cuộc gặp gỡ giữa những nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới trong các lĩnh vực công nghệ, từ thiện, kinh doanh, khoa học, nghệ thuật và rất nhiều lĩnh vực khác. Tất cả các nhà lãnh đạo đều tập trung lại để tranh luận về ý tưởng hội bô lão và tiếp tục đi đến bước tiếp theo.
Peter và tôi mở đầu trong ngày đầu tiên của hội nghị qua bài phát biểu giải thích về ý tưởng hội bô lão. Peter nói: “Tôi thấy rằng ý tưởng này dựa trên các bộ tộc châu Phi, những người kính trọng các vị bô lão trong ngôi làng của họ. Nhưng bây giờ chúng ta đi xa hơn ngôi làng nhỏ bé đó. Giờ đây chúng ta có Google và Wikipedia và tất cả những công cụ kết nối con người khác.”
Tôi gật đầu. “Có những vị bô lão đang làm việc một mình trong một thời gian dài.
Những người đàn ông và phụ nữ tốt bụng đã nói lên ý kiến của mình. Ý kiến đó chính là liệu những người được tôn trọng nhất trên thế giới có thể tập hợp lại thành một nhóm, họ sẽ hành động hiệu quả hơn. Thay vì có sức mạnh của một người, chúng ta sẽ có sức mạnh của 12 người.”
Đó là hai tuần với đầy những ý tưởng tuyệt vời và đầy tranh cãi, nhưng đông đảo mọi ý
kiến đều cho rằng thế giới cần một nhóm người như thế này. Đó là một trải nghiệm tuyệt vời khi được gặp những con người tuyệt vời như Archbishop Tutu và Tổng thống Carter. Cả hai người đó đều có cái nhìn sâu sắc về ý tưởng các vị bô lão. Tôi sẽ không bao giờ quên những khoảnh khắc kỳ diệu như lúc Peter chơi đàn dương cầm trong phòng khách tại Great House còn Tutu và vợ của ông là Leah đang cùng nhau khiêu vũ. Hay đó là khi Peter trong chiếc áo dài màu trắng đang dạy Tutu bơi. Dường như ông rất thích thú với việc học bơi và ông đã dành nhiều thời gian với Peter và tôi luyện tập trong bể bơi.
“Tôi có một bể bơi ở nhà và tôi không sử dụng nó. Vợ tôi và những đứa trẻ đều biết bơi, nên có thể tôi sẽ tham gia”, anh nói và cười tươi.
Chúng tôi cũng rất vinh dự khi có một số vị bô lão cùng tham gia bày tỏ quan điểm về cách làm thế nào để nhóm Global Elders có thể tạo nên sự khác biệt. Zachie Achmat đến từ nhóm Treatment Action Group (Nhóm chuyên gia cố vấn sức khỏe cộng đồng) đã truyền cho chúng tôi tất cả niềm say mê của ông về việc mọi người có kết quả dương tính với HIV đều đảm bảo chắc chắn được điều trị bằng thuốc antiretroviral. Anh thực sự đã cống hiến cả cuộc đời mình để đấu tranh cho cuộc đời của người khác, anh từ chối điều trị cho chính bản thân mình cho đến khi mọi người đều có thuốc điều trị. Hy vọng rằng nhóm Global Elders có thể đóng vai trò trong việc truyền bá tiếng nói của mọi người như Zachie và Taddy Bletcher – những người đang làm những công việc có tầm ảnh hưởng, những người mà tiếng nói của họ cần phải được cả thế giới lắng nghe để giúp họ mở rộng tầm ảnh hưởng của mình. Mọi người đều phát biểu một cách tự do và thật lòng, đưa ra những ý kiến, quan điểm thẳng thắn và hiểu biết.
Jean Oelwang bắt đầu một phần bằng việc nhận xét về Mandela. “Đây là một thời điểm đáng ngạc nhiên trong lịch sử. Mandela có sự can đảm về tinh thần thực sự. Ông sẽ nói những điều như nhau trước mặt và đằng sau lưng công chúng. Ông tập trung vào những gì tốt nhất cho nhân loại và ông chứng minh tính lãnh đạo, không chỉ thông qua hành động mà còn thông qua lòng trắc ẩn.”
Bà bắt đầu chuyển sang Archibishop Tutu. Ông khó khăn đứng dậy từ chiếc ghế thấp và nói đùa: “Điều này có thể xảy ra khi bạn ở tuổi tôi. Bạn phải có một cuộc trò chuyện với cơ thể mình và nói, này anh bạn, chúng ta phải thức dậy thôi, anh thấy thế nào?”
Tôi xoa vai ông, tất cả những điều mà Tutu nói đều rất xúc động. “Tôi rất vui khi tôi không phải là Chúa. Chúa chắc hẳn đang rơi nước mắt; quyền năng của Người là vô hạn nhưng dường như quyền năng đó rất yếu. Chúng ta phân vân tại sao Chúa lại không tiêu diệt những kẻ đã làm những điều sai trái. Nhưng có những người lớn lên và làm những điều đúng đắn – họ đã đánh đổ nạn phân biệt chủng tộc ở Nam Phi. Thỉnh thoảng, như mặt trời chiếu sáng những cơn mưa, Chúa ngắm nhìn và mỉm cười. Ngày hôm nay, Người đã mỉm cười trên hòn đảo này. Tôi chắc chắn tin rằng đây là một hành tinh mang tính đạo đức. Dù cho mọi sự biểu hiện đối nghịch mà dường như là ác quỷ đang nổi giận. Nhưng cuối cùng thì cái tốt vẫn chiến thắng. Lòng trắc ẩn, sự quan tâm là những điều quyết định cuối cùng.”
Một vấn đề quan trọng mà chúng tôi thảo luận đó là sự khác biệt mà hội các vị bô lão có thể tạo ra, không lặp lại vai trò của Liên Hợp Quốc, hoặc những công việc quan trọng của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Tôi bắt đầu cuộc trao đổi: “Chúng ta đã bàn bạc về ý tưởng các vị bô lão sẽ có phạm vi hoạt động ở những vùng mà Liên hợp quốc và đất nước chưa bao trùm.”
Rõ ràng là Jimmy Carter có kinh nghiệm riêng không chỉ làm việc cho Liên hợp quốc mà còn làm việc cho cả công ty của riêng mình, Trung tâm Carter. Ông nói rằng một trong những vấn đề gây khó khăn cho UN đó chính là quyền phủ quyết và có quá nhiều những người đang thương lượng đằng sau để thông qua Nghị quyết. “Bạn không thể phớt lờ quyền phủ quyết của UN. Các vị bô lão có thể bỏ qua điều này. Không có nơi nào mà mọi người lại có thể ủng hộ một nghị quyết đầy tranh cãi. Để xúc tiến hòa bình. Để đưa cho các chuyên gia cách mà bạn thương lượng về hòa bình. Có những tổ chức như Havard, Carter Center, nhưng bạn không thể đi đến Liên hợp quốc vì bạn biết Mỹ sẽ bỏ phiếu phủ quyết một bên, còn Nga và Trung Quốc sẽ phủ quyết bên khác. Do đó, Global Elders sẽ là một nền móng của hòa bình hay là bất cứ một hội nào đó mà mọi người sẽ tìm đến đầu tiên, chẳng hạn như: Tại sao tôi lại không đến Hội bô lão để chống lại chiến tranh? Nếu chúng ta có một Liên hợp quốc hoàn hảo thì chúng ta sẽ không cần có hội này nữa. Nhưng Liên hợp quốc không thể giải quyết vấn đề hòa bình hay làm dịu bớt những nỗi đau khổ, vi phạm quyền con người, hay sự áp bức phụ nữ. Bạn không thể khiến họ tranh luận về sự áp bức phụ nữ vì có rất nhiều quốc gia theo đạo hồi đang chống lại điều này. Và cả những nước theo đạo tin lành cũng vậy. Đây là vấn đề mà các vị bô lão có thể giải quyết mà không hề bị ép buộc và và có một sự thực khủng khiếp đó là vấn đề này đang không được thực hiện. Tôi cá rằng Kofi Annan sẽ thốt lên “Lạy Chúa tôi!” khi đề cập đến vấn đề này. Carter Center đã lập một ủy ban cấp cao về Quyền con người mà Liên hợp quốc không hề muốn. Chúng ta đang nói về một tổ chức ma có thể thay thế Liên hợp quốc và tránh những cưỡng ép cố hữu của một tổ chức 200 thành viên.
Đây là một công việc rất nặng nề. Chúng tôi đạt được sự đồng thuận trong suốt buổi họp rằng Hội Global Elders nên tìm kiếm biện pháp để củng cố quyền của phụ nữ và để thực hiện nó từ vị trí của các chính trị gia.
“Nhưng không với uy quyền”, Jimmy nói. “Đó là điều quan trọng. Chỉ có uy quyền thuộc về đạo đức”.
Nơi nào mà công việc của Tổ chức Y tế Thế giới được quan tâm, thì Hội các vị bô lão sẽ cần một chương trình lớn hơn để nhìn vào các vấn đề đang gây tranh cãi như HIV/AIDS, đảm bảo mọi người có nước sạch để uống vì hiện nay có khoảng 80% dân số ở các nước thế giới thứ ba không được tiếp cận với nguồn nước sạch, và đang phải chịu đựng bệnh tật.
Trong khi Hội Global Elders hỗ trợ việc xóa bỏ bệnh sốt rét. Ví dụ chỉ WHO có quyền được sử dụng từ “xóa bỏ”.
Jimmy nói: “Global Elders có thể cố gắng cải thiện chất lượng cuộc sống tại các nước bị tác động mạnh bởi nạn đói. Cho dù họ không muốn tạo ra một điều gì đó, họ vẫn có thể hỗ
trợ việc cơ cấu. Việc làm nhẹ bớt những nỗi đau khổ thông qua việc xóa bỏ bệnh tật là một phần công việc của Hội.”
Một ngày thường diễn ra như thế này – những cuộc thảo luận và tranh cãi gay cấn, qua mỗi lần thảo luận thì ý tưởng và giấc mơ của chúng tôi lại như tiến thêm được một bước đi mới. Tất cả chúng tôi đều hiểu chính xác Peter đến từ đâu khi anh nói: “Thế giới là một tấm gương sống. Các nhà du hành không gian nói rằng từ trên vũ trụ bạn nhìn thấy một quả bóng màu xanh. Quả bóng đó được ánh sáng bao trùm; mọi thứ đều được phản chiếu. Đứa con bốn tuổi của tôi kể cho tôi nghe một câu chuyện. Nó nói rằng khi mọi người kết nối với nhau, họ tỏa sáng, nếu không thì họ sẽ rơi vào bóng tối. Do đó, chúng ta nên cố gắng kết nối với nhau. Họ ở đây không phải là những con số hay những số liệu thống kê mà là những con người thực.”
Các ý tưởng kích thích những ý tưởng khác nảy ra. Nó như thể chúng ta có những hy vọng được chôn giấu bên trong và chỉ chờ cơ hội để bật ra. Thậm chí, chỉ trước khi Jimmy Carter rời đi, ông quay trở lại với những ý tưởng nảy ra vào phút chót. “Các vị bô lão chính là lương tâm của thế giới. Họ có thể là những người dẫn đường cho thế giới, một vật thể được công nhận để thúc đẩy lý tưởng hòa bình và sự công bằng. Được ở đây là một điều thú vị. Đây là một trải nghiệm đầy cảm hứng, thú vị, bất ngờ và phấn khởi.” Ông nở một nụ cười và vẫy tay chào mọi người rồi bước lên chiếc trực thăng chở ông và phu nhân Rose.
Quay trở lại căn nhà, tôi hỏi xem Tutu có muốn uống trà không. Anh nháy mắt trả lời: “Không, tôi không phải là người Anh.”
Tôi nói đùa: “Ồ, anh sẽ thích trà của Peter. Anh ấy có nhiều thời gian để pha trà hơn tôi.”
Một tháng sau, tôi gặp Graca và Mandela ở nhà họ để lựa chọn thành viên cho Hội Global Elders. Những đứa trẻ chạy nhốn nháo xung quanh chúng tôi. Jean và tôi ra khỏi cuộc họp, cảm thấy rằng Global Elders cuối cùng cũng trở thành hiện thực. Chúng tôi tiếp tục tới Ulusaba và có một lễ kỷ niệm tuyệt vời để ký vào những bức thư mời. Thật là xúc động khi cả bố và mẹ tôi có mặt ở đó để chia sẻ những giây phút đặc biệt với chúng tôi. Giấc mơ mà Peter và tôi đã mơ ước trong nhiều năm đang trên đà phát triển.