Tháng Ba năm 1992 – Tháng Một năm 1993
Trên bàn có 560 triệu bảng, tương đương với một tỷ đô-la, nhưng tôi không cần số tiền
“Đến 2 giờ chiều nay là họ cần phải biết” – John Thornton nói với tôi. Tôi đặt điện thoại xuống, nhìn sang Simon và Ken. Trong 20 năm qua, chúng tôi đã cùng nhau xây dựng công ty nhưng chúng tôi chưa sẵn sàng để bán nó.
Theo nhiều cách thì việc ký hợp đồng với The Rolling Stones là thứ mà tôi muốn làm nhất ở Virgin Music. Chúng tôi đã chiến đấu để ký hợp đồng với họ trong 20 năm, và bây giờ chúng tôi đã có ban nhạc Rock n’Roll lớn nhất trên thế giới cho nhãn hiệu của riêng mình. Từ khi còn là một nhãn nhiệu mới, bắt đầu vào năm 1973, chúng tôi còn phải dựa vào người anh hùng Mike Oldfield, giờ đây chúng tôi đã trưởng thành: Hiện chúng tôi là thương hiệu được nhiều ban nhạc trên thế giới lựa chọn. Các nghệ sĩ đã xem cách chúng tôi bắt đầu sự nghiệp solo của Phil Collin như thế nào, và cách chúng tôi quảng bá tên tuổi của UB40 và Simple Minds, những gì chúng tôi có thể làm với Culture Club và Peter Gabriel, và họ muốn ký hợp đồng với chúng tôi. Nhưng, khi chúng tôi vừa chạm tới đỉnh cao của sự nghiệp thì mọi thứ đã kết thúc.
“Ken à?” – Tôi hỏi.
“Điện thoại của anh đấy” – Anh ấy nói. “Simon à?”
“Chuẩn bị tiền mặt đi. Anh không có sự lựa chọn đâu”.
Bất cứ khi nào có ai đó nói với tôi rằng tôi không có sự lựa chọn, tôi đều cố gắng chứng minh rằng họ đã sai. Trong suốt mấy ngày qua, lời đề nghị của Thorn EMI đã thay đổi, từ lời đề nghị chia đều tất cả, và tôi sẽ là cổ đông lớn nhất của Thorn EMI với 14% cổ phần, hoặc nhận tiền mặt ít hơn, thành đề nghị trả tiền mặt cao hơn. Cho dù Thorn đã thay đổi chiến thuật và đề nghị trả tiền mặt nhiều hơn là cổ phiếu, tôi vẫn thích trao đổi cổ phiếu hơn vì điều đó có nghĩa là tôi có thể giữ một phần trong Thorn EMI mà tôi có thể sử dụng trong tương lai như là một nền tảng để đấu giá công ty. Điều khó khăn là mọi người đều cho rằng tôi quá mạo hiểm khi giữ cổ phần như một sự đảm bảo để mượn thêm tiền hỗ trợ Virgin Atlantic Challenger. Cổ phần trong Thorn EMI không được nhìn nhận như một khoản bảo đảm chắc chắn. Mặc dù tôi cũng đã thảo một bức thư gửi cho các nhân viên giải thích rằng tôi sẽ nhận một phần cổ phiếu Thorn EMI và giữ lãi ở công ty, tôi buộc phải thay đổi ý kiến và đồng ý với lời đề nghị trả tiền mặt.
Trước khi đồng ý, tôi gọi Peter Gabriel và thông báo cho anh ấy biết. Tôi muốn nghe lời khuyên của anh ấy và tôi cũng đã nhận ra rằng việc mua bán này sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp của anh ấy.
“Đừng làm như thế, Richard!” – Anh ấy nói. “Một đêm nào đó anh sẽ tỉnh dậy, vã mồ hôi và ước rằng anh chưa bao giờ làm như vậy. Anh sẽ không bao giờ lấy lại được nó đâu”.
Tôi biết rằng anh ấy nói đúng. Đó chính là những gì Joan đã nói. Nhưng áp lực từ BA là quá lớn. Giờ đây tôi cảm thấy chắc chắn rằng Lloyds đang tước quyền sở hữu của chúng tôi và chúng tôi không có sự lựa chọn. Tôi cũng biết rằng Simon muốn bán, và anh ấy muốn lấy tiền mặt hơn là kéo dài việc tham gia vào tập đoàn bằng cách nhận cổ phiếu. Nếu nhận cổ phiếu của Thorn EMI thì sẽ kéo dài tình trạng thê thảm của Virgin Atlantic Challenger, rồi việc đó sẽ đánh bại tất cả các lý luận khác. Mục tiêu quan trọng hơn cả là bảo toàn Virgin Atlantic Challenger khỏi lý do duy nhất mà tôi bán Virgin Music là vì nó quá thành công. Nếu tôi bán Virgin Music, thì thương hiệu Virgin sẽ được bảo toàn. Thay vì có một hãng hàng không đang phải xoay sở với khó khăn và một công ty thu âm, chúng tôi có thể có một hãng hàng không được bảo toàn và một công ty thu âm được bảo toàn cho dù công ty đó do Thorn EMI làm chủ. Mặc dù biết rằng Simon có thể sẽ rời bỏ công ty, tôi có thể ở lại với tư cách là giám đốc của công ty. Quan trọng nhất là Ken vẫn tiếp tục điều hành Virgin ngay trong Thorn, và anh sẽ bảo vệ danh tiếng của Virgin.
Tôi gọi cho Trevor, người xác nhận dòng thông tin sau của ngân hàng:
“Tiền mặt là sự lựa chọn duy nhất” – Anh nói với tôi. “Điều này có nghĩa là chúng ta có thể trả toàn bộ số nợ và bắt đầu lại từ đầu. Điều này sẽ đem lại cho anh sự tự do hoàn toàn. Và khi nghĩ về cổ phiếu của Thorn, hãy nhớ đến những gì đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng thị trường cổ phiếu.”
Điều đó khiến tôi đưa ra quyết định. Nếu tôi chiếm giữ cổ phiếu Thorn và chúng rớt giá trầm trọng thì tôi sẽ không đủ sức để ngăn cản ngân hàng vào cuộc. Ông Freddie Laker đã gợi tôi nhớ rằng nếu mọi việc diễn ra nhanh như thế nào và nó khiến bạn thất bại nhanh chóng. Gần giống như Virgin, hãng hàng không của ông đã đấu tranh với British Airways trong một thời gian dài và khi ông cần sự hỗ trợ thì các ngân hàng lại cố siết nợ. Ông đã được mời đến các ngân hàng, hy vọng họ sẽ đồng ý với một số tiền chi trội hơi tăng bởi cuộc khủng hoảng bất ngờ trong năm tiếp theo, nhưng khi ông đến thì ông được dẫn vào một căn phòng bên cạnh. 30 phút đầu không có ai đến. Cuối cùng, ông cố gắng liên lạc với giám đốc ngân hàng và được ông ta mời sang một căn phòng khác. Lúc ông bước vào, nhìn gương mặt họ, ông nhận ra rằng có điều gì đó thật kinh khủng đã xảy ra.
“Chúng tôi vừa chiếm giữ tài sản của Laker Airways” – Họ nói.
Tất cả đã kết thúc. Ông Freddie chẳng là gì để có thể ngăn cản, người nắm giữ tài sản sa thải các nhân viên, đổi chìa khóa của công ty, tịch thu tất cả tài sản của công ty, bỏ mặc các hành khách và giữ các máy bay. Khu vực làm thủ tục của Laker tại Gatwick biến mất sau một đêm và khu vực bán vé dừng việc đặt vé. Điện thoại bị rút ra và công việc của cả cuộc đời biến mất trong sáu tiếng đồng hồ. Chính nhờ kinh nghiệm của Freddie, tôi đã không đẩy các ngân hàng đi quá xa. Một khi tôi đánh mất quyền kiểm soát vào tay họ thì Virgin Atlantic Challenger sẽ biến mất. Có một điều an ủi là một triệu đô-la đã nằm ở trên bàn.
Tôi ngoan cố nhận ra rằng đây là thời điểm phải lùi lại. Lúc này, câu châm ngôn của bố mẹ tôi văng vẳng bên tai: “Hãy sống cho hiện tại và tương lai sẽ đến”. Bản năng của tôi về việc tiếp tục tham gia vào Virgin Music và mua cổ phiếu Thorn EMI được thôi thúc bằng nhu cầu về an toàn tài chính. John Thornton, người đã ủng hộ tôi mua cổ phiếu không hiểu bức tranh toàn cảnh, và Peter Gabriel, người đã tranh luận rằng tôi không nên mua cổ phiếu cũng thế. Do đó, để Virgin Music lại phía sau, tôi nhấc điện thoại lên và gọi cho John Thornton đang ở Goldman Sachs.
“Tôi sẽ lấy tiền mặt” – Tôi nói, “tôi sẽ để lại cho anh toàn bộ”.
“Được thôi” – Anh ta nói. “Luật sư đang làm những thủ tục cuối cùng. Tôi sẽ gọi cho anh sau.”
Mặc dù tôi đã cứu được hãng hàng không, nhưng tôi cảm thấy tôi đã giết chết một thứ gì đó trong tôi. Nhìn Simon và Ken, tôi thấy buồn vì chúng tôi giờ đã mỗi người một hướng.
Theo cách nào đó thì tôi mừng nhất cho Ken: Anh sẽ ở lại Virgin với EMI, và sẽ sớm phát hành bản thu âm của Janet Jackson và The Rolling Stones. Tôi không biết Simon sẽ làm gì, những tôi nghĩ rằng anh ấy sẽ hưởng thụ một cuộc sống yên tĩnh. Tôi đã biết rằng ngay khi Virgin Music biến mất, tôi sẽ ra đi và chiến đấu đến cùng với British Airways. Tôi không nhớ nổi chúng tôi đã đối đầu nhau bao nhiêu lần và tôi bắt đầu cảm thấy mệt mỏi vô cùng.
Chúng tôi phải chờ trước khi ký hợp đồng vì Fujisankei, người chiếm giữ 25% cổ phiếu, có một điều khoản phù hợp với tất cả các đề xuất dành cho Virgin Music. Chúng tôi cũng phải quyết định liệu có nên chấp nhận lời đề nghị về 510 triệu bảng tiền mặt của Thorn EMI hay không và trả món nợ 50 triệu bảng của Virgin; hoặc nhận 500 triệu bảng tiền mặt và phải trả số nợ trong vòng 4 tuần cho dù số tiền nợ đó lớn đến bao nhiêu đi nữa. Mặc dù chúng tôi phải tiếp tục điều hành Virgin Music như bình thường, nhưng Ken cảm thấy chắc chắn rằng nếu kết thúc mọi việc thì số tiền nợ sẽ lớn hơn.
“Hiện tại một số công việc kinh doanh đang tiến triển tốt” – Anh nói. “Hãy lấy hết số tiền đó đi”.
Và chúng tôi chọn 510 triệu bảng cộng với 50 triệu bảng tiền nợ ở Virgin Music. Trong trường hợp Ken đúng (như mọi lần), thì chúng tôi kiếm được thêm 10 triệu bảng theo cách này. Trong lúc đó, chúng tôi phải chờ đến tận 3 giờ sáng trước khi Fujisankei quyết định và lựa chọn tiền mặt của Thorn EMI. Chúng tôi ký hợp đồng vào lúc rạng sáng. Buổi sáng hôm sau, Thorn EMI thông báo rằng số tiền mua Virgin Music là 1 tỷ đô-la, hay 560 triệu bảng.
Simon, Ken và tôi đến gặp các nhân viên của chúng tôi tại Harro Road.
“Giống như kiểu bố mẹ mới qua đời vậy” – Simon nói với tôi khi chúng tôi bước vào.
“Anh nghĩ là chúng tôi đã có sự chuẩn bị cho việc này, nhưng khi nó xảy ra, anh nhận ra rằng anh hoàn toàn không thể đối mặt với nó được.”
Tôi cảm thấy chuyện này giống như sự ra đi vĩnh viễn của một đứa trẻ. Simon, Ken và tôi đã khởi nghiệp Virgin từ con số không, duy trì nó suốt một thời gian dài và khi nó dường như sắp sụp đổ, chúng tôi lại bắt đầu sáng tạo nó với từng thế hệ âm nhạc để nó tiếp tục trở thành một thương hiệu thu âm hấp dẫn nhất. Trong khi các thương hiệu khác như Apple vẫn còn biểu tượng hóa ban nhạc The Beatles và Abbey Road, Virgin đã nhảy vọt từ Mike Oldfield và Gong đến The Sex Pistol, sau đó là Boy George, tiếp đến là Phil Collins, Peter Gabriel, Bryan Ferry, Janet Jackson và The Rolling Stones. Trải qua thời đại của hippy, nhạc punk, làn sóng mới, gu thưởng thức của Simon trở nên thịnh hành và Ken đã giữ được mọi thứ với nhau.
Hiện giờ, Ken đã đứng dậy vào nói với mọi người rằng họ có thể trở thành một phần của Thorn EMI, và anh ấy sẽ ở lại với EMI để đảm bảo sự độc lập của Virgin. Simon đã bắt đầu nói nhưng thay vào đó lại òa khóc. Mọi người đều nhìn tôi. Tôi đứng dậy, và cũng suýt bật khóc. Điều này không hề tốt chút nào. Tôi đang rơi vào một hoàn cảnh không thể chịu đựng nổi. Tôi không thể nói với họ lý do thực sự tại sao công ty của họ lại bị bán. Nếu tôi nói với họ sự thật về thái độ của ngân hàng đối với Virgin Atlantic Challenger, tiếp đó là hãng hàng không và toàn bộ các công ty con của Virgin còn lại sẽ bị phá hủy do bị thiếu sự tín nhiệm. Các hãng hàng không đều được xây dựng dựa trên sự tín nhiệm, và sự thú nhận những điểm yếu có thể khiến hành khách hoảng sợ và bỏ đi. Và do đó, tôi thấy chán ghét bản thân vì đã nhận tiền, tôi đứng đó, đề nghị mọi người sang làm việc cho Virgin Atlantic Challenger nếu họ thấy không thoải mái với EMI, và đảm bảo rằng Ken sẽ để ý chăm sóc họ. Khi Jon Webster gửi lời cảm ơn đến tôi, Simon và Ken vì đã “đem đến cho anh những năm tháng tuyệt vời nhất trong cuộc đời”, tôi không thể chịu đựng hơn được nữa. Tôi rời khỏi căn phòng và chạy nhanh xuống Ladbroke Grove, nước mắt lăn dài trên má.
Tôi đã chạy bộ gần một dặm, không để ý tới những người qua đường đang nhìn tôi chằm chằm. Khi tôi lướt qua một sạp báo, tôi nhìn thấy tấm áp phích quảng cáo với tiêu đề “Evening Standard” (tiêu chuẩn ngang bằng), tấm áp phích quảng cáo này đáng lẽ phải lau khô những giọt nước mắt của một người đàn ông trưởng thành: Branson bán công ty với giá 560 triệu bảng tiền mặt”. Tôi chạy qua nó, nước mắt vẫn lăn dài trên má, và tôi trở về nhà. Joan không có nhà, nên tôi vào bếp và đun nước. Đó là một buổi sáng tháng Ba giá lạnh, nhưng những cây anh đào ở góc vườn và ở công viên Holland Park chỉ mới chớm nở hoa.
Khi tôi đứng nhìn ra ngoài, một con cáo đâm qua hàng rào và chạy nhanh tới cửa sau, nơi mà Joan đã để thức ăn thừa cho nó. Nó nhặt một cái xác của con gà và biến mất trong bụi rậm. Bức ảnh cuối cùng của Lord King mà tôi nhìn thấy là bức ảnh ông ta ngồi trên lưng ngựa, trông rực rỡ trong bộ dụng cụ đi săn.
“Cảm thấy hoàn toàn chán nản”, tôi viết trong cuốn sổ tay của mình về quyết định nhận tiền mặt thay vì cổ phần. “Đã quyết định đi theo con đường bảo thủ lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Tất cả những người cố vấn (trừ John Thornton) đều ủng hộ quyết định đó”.
Cũng như việc lấy thêm 10 triệu bảng bằng cách chọn nợ cố định, Ken cũng đem lại cho chúng tôi 9 triệu bảng tiền lãi nhờ việc chuyển tiền cho Fujisankei. Thorn EMI trả chúng tôi 510 triệu bảng tiền mặt, trong đó chúng tôi phải trả 127,5 triệu bảng cho Fujisankei.
Fujisankei muốn nhận tiền Yên nên chúng tôi phải đổi tiền. Chúng tôi có một tháng chiếu cố giữa việc nhận tiền và chuyển tiền, và phải hoàn thành vào ngày 1/6. Chúng tôi phải lựa chọn thời điểm để chuyển tiền sang đồng yên. Simon và Trevor muốn đổi tiền ngay lập tức để chúng tôi có thể biết được chúng tôi đang đứng ở đâu. Ken và tôi thì cảm thấy nhẹ nhàng hơn và muốn mạo hiểm với việc này. Chúng tôi giữ số tiền này bằng đồng bảng và thật là may mắn tỷ giá của đồng bảng so với đồng yên lại khá cao. Chúng tôi chờ đợi và đổi tiền vào phút cuối, kiếm được hơn 9 triệu bảng tiền lãi. Quả thật là may mắn.
Và khi cuộc khủng hoảng đã được giải quyết. Từ giá mua bằng tiền mặt ban đầu là 510 triệu bảng, Fujisankei nhận được 127,5 triệu bảng và chúng tôi nhận được hơn 390 triệu bảng. Simon và Ken nhận phần của mình và đi theo những con đường khác nhau. Tôi sử dụng phần tiền thu được để trả cho ngân hàng và đầu tư số tiền mặt còn lại vào Virgin Atlantic Challenger. Những tin đồn rằng Virgin Atlantic Challenger phải trả tiền mặt cho chi phí nhiên liệu đã chấm dứt. Chúng tôi có nhiều tiền mặt dự trữ sẵn hơn British Airways.
Ngay lập tức, các ngân hàng bắt đầu gọi cho tôi với một sự kiên nhẫn mới – họ không còn đòi chúng tôi trả tiền nữa vì chúng tôi đã trả nợ cho họ, nhưng họ đề nghị đưa quỹ của tôi vào tài khoản ủy thác với lãi suất cao hơn để đầu tư, mời tôi ăn trưa, kinh doanh với tôi và dĩ nhiên không nhận ra sự châm biếm mỉa mai ở đây – họ đề nghị cho tôi vay số tiền mà tôi cần để thực hiện các công việc làm ăn trong tương lai.
Mất một lúc tôi mới hiểu được hàm ý của việc bán hàng. Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi có đủ tiền để thực hiện những ước mơ điên cuồng của mình. Trước mắt, tôi không có thời gian để tập trung vào vấn đề này, vì mỗi tuần câu chuyện về British Airways lại có chuyển biến và chiếm hết tâm trí của tôi. Trên vài phương diện nào đó, tôi thấy hài lòng mình đã không có thời gian để nghĩ về việc bán Virgin Music. Tôi chán ghét việc cứ phải sống trong quá khứ. Đặc biệt, tôi không muốn nghĩ về những mối quan hệ bạn bè đã mất đi. Những gánh nặng đã được rũ bỏ khỏi vai tôi và sâu thẳm trong tâm trí, tôi nhận ra rằng Virgin Group giờ có thể tự do phát triển theo bất cứ hướng nào mà chúng tôi lựa chọn. Virgin Music có thể đã mất; Ken, Simon và tôi đã mỗi người mỗi hướng nhưng điều tốt nhất vừa mới đến.
“Penni” – Tôi nói, “xin cho tôi biết số điện thoại của Freddie Laker ở Miami” Tôi quay số.
“Freddie” – Tôi gọi. “Tôi là Richard đây. Tôi vừa quyết định hỏi ý kiến của anh: Tôi đang theo một vụ kiện”.
“Hãy tiếp tục đi” – Freddie nói.
Khi chúng tôi bắt đầu vụ kiện, điều duy nhất khiến tôi phải luôn ghi nhớ, đây là một vụ kiện danh dự, không phải là một vụ tranh luận về vấn đề làm ăn. Tôi cần phải lấy lại danh dự cho bản thân mình.
Sắp xếp những bằng chứng xảy ra theo ba giai đoạn: chúng tôi có tất cả chứng cứ mà chúng tôi biết; chúng tôi nhận được rất nhiều tài liệu từ British Airways dựa vào quy định tiết lộ thông tin hợp pháp; và chứng cứ lớn nhất là bắt nguồn từ những nhân viên bất mãn với British Airways. Đây là chứng cứ có sức mạnh lớn nhất.
Thật không ngờ, Gerrard nhận được cú điện thoại từ một nhân viên cũ của BA gọi cho Sadig Khalifa, người đã từng làm việc cho ngành công nghiệp hàng không từ năm 1974, khi anh là nhân viên của công ty British Calesonian ở Tripoli. Khi British Airways giành quyền quản lý B-Cal vào năm 1988, Khalifa gia nhập một hội thuộc BA được gọi là Dịch vụ đặc biệt chuyên giải quyết các vấn đề của hành khách. Vào năm 1989, anh bắt đầu công việc như người làm thủ tục tại Sân bay Gatwick và sau đó tham gia bộ phận Helpline có trách nhiệm gặp gỡ hành khách, giúp hành khách chuyển các chuyến bay và chăm sóc người già. Một hoạt động bí mật khác của nhóm này là cố gắng mua chuộc hành khách của các hãng hàng không khác. Có một nhóm tương tự như vậy ở Heathrow với tên gọi “Những kẻ săn mồi”.
Vào tháng 4/1990, nhóm Helpline do Bộ phận Bán hàng và đặt chỗ quản lý, có một ông chủ mới là Jeff Day bước vào văn phòng Helpline, thông báo với Khalifa và 15 nhân viên của anh ta rằng: “Tiền không thể kiếm được bằng việc giúp đỡ những người phụ nữ già.
Những gì mà các anh phải làm là đi ra ngoài và thu hút thêm hành khách từ những hãng hàng không khác.” Khalifa nói với Gerrard về cuộc họp lần thứ hai vào tháng Tám, cuộc họp mà Jeff Day nói rằng đó phải là một cuộc họp kín: không có ai ngoài nhân viên của Helpline được tham gia và nghe về cuộc họp này.
Trong cuộc họp này, Jeff Day nói với Khalifa và đồng nghiệp của anh rằng Helpline có một nhiệm vụ mới: thu thập càng nhiều thông tin về Virgin Atlantic Challenger càng tốt. Các thông tin này bao gồm thông tin về chuyến bay, số lượng hành khách đặt vé máy bay, số lượng hành khách thực lên máy bay, số hàng khách mua vé hạng thường và hạng thương gia, thời gian cất cánh. Vào cuối mỗi ca làm việc, nhân viên của Helpline phải điền vào một bảng thông tin về mỗi chuyến bay và chuyển chúng cho bà Sutton, rồi bà ấy sẽ chuyển nó cho Day. Vậy họ đã lấy thông tin bằng cách nào? Jeff Day nói với các nhân viên của Helpline rằng họ có thể lấy thông tin bằng cách sử dụng số chuyến bay của Virgin để tiếp cận trực tiếp đến hệ thống đặt vé của British Airways, đó là hệ thống BABS. Đây là điều mà họ đảm bảo với Virgin rằng Virgin không thể làm được. Khóa của phòng Helpline đã được đổi, và họ tiếp tục các công việc của họ trong bí mật. Một phụ nữ làm việc bên cạnh Khalifa từ chối tham gia vào công việc này vì nghĩ rằng đây là một hành động trái đạo đức, và các thành viên còn lại trong nhóm đã làm việc thay cho cô.
Gerrard nhận được một thông báo từ Khalifa và gửi đến cho British Airways. Thông báo đó đã trở thành một trong những phần chính của phiên tòa.
Ngay lập tức, sau khi luật sư của BA nhận được bản khai có tuyên thệ của Khalifa, tôi nhận được một cú điện thoại của Michael Davids – Giám đốc không điều hành của BA, và là người bạn lâu năm của bố mẹ tôi. Ông ấy muốn hẹn ăn sáng với tôi.
Sau cuộc họp, Michael bắt đầu nói về “sự xấu hổ”. Đây là cách nói bóng gió đầu tiên của lời xin lỗi. Rõ ràng là ông ta là một giám đốc không điều hành mà tôi có thể nói chuyện.
Lord King và ngài Colin Marshal không muốn hạ thấp bản thân mình và biết rằng trong lời buộc tội của tôi là có sự thật, nhưng Michael Davis – gia đình một người bạn – được xem như là người tìm ra kế hay nhất rằng BA có thể mắc một số lỗi nào đó.
“Tôi nghĩ ba chúng ta nên nói chuyện một chút” – Michael nói. “Một cuộc nói chuyện nho nhỏ giữa ba chúng ta – anh, tôi và ngài Colin”.
“Ngài Colin?”
“Đúng, ông ấy sẽ trở nên nổi bật trong 10 năm tới, anh thấy đấy. Thời của King đã hết; Marshall đã tồn tại quá lâu. Tôi nghĩ ba chúng ta nên có cuộc nói chuyện và xem chúng ta có thể tìm ra được điều gì không.”
Tôi nhìn Michael Davis đang cố tìm những từ thích hợp để dùng. Hiểu một cách sâu xa, anh ấy đang nói với tôi rằng những ngày của Lord King tại British Airways đã qua rồi.
“Anh thấy đấy, một số người nhất định ở British Airways nhận ra rằng có những điều xấu hổ nhất định” – Ông ta thú nhận. “Đúng là có những điều xấu hổ nhưng nếu chúng ta cứ tiếp tục có một mối quan hệ nhạy cảm trong tương lai thì tôi nghĩ rằng tôi, anh và ông Colin nên ngồi lại và nói chuyện với nhau.”
Khi tôi ngồi nghe giọng điệu tra tấn và nỗ lực của anh ta trong việc đề nghị tôi làm ăn, tôi nhận ra rằng tôi đang nghe ai đó nói chuyện về tiền và nghề nghiệp của một người khác. Michael Davis, ông Collin Marshall, Robert Ayling và Lord King sẽ được nhận lương bất kể họ đã gây dựng nên British Airways. Những người nắm giữ cổ phiếu của BA phải trả tiền cho Brian Basham, cho thám tử, cho luật sư khi tôi kiện họ. Có thể đây là một vụ đầu tư tốt: Nếu họ xoay sở tìm cách lật đổ Virgin Atlantic Challenger thì họ sẽ tốn rất nhiều tiền.
Nhưng ban đầu Virgin Atlantic Challenger là công ty của tôi. Đó là một công ty tư nhân và nếu BA cướp khách hạng thượng lưu bay đến New York thì Virgin sẽ mất 3.000 bảng:
3.000 bảng đó chúng tôi không thể tái đầu tư vào kinh doanh. Khác với BA, tôi không có nhiều tiền dự trữ để trả lương. Do đó, nói về “sự xấu hổ”, Michael Davis đã quên mất một điều: BA đã cố gắng rất nhiều để khiến công việc làm ăn của tôi thất bại và khiến cho nhân viên của tôi thất nghiệp. Họ đã ép tôi phải bán Virgin Music, việc này đã làm ảnh hưởng đến tất cả mọi người, những người không làm việc trong hãng hàng không. Điều này khiến tôi giận dữ. Tôi sẽ không ngồi yên và đồng ý rằng tất cả chỉ là “sự xấu hổ”.
Trong suốt toàn bộ quá trình những trò chơi khăm bẩn thỉu diễn ra, tôi đã bị coi là khờ dại: khờ dại khi tin rằng British Airways có thể cư xử theo cách đó, khờ dại khi nghĩ rằng British Airways sẽ chấm dứt cách cư xử đó, khờ dại khi tin rằng tôi có thể đưa British Airways ra tòa, khờ dại khi nghĩ rằng có giây phút nào đó tôi có thể thắng kiện. Từ “khờ dại” cứ vang lên trong đầu tôi và có lúc làm nhụt quyết tâm tiếp tục của tôi. Ông Michael Angus nói với Colin Southgate rằng tôi đã khờ dại khi chống lại BA “như trong tác phẩm Boy’s Own vậy”; Jeannie Davis nói với bố mẹ tôi rằng: “Ricky nên học cách chấp nhận những điều xấu và những điều tốt”; và thậm chí tất cả mọi người, như ngài John Egan khuyên tôi “không nên rung một cái cây trĩu đầy quả ngọt.” Có thể tôi đã khờ dại trong việc đấu tranh đòi sự công bằng mà tôi muốn; có thể đó là sự lý tưởng hóa; hoặc có thể tôi là kẻ cứng đầu. Nhưng tôi biết rằng những hành động của British Airways là trái pháp luật và tôi muốn được bồi thường. Tôi quyết tâm làm cho tất cả những người nói tôi là khờ dại phải rút lại lời nhận xét đó.
Tôi gọi cho Gerreard Tyrrell sau bữa sáng và nói cho anh ấy biết rằng Michael Davis nhiệt tình và có sức thuyết phục như thế nào.
“Vớ vẩn” – Anh đáp lại tôi, “BA có cơ hội để làm lại nhưng họ đã không làm vậy. Đó chỉ vì luật sư của họ thấy được sự phạm pháp và họ đang bị ép phải xử lý”.
Tôi chưa bao giờ thấy Gerrard tức giận đến vậy.
“Anh sẽ không bao giờ có một cơ hội tốt hơn để vạch trần sự thật này đâu” – Anh tiếp tục, “đừng lùi bước”.
“Tôi chỉ thử anh thôi” – Tôi trả lời anh, “dĩ nhiên là tôi sẽ không lùi bước”.
Tuần tiếp đó tôi gặp George Carman, vị luật sư tài ba của chúng tôi, một người đang chuẩn bị vụ kiện cho chúng tôi. Với mái tóc trắng và phong thái hoàn hảo, George dường như là một người chú được mọi người yêu quí sau các vụ kiện. Ông ấy có sự tinh tế, sự ngoan cường và bản năng săn mồi của một con bọ ngựa đang cầu nguyện. Mọi người cố tránh xa ông ấy.
“Anh nghĩ thế nào về lời phát biểu mở đầu của tôi?” – George hỏi tôi. “Hãng hàng không được ưa thích của thế giới đã không còn được ưa thích. Đó gọi là ‘xé vụn những tài liệu đáng tin để khiến người ta hiểu sai’”.
Tôi gọi cho Michael Davis và nói với anh rằng tôi không thể đồng ý để những lời buộc tội của tôi trôi vào quên lãng. Vụ kiện dự kiến được bắt đầu vào tháng Một và các giám đốc của British Airways cần phải được George Carman xem xét lại. Tôi không cần phải kể là Geroge đã hứng thú với vụ kiện này như thế nào. Tỏ ra rất nghiêm túc về viễn cảnh này, Micheal Davis tắt máy điện thoại.
Nhưng giờ tôi cảm thấy tự tin rằng chúng tôi có thể đánh bại BA. Không chỉ có tôi phát hiện ra những mánh khóe bẩn thỉu, mà chúng tôi còn tìm ra những thông tin chi tiết về các hoạt động bí mật của BA.
Một người nào đó liên lạc với tôi tại văn phòng và nói rằng anh ta có một số thông tin về những hoạt động bí mật của BA liên quan đến nhiều thám tử tư. Anh ta nói rằng hiện đang có một đĩa máy tính có lưu lại các thông tin hoạt động mà các thám tử tư đã thực hiện. Anh ta khăng khăng muốn gặp riêng tôi trước khi anh ấy giao chiếc đĩa.
Tôi cảm thấy hơi lạ khi tôi lên xe cùng với trợ lý của tôi – Julia Madona. Có lẽ vì thực ra tôi có đeo một chiếc micro giấu ở trong quần để có thể ghi âm cuộc nói chuyện. Tôi biết tầm quan trọng của cuốn băng ghi lại cuộc nói chuyện giữa Brian Basham và Chris Hutchins, cho nên tôi không định bỏ qua cơ hội đó trong cuộc gặp gỡ này. Khi tôi thành lập Virgin Atlantic Challenger, tôi không nghĩ rằng có ngày tôi phải sử dụng đến cách của James Bond để vận hành nó.
Tôi ghi vội vào cuốn sổ tay của mình những gì chúng tôi đã nói chuyện:
“Cố gắng tìm ra những gì chúng tôi muốn nhưng không muốn để lại ấn tượng. Không phải ở cấp độ của Lord King… Cẩn thận đừng để bị mình bị phát hiện là đang điều tra, hãy phòng thủ.”
Quan trọng hơn cả, người liên lạc với tôi đã đưa cho chúng tôi chiếc đĩa. Khi tôi in nó ra, nó chứa đựng những điều bí mật. Các thám tử tư đã giấu những điều cực kỳ bí mật về những gì họ định làm và những người họ báo cáo tại British Airways. Nhóm đó đã hoạt động dưới cái tên “Covent Garden”. Trong phần đầu, ngày 30/11/1991, có viết “Báo cáo của Dự án Barbara được nhìn thấy trong văn phòng của S1 tại Enserch House [trụ sở chính của BA tại trung tâm London]. “S1” trở thành biệt danh của David Burnside, và “Dự án Barbara” chính là báo cáo về Virgin mà Basham đưa cho Chris Hutchins.
Hầu hết bộ phận quản lý cấp cao của BA đều được đặt biệt danh, nhưng họ lấy tên bằng cả chữ cái và số nên tên thật của họ không bao giờ xuất hiện trên giấy tờ. Tôi thấy khá dễ dàng phát hiện ra biệt danh đó là dành cho ai: Lord King là “LK” hoặc “C1”; Colin Marshall là “C2”; và Basham là “S2”,còn một số tên khác như “R1” và “R2” thì chúng tôi không biết. Họ trở thành những thám tử tư, Nick Del Rosso và Tom Crowley, những người đứng đầu nhóm dưới chiêu bài cố gắng tìm ra gián điệp bên trong BA thì đang tuồn thông tin cho chúng tôi. Covent Garden là do Ian Johnson Associates, một “nhà tư vấn quản lý rủi ro quốc tế” điều hành. Thông tin trong chiếc đĩa chỉ ra cách Johnson và Del Rosso hướng dẫn giám đốc rủi ro của BA là David Hyde và giám đốc pháp lý là Mervyn Walker cách vận hành của Covent Garden. Chiếc đĩa này cũng ghi lại những cuộc họp giữa Robert Ayling và Colin Marshall.
Chiếc đĩa chứa đựng những thông tin bất ngờ về cách nhóm thám tử thuyết phục các nhà quản lý cấp cao của BA rằng chúng ta đang thực hiện một công việc chống lại BA. Số tiền ước tính chi tiêu vào công việc không hề tồn tại này là 400 nghìn bảng. Sau đó, chúng tôi thấy rằng BA chi 15 nghìn bảng mỗi tuần cho Covent Garden.
Sự vô lý của công việc đó bị bại lộ sau khi những thông tin về cách mà các thám tử theo dõi khách sạn Tickled Trout ở Lancashier bằng máy quay phim và thiết bị thu âm bí mật được tiết lộ. Ý tưởng thu âm cuộc trò chuyện gặp gỡ giữa Burnside và một “công ty” mà Covent Garden đã thuyết phục đã có tác dụng đối với Virgin. Đoạn băng đã cho thấy kế hoạch của họ đã thất bại như thế nào khi Burnside bị lộ trong lúc bật thiết bị nghe trộm của mình. Đáng lẽ tôi đã có thể xóa mọi rắc rối của BA: tôi chưa bao giờ thuê thám tử và sẽ không bao giờ. Đó không phải là cách mà tôi và Virgin làm việc.
Khi xem xong cuốn băng về Covent Garden, tôi cảm thấy như thể mình vừa quay trở về từ một thế giới tương tự – một thế giới được tạo ra từ trí tưởng tượng của những người tham gia vào kế hoạch bí mật và ban quản lý cấp cao được BA thuê với giá hàng nghìn bảng. Tôi thực sự bắt đầu trông chờ vụ xét xử về tội bôi nhọ danh dự, vụ kiện được báo trước là “mẹ của những vụ xử về tội bôi nhọ”.
Ngày 7/12/1992
“BA đã bị sụp đổ” – George Carman nói với tôi. “Hôm nay họ phải trả gần nửa triệu bảng cho vụ kiện, chính xác là 485 bảng. Họ vừa thú nhận là họ có tội.”
Sau đó chúng tôi phát hiện ra rằng chỉ ngay trước khi phiên tòa bắt đầu, các luật sư của BA nói rằng họ không có hy vọng giành thắng lợi. Nếu họ không muốn bị bẽ mặt khi phải đứng trong hàng ghế nhân chứng và bị George Carman thẩm vấn cũng như phải chứng kiến tất cả các hành động của mình được đăng trên trang nhất, thì sự lựa chọn duy nhất của họ là trả tiền cho tòa án và bắt đầu thương lượng để không phải ra hầu tòa.
Ban đầu, tôi nghĩ rằng liệu mình có nên chấp nhận việc BA trả tiền hay không. Tôi vô tội, và chúng tôi có thể đưa tất cả các giám đốc của BA ra tòa và hủy hoại họ. Nhưng sau khi thảo luận, chúng tôi nhận ra rằng mặc dù việc đó cũng hay nhưng nó có thể được coi là một việc làm không hề khoan dung và đầy mạo hiểm.
“Ông cũng nhớ là vì sao ông lại khởi kiện chứ” – George Carman nói với tôi. “Ông muốn chấm dứt tất cả những mánh khóe bẩn thỉu và ông muốn rửa sạch thanh danh của mình. BA đã thú nhận rằng ông hoàn toàn đúng. Thanh danh của ông đã được rửa sạch”.
“Nếu ông vẫn muốn tiếp tục phiên tòa thì sẽ có hai việc xấu xảy ra. Hội đồng xét xử sẽ bồi thường thiệt hại cho ông nhưng họ có thể sẽ nghĩ rằng ông là một người giàu có và ông không cần đến 500 nghìn bảng và chỉ trả cho ông 250 nghìn bảng. Đó có thể được coi là một sự thất bại dành cho ông và phần thắng thuộc về British Airways. Nếu hội đồng xét xử thanh toán ông một khoản tiền ít hơn khoản tiền mà Brtish Airways đã trả cho tòa án thì ông sẽ phải trả cho cả hai loại chi phí đó. Do đó, ông có thể thắng kiện nhưng lại mất nhiều tiền, và mọi người sẽ thắc mắc tại sao Virgin Atlantic Challenger lại phải trả 3 triệu bảng.”
Điều cuối cùng mà George khuyên rất thuyết phục. Mặc dù theo một cách nào đó, các quyết định của tôi nhằm giải quyết vụ kiện có thể đang dần hạ nhiệt, và chúng tôi không thấy thỏa mãn khi nhìn George Carman thẩm vấn các giám đốc, và bằng cách chấp nhận việc BA trả tiền, chúng tôi đã thắng hoàn toàn mà không có rủi ro và chúng tôi hoàn toàn tự do để tiếp tục công việc kinh doanh của mình.
“Vậy bây giờ chúng tôi phải làm gì?” – Tôi hỏi.
“Chúng ta có 21 ngày để lấy tiền ra khỏi tòa án nếu chúng ta chấp nhận”. “Thế thì chúng tôi sẽ làm”.
“Lord, không được” – George nói, trông có vẻ hoang mang. “Tôi sẽ không chấp nhận. Tôi sẽ bắt họ phải trả cho chúng tôi ít nhất là 600 nghìn bảng. Nếu họ đã sẵn sàng trả 485 nghìn bảng thì họ hoàn toàn có thể trả số tiền 600 nghìn. Cứ mỗi 100 nghìn bảng thiếu thì tiêu đề trên báo sẽ to lên.
George dành cả một tuần để thương lượng về số tiền. Ngày 11/12/1992, chúng tôi đồng ý với điều khoản thanh toán vì tội bôi nhọ danh tiếng cao nhất từ trước đến nay trong lịch sử của nước Anh: 500 nghìn bảng cho tôi để bồi thường vì đã bôi nhọ danh dự của tôi và 110 nghìn bảng cho Virgin Atlantic Challenger để bồi thường vì đã bội nhọ danh dự của công ty.
Ngày 11/1/1993
“VIRGIN XỬ LÝ BA” là tiêu đề của tờ Sun’s. Và bài báo này chiếm hết trang đầu.
“Tôi thích cách diễn đạt khác cơ” – Kebin MacKenzie, biên tập viên tờ Sun’s nói với tôi, “tôi có thể viết một cái tiêu đề hay hơn.”
Tôi đang ở trong phòng của Geroge Carman cùng với Gerrard Tyrrell và bố tôi, người tôi đã chia sẻ sự chiến thắng. Tôi đi một vòng quanh High Court ở Strand và chen lấn với rất nhiều phóng viên ở ngoài. Hành lang ở phía ngoài tòa số 11, nơi mọi người có thể nghe ngóng tình hình đang rất đông đúc. Trong tòa án thì rất yên tĩnh. Mọi người nhận thấy: Lord King, ngài Colin Marshall và Robert Ayling, ba người ủng hộ chính cho British Airway không có ở đó. David Burnside vắng mặt, Brian Basham đi nước ngoài, nhưng luật sư của ông ấy vẫn đang thực hiện những cố gắng cuối cùng để nhấc tên ông ấy ra khỏi danh sách xin lỗi. Quan tòa lắng nghe lời bào chữa và sau đó yêu cầu British Airways thảo luận ý kiến của mình. Họ đồng ý với Virgin rằng tên của Brian Basham nên nằm trong danh sách xin lỗi. Quan tòa quyết định rằng danh sách xin lỗi phải được giữ nguyên như trước.
George Carman đứng dậy và đọc bản tuyên bố đã được các bên đồng ý. Khi anh ấy đọc đến đoạn cuối, cả phiên tòa trở nên yên lặng:
British Airways và Lord King đã hoàn toàn chấp nhận rằng những lời buộc tội họ đưa ra để chống lại sự thật và tính chính trực của Richard Branson và Virgin Atlantic Challenger là hoàn toàn không đúng. Họ cũng đồng ý rằng những cáo buộc của Richard Branson và Virgin về những hoạt động của các thành viên trong British Airways, của ông Basham, gây ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh và danh tiếng của Virgin Atlantic Challenger và Richard Branson là có cơ sở. Trong những trường hợp này, British Airways và Lord King đứng trước phiên tòa để xin lỗi và trả một khoản tiền cho bên nguyên đơn như là một khoản bồi thường cho sự hủy hoại thanh danh và đẩy bên nguyên đơn vào tình cảnh khó khăn do bị buộc tội sai. Họ cũng tìm cách rút lại kháng cáo chống lại Virgin Atlantic Challenger và Richard Branson.
Bên cạnh đó, British Airways và Lord King đã đồng ý trả Richard Branson và Virgin Atlantic Challenger khoản phí pháp lý kiện tụng, kháng cáo và cam kết không nhắc lại lời buộc tội gây mất danh dự, cốt lõi của vấn đề này…
George Carman dừng lại và lấy hơi. Phiên tòa như ngừng lại.
…British Airways và Lord King sẽ trả cho Richard Branson 500 nghìn bảng đền bù thiệt hại và trả 110 nghìn bảng cho những thiệt hại gây ra đối với Virgin Atlantic Challenger…
George lên giọng để tất cả mọi người có thể nghe thấy khi phiên tòa bỗng trở nên ồn ào:
…Qua lời xin lỗi chân thành và bằng việc được đền bù cho những thiệt hại, Richard Branson và Virgin Airways xem như danh tiếng của họ đã được rửa sạch qua việc dàn xếp ổn thỏa vụ rắc rối này.
Tôi nhìn thấy nước mắt bố tôi lăn trên má ông khi ông nghe đọc bản tuyên bố. Ông lôi chiếc khăn tay to ở trong túi áo ngực để lau nước mắt. Tôi nắm chặt tay ở dưới bàn để ngăn bản thân mình không nhảy lên.
Có một điểm rất mẫu thuẫn trong lời xin lỗi của British Airways, mặc dù đã xin lỗi nhưng họ vẫn tiếp tục bào chữa cho mình:
Cuộc điều tra mà British Airways đã thực hiện trong suốt thời gian xảy ra vụ kiện tụng này đã hé lộ một số sự tình cờ liên quan đến những nhân viên của British Airways mà hãng hàng không này cho là đáng tiếc và đã cung cấp cho Richard Branson cũng như Virgin Atlantic Challenger những căn cứ hợp lý. Tuy nhiên, tôi nhấn mạnh rằng các giám đốc của British Airways không tham gia vào bất cứ chiến dịch nào chống lại Richard Branson và Virgin Atlantic Challenger” – Nhóm luật sư của họ nói.
Nhiều người trong phiên tòa đã tỏ ý nhạo báng. Đó là khi British Airways từ chối nói lời xin lỗi.
“Cứ để họ làm như vậy đi” – Gerorge Carman khuyên tôi. “Mọi người sẽ thấy rõ điều đó có ý nghĩa gì. Chúng ta còn chưa nghe thấy phần cuối của từ ‘âm mưu.’”
Sau đó, với sự đồng ý của quan tòa, luật sư của ngài Basham đứng dậy và chỉ ra rằng khách hàng của ông không chấp nhận sự liên quan của ông ta được đề cập ở trên là một lời kết luận đúng đối với những hành động của ông đại diện cho BA.
Ở bên ngoài, đám nhà báo và phóng viên chen lấn nhau, tôi giơ cả hai tay lên và vẫy trong chiến thắng.
Tôi nói: “Tôi chấp nhận phần thưởng này không chỉ cho Virgin mà còn cho cả những hãng hàng không khác như Laker, Dan Air, Air Europe và B-Cal. Họ đã từng trải qua cảnh ngộ như chúng tôi và chúng tôi đã chiến thắng British Airways.”
Chúng tôi trở về Holland Park và bữa tiệc bắt đầu. Tôi quyết định chia 500 nghìn bảng tiền đền bù thiệt hại cho nhân viên của Virgin Atlantic Challenger để thưởng cho những gì họ đã trải qua sau những áp lực mà Brtish Airways đã đè nén và họ đã phải nhận lương ít hơn còn phần thưởng thì bị cắt giảm. Chương trình ti vi được bật lên ở trong góc, các tin truyền hình đều đưa tin về chiến thắng của Virgin như là chuyên mục chính trong ngày.
Thậm chí, ITN còn phỏng vấn Sadig Khlifa và Yvone Parson. Buổi tiệc tạm dừng để chúc mừng họ trong chốc lát rồi lại tiếp tục.
Sau đó, khi tôi đang nói chuyện với một người nào đó thì cơn sóng mệt mỏi ập đến. Khi tôi nhận ra rằng chúng tôi đã thắng, Tất cả căng thẳng đã được giải tỏa; tôi cười với một nụ cười hạnh phúc, mãn nguyện, ngả người sang một bên và ngủ say.
Tháng Ba năm 1992 – Tháng Một năm 1993
Trên bàn có 560 triệu bảng, tương đương với một tỷ đô-la, nhưng tôi không cần số tiền
“Đến 2 giờ chiều nay là họ cần phải biết” – John Thornton nói với tôi. Tôi đặt điện thoại xuống, nhìn sang Simon và Ken. Trong 20 năm qua, chúng tôi đã cùng nhau xây dựng công ty nhưng chúng tôi chưa sẵn sàng để bán nó.
Theo nhiều cách thì việc ký hợp đồng với The Rolling Stones là thứ mà tôi muốn làm nhất ở Virgin Music. Chúng tôi đã chiến đấu để ký hợp đồng với họ trong 20 năm, và bây giờ chúng tôi đã có ban nhạc Rock n’Roll lớn nhất trên thế giới cho nhãn hiệu của riêng mình. Từ khi còn là một nhãn nhiệu mới, bắt đầu vào năm 1973, chúng tôi còn phải dựa vào người anh hùng Mike Oldfield, giờ đây chúng tôi đã trưởng thành: Hiện chúng tôi là thương hiệu được nhiều ban nhạc trên thế giới lựa chọn. Các nghệ sĩ đã xem cách chúng tôi bắt đầu sự nghiệp solo của Phil Collin như thế nào, và cách chúng tôi quảng bá tên tuổi của UB40 và Simple Minds, những gì chúng tôi có thể làm với Culture Club và Peter Gabriel, và họ muốn ký hợp đồng với chúng tôi. Nhưng, khi chúng tôi vừa chạm tới đỉnh cao của sự nghiệp thì mọi thứ đã kết thúc.
“Ken à?” – Tôi hỏi.
“Điện thoại của anh đấy” – Anh ấy nói. “Simon à?”
“Chuẩn bị tiền mặt đi. Anh không có sự lựa chọn đâu”.
Bất cứ khi nào có ai đó nói với tôi rằng tôi không có sự lựa chọn, tôi đều cố gắng chứng minh rằng họ đã sai. Trong suốt mấy ngày qua, lời đề nghị của Thorn EMI đã thay đổi, từ lời đề nghị chia đều tất cả, và tôi sẽ là cổ đông lớn nhất của Thorn EMI với 14% cổ phần, hoặc nhận tiền mặt ít hơn, thành đề nghị trả tiền mặt cao hơn. Cho dù Thorn đã thay đổi chiến thuật và đề nghị trả tiền mặt nhiều hơn là cổ phiếu, tôi vẫn thích trao đổi cổ phiếu hơn vì điều đó có nghĩa là tôi có thể giữ một phần trong Thorn EMI mà tôi có thể sử dụng trong tương lai như là một nền tảng để đấu giá công ty. Điều khó khăn là mọi người đều cho rằng tôi quá mạo hiểm khi giữ cổ phần như một sự đảm bảo để mượn thêm tiền hỗ trợ Virgin Atlantic Challenger. Cổ phần trong Thorn EMI không được nhìn nhận như một khoản bảo đảm chắc chắn. Mặc dù tôi cũng đã thảo một bức thư gửi cho các nhân viên giải thích rằng tôi sẽ nhận một phần cổ phiếu Thorn EMI và giữ lãi ở công ty, tôi buộc phải thay đổi ý kiến và đồng ý với lời đề nghị trả tiền mặt.
Trước khi đồng ý, tôi gọi Peter Gabriel và thông báo cho anh ấy biết. Tôi muốn nghe lời khuyên của anh ấy và tôi cũng đã nhận ra rằng việc mua bán này sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp của anh ấy.
“Đừng làm như thế, Richard!” – Anh ấy nói. “Một đêm nào đó anh sẽ tỉnh dậy, vã mồ hôi và ước rằng anh chưa bao giờ làm như vậy. Anh sẽ không bao giờ lấy lại được nó đâu”.
Tôi biết rằng anh ấy nói đúng. Đó chính là những gì Joan đã nói. Nhưng áp lực từ BA là quá lớn. Giờ đây tôi cảm thấy chắc chắn rằng Lloyds đang tước quyền sở hữu của chúng tôi và chúng tôi không có sự lựa chọn. Tôi cũng biết rằng Simon muốn bán, và anh ấy muốn lấy tiền mặt hơn là kéo dài việc tham gia vào tập đoàn bằng cách nhận cổ phiếu. Nếu nhận cổ phiếu của Thorn EMI thì sẽ kéo dài tình trạng thê thảm của Virgin Atlantic Challenger, rồi việc đó sẽ đánh bại tất cả các lý luận khác. Mục tiêu quan trọng hơn cả là bảo toàn Virgin Atlantic Challenger khỏi lý do duy nhất mà tôi bán Virgin Music là vì nó quá thành công. Nếu tôi bán Virgin Music, thì thương hiệu Virgin sẽ được bảo toàn. Thay vì có một hãng hàng không đang phải xoay sở với khó khăn và một công ty thu âm, chúng tôi có thể có một hãng hàng không được bảo toàn và một công ty thu âm được bảo toàn cho dù công ty đó do Thorn EMI làm chủ. Mặc dù biết rằng Simon có thể sẽ rời bỏ công ty, tôi có thể ở lại với tư cách là giám đốc của công ty. Quan trọng nhất là Ken vẫn tiếp tục điều hành Virgin ngay trong Thorn, và anh sẽ bảo vệ danh tiếng của Virgin.
Tôi gọi cho Trevor, người xác nhận dòng thông tin sau của ngân hàng:
“Tiền mặt là sự lựa chọn duy nhất” – Anh nói với tôi. “Điều này có nghĩa là chúng ta có thể trả toàn bộ số nợ và bắt đầu lại từ đầu. Điều này sẽ đem lại cho anh sự tự do hoàn toàn. Và khi nghĩ về cổ phiếu của Thorn, hãy nhớ đến những gì đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng thị trường cổ phiếu.”
Điều đó khiến tôi đưa ra quyết định. Nếu tôi chiếm giữ cổ phiếu Thorn và chúng rớt giá trầm trọng thì tôi sẽ không đủ sức để ngăn cản ngân hàng vào cuộc. Ông Freddie Laker đã gợi tôi nhớ rằng nếu mọi việc diễn ra nhanh như thế nào và nó khiến bạn thất bại nhanh chóng. Gần giống như Virgin, hãng hàng không của ông đã đấu tranh với British Airways trong một thời gian dài và khi ông cần sự hỗ trợ thì các ngân hàng lại cố siết nợ. Ông đã được mời đến các ngân hàng, hy vọng họ sẽ đồng ý với một số tiền chi trội hơi tăng bởi cuộc khủng hoảng bất ngờ trong năm tiếp theo, nhưng khi ông đến thì ông được dẫn vào một căn phòng bên cạnh. 30 phút đầu không có ai đến. Cuối cùng, ông cố gắng liên lạc với giám đốc ngân hàng và được ông ta mời sang một căn phòng khác. Lúc ông bước vào, nhìn gương mặt họ, ông nhận ra rằng có điều gì đó thật kinh khủng đã xảy ra.
“Chúng tôi vừa chiếm giữ tài sản của Laker Airways” – Họ nói.
Tất cả đã kết thúc. Ông Freddie chẳng là gì để có thể ngăn cản, người nắm giữ tài sản sa thải các nhân viên, đổi chìa khóa của công ty, tịch thu tất cả tài sản của công ty, bỏ mặc các hành khách và giữ các máy bay. Khu vực làm thủ tục của Laker tại Gatwick biến mất sau một đêm và khu vực bán vé dừng việc đặt vé. Điện thoại bị rút ra và công việc của cả cuộc đời biến mất trong sáu tiếng đồng hồ. Chính nhờ kinh nghiệm của Freddie, tôi đã không đẩy các ngân hàng đi quá xa. Một khi tôi đánh mất quyền kiểm soát vào tay họ thì Virgin Atlantic Challenger sẽ biến mất. Có một điều an ủi là một triệu đô-la đã nằm ở trên bàn.
Tôi ngoan cố nhận ra rằng đây là thời điểm phải lùi lại. Lúc này, câu châm ngôn của bố mẹ tôi văng vẳng bên tai: “Hãy sống cho hiện tại và tương lai sẽ đến”. Bản năng của tôi về việc tiếp tục tham gia vào Virgin Music và mua cổ phiếu Thorn EMI được thôi thúc bằng nhu cầu về an toàn tài chính. John Thornton, người đã ủng hộ tôi mua cổ phiếu không hiểu bức tranh toàn cảnh, và Peter Gabriel, người đã tranh luận rằng tôi không nên mua cổ phiếu cũng thế. Do đó, để Virgin Music lại phía sau, tôi nhấc điện thoại lên và gọi cho John Thornton đang ở Goldman Sachs.
“Tôi sẽ lấy tiền mặt” – Tôi nói, “tôi sẽ để lại cho anh toàn bộ”.
“Được thôi” – Anh ta nói. “Luật sư đang làm những thủ tục cuối cùng. Tôi sẽ gọi cho anh sau.”
Mặc dù tôi đã cứu được hãng hàng không, nhưng tôi cảm thấy tôi đã giết chết một thứ gì đó trong tôi. Nhìn Simon và Ken, tôi thấy buồn vì chúng tôi giờ đã mỗi người một hướng.
Theo cách nào đó thì tôi mừng nhất cho Ken: Anh sẽ ở lại Virgin với EMI, và sẽ sớm phát hành bản thu âm của Janet Jackson và The Rolling Stones. Tôi không biết Simon sẽ làm gì, những tôi nghĩ rằng anh ấy sẽ hưởng thụ một cuộc sống yên tĩnh. Tôi đã biết rằng ngay khi Virgin Music biến mất, tôi sẽ ra đi và chiến đấu đến cùng với British Airways. Tôi không nhớ nổi chúng tôi đã đối đầu nhau bao nhiêu lần và tôi bắt đầu cảm thấy mệt mỏi vô cùng.
Chúng tôi phải chờ trước khi ký hợp đồng vì Fujisankei, người chiếm giữ 25% cổ phiếu, có một điều khoản phù hợp với tất cả các đề xuất dành cho Virgin Music. Chúng tôi cũng phải quyết định liệu có nên chấp nhận lời đề nghị về 510 triệu bảng tiền mặt của Thorn EMI hay không và trả món nợ 50 triệu bảng của Virgin; hoặc nhận 500 triệu bảng tiền mặt và phải trả số nợ trong vòng 4 tuần cho dù số tiền nợ đó lớn đến bao nhiêu đi nữa. Mặc dù chúng tôi phải tiếp tục điều hành Virgin Music như bình thường, nhưng Ken cảm thấy chắc chắn rằng nếu kết thúc mọi việc thì số tiền nợ sẽ lớn hơn.
“Hiện tại một số công việc kinh doanh đang tiến triển tốt” – Anh nói. “Hãy lấy hết số tiền đó đi”.
Và chúng tôi chọn 510 triệu bảng cộng với 50 triệu bảng tiền nợ ở Virgin Music. Trong trường hợp Ken đúng (như mọi lần), thì chúng tôi kiếm được thêm 10 triệu bảng theo cách này. Trong lúc đó, chúng tôi phải chờ đến tận 3 giờ sáng trước khi Fujisankei quyết định và lựa chọn tiền mặt của Thorn EMI. Chúng tôi ký hợp đồng vào lúc rạng sáng. Buổi sáng hôm sau, Thorn EMI thông báo rằng số tiền mua Virgin Music là 1 tỷ đô-la, hay 560 triệu bảng.
Simon, Ken và tôi đến gặp các nhân viên của chúng tôi tại Harro Road.
“Giống như kiểu bố mẹ mới qua đời vậy” – Simon nói với tôi khi chúng tôi bước vào.
“Anh nghĩ là chúng tôi đã có sự chuẩn bị cho việc này, nhưng khi nó xảy ra, anh nhận ra rằng anh hoàn toàn không thể đối mặt với nó được.”
Tôi cảm thấy chuyện này giống như sự ra đi vĩnh viễn của một đứa trẻ. Simon, Ken và tôi đã khởi nghiệp Virgin từ con số không, duy trì nó suốt một thời gian dài và khi nó dường như sắp sụp đổ, chúng tôi lại bắt đầu sáng tạo nó với từng thế hệ âm nhạc để nó tiếp tục trở thành một thương hiệu thu âm hấp dẫn nhất. Trong khi các thương hiệu khác như Apple vẫn còn biểu tượng hóa ban nhạc The Beatles và Abbey Road, Virgin đã nhảy vọt từ Mike Oldfield và Gong đến The Sex Pistol, sau đó là Boy George, tiếp đến là Phil Collins, Peter Gabriel, Bryan Ferry, Janet Jackson và The Rolling Stones. Trải qua thời đại của hippy, nhạc punk, làn sóng mới, gu thưởng thức của Simon trở nên thịnh hành và Ken đã giữ được mọi thứ với nhau.
Hiện giờ, Ken đã đứng dậy vào nói với mọi người rằng họ có thể trở thành một phần của Thorn EMI, và anh ấy sẽ ở lại với EMI để đảm bảo sự độc lập của Virgin. Simon đã bắt đầu nói nhưng thay vào đó lại òa khóc. Mọi người đều nhìn tôi. Tôi đứng dậy, và cũng suýt bật khóc. Điều này không hề tốt chút nào. Tôi đang rơi vào một hoàn cảnh không thể chịu đựng nổi. Tôi không thể nói với họ lý do thực sự tại sao công ty của họ lại bị bán. Nếu tôi nói với họ sự thật về thái độ của ngân hàng đối với Virgin Atlantic Challenger, tiếp đó là hãng hàng không và toàn bộ các công ty con của Virgin còn lại sẽ bị phá hủy do bị thiếu sự tín nhiệm. Các hãng hàng không đều được xây dựng dựa trên sự tín nhiệm, và sự thú nhận những điểm yếu có thể khiến hành khách hoảng sợ và bỏ đi. Và do đó, tôi thấy chán ghét bản thân vì đã nhận tiền, tôi đứng đó, đề nghị mọi người sang làm việc cho Virgin Atlantic Challenger nếu họ thấy không thoải mái với EMI, và đảm bảo rằng Ken sẽ để ý chăm sóc họ. Khi Jon Webster gửi lời cảm ơn đến tôi, Simon và Ken vì đã “đem đến cho anh những năm tháng tuyệt vời nhất trong cuộc đời”, tôi không thể chịu đựng hơn được nữa. Tôi rời khỏi căn phòng và chạy nhanh xuống Ladbroke Grove, nước mắt lăn dài trên má.
Tôi đã chạy bộ gần một dặm, không để ý tới những người qua đường đang nhìn tôi chằm chằm. Khi tôi lướt qua một sạp báo, tôi nhìn thấy tấm áp phích quảng cáo với tiêu đề “Evening Standard” (tiêu chuẩn ngang bằng), tấm áp phích quảng cáo này đáng lẽ phải lau khô những giọt nước mắt của một người đàn ông trưởng thành: Branson bán công ty với giá 560 triệu bảng tiền mặt”. Tôi chạy qua nó, nước mắt vẫn lăn dài trên má, và tôi trở về nhà. Joan không có nhà, nên tôi vào bếp và đun nước. Đó là một buổi sáng tháng Ba giá lạnh, nhưng những cây anh đào ở góc vườn và ở công viên Holland Park chỉ mới chớm nở hoa.
Khi tôi đứng nhìn ra ngoài, một con cáo đâm qua hàng rào và chạy nhanh tới cửa sau, nơi mà Joan đã để thức ăn thừa cho nó. Nó nhặt một cái xác của con gà và biến mất trong bụi rậm. Bức ảnh cuối cùng của Lord King mà tôi nhìn thấy là bức ảnh ông ta ngồi trên lưng ngựa, trông rực rỡ trong bộ dụng cụ đi săn.
“Cảm thấy hoàn toàn chán nản”, tôi viết trong cuốn sổ tay của mình về quyết định nhận tiền mặt thay vì cổ phần. “Đã quyết định đi theo con đường bảo thủ lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Tất cả những người cố vấn (trừ John Thornton) đều ủng hộ quyết định đó”.
Cũng như việc lấy thêm 10 triệu bảng bằng cách chọn nợ cố định, Ken cũng đem lại cho chúng tôi 9 triệu bảng tiền lãi nhờ việc chuyển tiền cho Fujisankei. Thorn EMI trả chúng tôi 510 triệu bảng tiền mặt, trong đó chúng tôi phải trả 127,5 triệu bảng cho Fujisankei.
Fujisankei muốn nhận tiền Yên nên chúng tôi phải đổi tiền. Chúng tôi có một tháng chiếu cố giữa việc nhận tiền và chuyển tiền, và phải hoàn thành vào ngày 1/6. Chúng tôi phải lựa chọn thời điểm để chuyển tiền sang đồng yên. Simon và Trevor muốn đổi tiền ngay lập tức để chúng tôi có thể biết được chúng tôi đang đứng ở đâu. Ken và tôi thì cảm thấy nhẹ nhàng hơn và muốn mạo hiểm với việc này. Chúng tôi giữ số tiền này bằng đồng bảng và thật là may mắn tỷ giá của đồng bảng so với đồng yên lại khá cao. Chúng tôi chờ đợi và đổi tiền vào phút cuối, kiếm được hơn 9 triệu bảng tiền lãi. Quả thật là may mắn.
Và khi cuộc khủng hoảng đã được giải quyết. Từ giá mua bằng tiền mặt ban đầu là 510 triệu bảng, Fujisankei nhận được 127,5 triệu bảng và chúng tôi nhận được hơn 390 triệu bảng. Simon và Ken nhận phần của mình và đi theo những con đường khác nhau. Tôi sử dụng phần tiền thu được để trả cho ngân hàng và đầu tư số tiền mặt còn lại vào Virgin Atlantic Challenger. Những tin đồn rằng Virgin Atlantic Challenger phải trả tiền mặt cho chi phí nhiên liệu đã chấm dứt. Chúng tôi có nhiều tiền mặt dự trữ sẵn hơn British Airways.
Ngay lập tức, các ngân hàng bắt đầu gọi cho tôi với một sự kiên nhẫn mới – họ không còn đòi chúng tôi trả tiền nữa vì chúng tôi đã trả nợ cho họ, nhưng họ đề nghị đưa quỹ của tôi vào tài khoản ủy thác với lãi suất cao hơn để đầu tư, mời tôi ăn trưa, kinh doanh với tôi và dĩ nhiên không nhận ra sự châm biếm mỉa mai ở đây – họ đề nghị cho tôi vay số tiền mà tôi cần để thực hiện các công việc làm ăn trong tương lai.
Mất một lúc tôi mới hiểu được hàm ý của việc bán hàng. Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi có đủ tiền để thực hiện những ước mơ điên cuồng của mình. Trước mắt, tôi không có thời gian để tập trung vào vấn đề này, vì mỗi tuần câu chuyện về British Airways lại có chuyển biến và chiếm hết tâm trí của tôi. Trên vài phương diện nào đó, tôi thấy hài lòng mình đã không có thời gian để nghĩ về việc bán Virgin Music. Tôi chán ghét việc cứ phải sống trong quá khứ. Đặc biệt, tôi không muốn nghĩ về những mối quan hệ bạn bè đã mất đi. Những gánh nặng đã được rũ bỏ khỏi vai tôi và sâu thẳm trong tâm trí, tôi nhận ra rằng Virgin Group giờ có thể tự do phát triển theo bất cứ hướng nào mà chúng tôi lựa chọn. Virgin Music có thể đã mất; Ken, Simon và tôi đã mỗi người mỗi hướng nhưng điều tốt nhất vừa mới đến.
“Penni” – Tôi nói, “xin cho tôi biết số điện thoại của Freddie Laker ở Miami” Tôi quay số.
“Freddie” – Tôi gọi. “Tôi là Richard đây. Tôi vừa quyết định hỏi ý kiến của anh: Tôi đang theo một vụ kiện”.
“Hãy tiếp tục đi” – Freddie nói.
Khi chúng tôi bắt đầu vụ kiện, điều duy nhất khiến tôi phải luôn ghi nhớ, đây là một vụ kiện danh dự, không phải là một vụ tranh luận về vấn đề làm ăn. Tôi cần phải lấy lại danh dự cho bản thân mình.
Sắp xếp những bằng chứng xảy ra theo ba giai đoạn: chúng tôi có tất cả chứng cứ mà chúng tôi biết; chúng tôi nhận được rất nhiều tài liệu từ British Airways dựa vào quy định tiết lộ thông tin hợp pháp; và chứng cứ lớn nhất là bắt nguồn từ những nhân viên bất mãn với British Airways. Đây là chứng cứ có sức mạnh lớn nhất.
Thật không ngờ, Gerrard nhận được cú điện thoại từ một nhân viên cũ của BA gọi cho Sadig Khalifa, người đã từng làm việc cho ngành công nghiệp hàng không từ năm 1974, khi anh là nhân viên của công ty British Calesonian ở Tripoli. Khi British Airways giành quyền quản lý B-Cal vào năm 1988, Khalifa gia nhập một hội thuộc BA được gọi là Dịch vụ đặc biệt chuyên giải quyết các vấn đề của hành khách. Vào năm 1989, anh bắt đầu công việc như người làm thủ tục tại Sân bay Gatwick và sau đó tham gia bộ phận Helpline có trách nhiệm gặp gỡ hành khách, giúp hành khách chuyển các chuyến bay và chăm sóc người già. Một hoạt động bí mật khác của nhóm này là cố gắng mua chuộc hành khách của các hãng hàng không khác. Có một nhóm tương tự như vậy ở Heathrow với tên gọi “Những kẻ săn mồi”.
Vào tháng 4/1990, nhóm Helpline do Bộ phận Bán hàng và đặt chỗ quản lý, có một ông chủ mới là Jeff Day bước vào văn phòng Helpline, thông báo với Khalifa và 15 nhân viên của anh ta rằng: “Tiền không thể kiếm được bằng việc giúp đỡ những người phụ nữ già.
Những gì mà các anh phải làm là đi ra ngoài và thu hút thêm hành khách từ những hãng hàng không khác.” Khalifa nói với Gerrard về cuộc họp lần thứ hai vào tháng Tám, cuộc họp mà Jeff Day nói rằng đó phải là một cuộc họp kín: không có ai ngoài nhân viên của Helpline được tham gia và nghe về cuộc họp này.
Trong cuộc họp này, Jeff Day nói với Khalifa và đồng nghiệp của anh rằng Helpline có một nhiệm vụ mới: thu thập càng nhiều thông tin về Virgin Atlantic Challenger càng tốt. Các thông tin này bao gồm thông tin về chuyến bay, số lượng hành khách đặt vé máy bay, số lượng hành khách thực lên máy bay, số hàng khách mua vé hạng thường và hạng thương gia, thời gian cất cánh. Vào cuối mỗi ca làm việc, nhân viên của Helpline phải điền vào một bảng thông tin về mỗi chuyến bay và chuyển chúng cho bà Sutton, rồi bà ấy sẽ chuyển nó cho Day. Vậy họ đã lấy thông tin bằng cách nào? Jeff Day nói với các nhân viên của Helpline rằng họ có thể lấy thông tin bằng cách sử dụng số chuyến bay của Virgin để tiếp cận trực tiếp đến hệ thống đặt vé của British Airways, đó là hệ thống BABS. Đây là điều mà họ đảm bảo với Virgin rằng Virgin không thể làm được. Khóa của phòng Helpline đã được đổi, và họ tiếp tục các công việc của họ trong bí mật. Một phụ nữ làm việc bên cạnh Khalifa từ chối tham gia vào công việc này vì nghĩ rằng đây là một hành động trái đạo đức, và các thành viên còn lại trong nhóm đã làm việc thay cho cô.
Gerrard nhận được một thông báo từ Khalifa và gửi đến cho British Airways. Thông báo đó đã trở thành một trong những phần chính của phiên tòa.
Ngay lập tức, sau khi luật sư của BA nhận được bản khai có tuyên thệ của Khalifa, tôi nhận được một cú điện thoại của Michael Davids – Giám đốc không điều hành của BA, và là người bạn lâu năm của bố mẹ tôi. Ông ấy muốn hẹn ăn sáng với tôi.
Sau cuộc họp, Michael bắt đầu nói về “sự xấu hổ”. Đây là cách nói bóng gió đầu tiên của lời xin lỗi. Rõ ràng là ông ta là một giám đốc không điều hành mà tôi có thể nói chuyện.
Lord King và ngài Colin Marshal không muốn hạ thấp bản thân mình và biết rằng trong lời buộc tội của tôi là có sự thật, nhưng Michael Davis – gia đình một người bạn – được xem như là người tìm ra kế hay nhất rằng BA có thể mắc một số lỗi nào đó.
“Tôi nghĩ ba chúng ta nên nói chuyện một chút” – Michael nói. “Một cuộc nói chuyện nho nhỏ giữa ba chúng ta – anh, tôi và ngài Colin”.
“Ngài Colin?”
“Đúng, ông ấy sẽ trở nên nổi bật trong 10 năm tới, anh thấy đấy. Thời của King đã hết; Marshall đã tồn tại quá lâu. Tôi nghĩ ba chúng ta nên có cuộc nói chuyện và xem chúng ta có thể tìm ra được điều gì không.”
Tôi nhìn Michael Davis đang cố tìm những từ thích hợp để dùng. Hiểu một cách sâu xa, anh ấy đang nói với tôi rằng những ngày của Lord King tại British Airways đã qua rồi.
“Anh thấy đấy, một số người nhất định ở British Airways nhận ra rằng có những điều xấu hổ nhất định” – Ông ta thú nhận. “Đúng là có những điều xấu hổ nhưng nếu chúng ta cứ tiếp tục có một mối quan hệ nhạy cảm trong tương lai thì tôi nghĩ rằng tôi, anh và ông Colin nên ngồi lại và nói chuyện với nhau.”
Khi tôi ngồi nghe giọng điệu tra tấn và nỗ lực của anh ta trong việc đề nghị tôi làm ăn, tôi nhận ra rằng tôi đang nghe ai đó nói chuyện về tiền và nghề nghiệp của một người khác. Michael Davis, ông Collin Marshall, Robert Ayling và Lord King sẽ được nhận lương bất kể họ đã gây dựng nên British Airways. Những người nắm giữ cổ phiếu của BA phải trả tiền cho Brian Basham, cho thám tử, cho luật sư khi tôi kiện họ. Có thể đây là một vụ đầu tư tốt: Nếu họ xoay sở tìm cách lật đổ Virgin Atlantic Challenger thì họ sẽ tốn rất nhiều tiền.
Nhưng ban đầu Virgin Atlantic Challenger là công ty của tôi. Đó là một công ty tư nhân và nếu BA cướp khách hạng thượng lưu bay đến New York thì Virgin sẽ mất 3.000 bảng:
3.000 bảng đó chúng tôi không thể tái đầu tư vào kinh doanh. Khác với BA, tôi không có nhiều tiền dự trữ để trả lương. Do đó, nói về “sự xấu hổ”, Michael Davis đã quên mất một điều: BA đã cố gắng rất nhiều để khiến công việc làm ăn của tôi thất bại và khiến cho nhân viên của tôi thất nghiệp. Họ đã ép tôi phải bán Virgin Music, việc này đã làm ảnh hưởng đến tất cả mọi người, những người không làm việc trong hãng hàng không. Điều này khiến tôi giận dữ. Tôi sẽ không ngồi yên và đồng ý rằng tất cả chỉ là “sự xấu hổ”.
Trong suốt toàn bộ quá trình những trò chơi khăm bẩn thỉu diễn ra, tôi đã bị coi là khờ dại: khờ dại khi tin rằng British Airways có thể cư xử theo cách đó, khờ dại khi nghĩ rằng British Airways sẽ chấm dứt cách cư xử đó, khờ dại khi tin rằng tôi có thể đưa British Airways ra tòa, khờ dại khi nghĩ rằng có giây phút nào đó tôi có thể thắng kiện. Từ “khờ dại” cứ vang lên trong đầu tôi và có lúc làm nhụt quyết tâm tiếp tục của tôi. Ông Michael Angus nói với Colin Southgate rằng tôi đã khờ dại khi chống lại BA “như trong tác phẩm Boy’s Own vậy”; Jeannie Davis nói với bố mẹ tôi rằng: “Ricky nên học cách chấp nhận những điều xấu và những điều tốt”; và thậm chí tất cả mọi người, như ngài John Egan khuyên tôi “không nên rung một cái cây trĩu đầy quả ngọt.” Có thể tôi đã khờ dại trong việc đấu tranh đòi sự công bằng mà tôi muốn; có thể đó là sự lý tưởng hóa; hoặc có thể tôi là kẻ cứng đầu. Nhưng tôi biết rằng những hành động của British Airways là trái pháp luật và tôi muốn được bồi thường. Tôi quyết tâm làm cho tất cả những người nói tôi là khờ dại phải rút lại lời nhận xét đó.
Tôi gọi cho Gerreard Tyrrell sau bữa sáng và nói cho anh ấy biết rằng Michael Davis nhiệt tình và có sức thuyết phục như thế nào.
“Vớ vẩn” – Anh đáp lại tôi, “BA có cơ hội để làm lại nhưng họ đã không làm vậy. Đó chỉ vì luật sư của họ thấy được sự phạm pháp và họ đang bị ép phải xử lý”.
Tôi chưa bao giờ thấy Gerrard tức giận đến vậy.
“Anh sẽ không bao giờ có một cơ hội tốt hơn để vạch trần sự thật này đâu” – Anh tiếp tục, “đừng lùi bước”.
“Tôi chỉ thử anh thôi” – Tôi trả lời anh, “dĩ nhiên là tôi sẽ không lùi bước”.
Tuần tiếp đó tôi gặp George Carman, vị luật sư tài ba của chúng tôi, một người đang chuẩn bị vụ kiện cho chúng tôi. Với mái tóc trắng và phong thái hoàn hảo, George dường như là một người chú được mọi người yêu quí sau các vụ kiện. Ông ấy có sự tinh tế, sự ngoan cường và bản năng săn mồi của một con bọ ngựa đang cầu nguyện. Mọi người cố tránh xa ông ấy.
“Anh nghĩ thế nào về lời phát biểu mở đầu của tôi?” – George hỏi tôi. “Hãng hàng không được ưa thích của thế giới đã không còn được ưa thích. Đó gọi là ‘xé vụn những tài liệu đáng tin để khiến người ta hiểu sai’”.
Tôi gọi cho Michael Davis và nói với anh rằng tôi không thể đồng ý để những lời buộc tội của tôi trôi vào quên lãng. Vụ kiện dự kiến được bắt đầu vào tháng Một và các giám đốc của British Airways cần phải được George Carman xem xét lại. Tôi không cần phải kể là Geroge đã hứng thú với vụ kiện này như thế nào. Tỏ ra rất nghiêm túc về viễn cảnh này, Micheal Davis tắt máy điện thoại.
Nhưng giờ tôi cảm thấy tự tin rằng chúng tôi có thể đánh bại BA. Không chỉ có tôi phát hiện ra những mánh khóe bẩn thỉu, mà chúng tôi còn tìm ra những thông tin chi tiết về các hoạt động bí mật của BA.
Một người nào đó liên lạc với tôi tại văn phòng và nói rằng anh ta có một số thông tin về những hoạt động bí mật của BA liên quan đến nhiều thám tử tư. Anh ta nói rằng hiện đang có một đĩa máy tính có lưu lại các thông tin hoạt động mà các thám tử tư đã thực hiện. Anh ta khăng khăng muốn gặp riêng tôi trước khi anh ấy giao chiếc đĩa.
Tôi cảm thấy hơi lạ khi tôi lên xe cùng với trợ lý của tôi – Julia Madona. Có lẽ vì thực ra tôi có đeo một chiếc micro giấu ở trong quần để có thể ghi âm cuộc nói chuyện. Tôi biết tầm quan trọng của cuốn băng ghi lại cuộc nói chuyện giữa Brian Basham và Chris Hutchins, cho nên tôi không định bỏ qua cơ hội đó trong cuộc gặp gỡ này. Khi tôi thành lập Virgin Atlantic Challenger, tôi không nghĩ rằng có ngày tôi phải sử dụng đến cách của James Bond để vận hành nó.
Tôi ghi vội vào cuốn sổ tay của mình những gì chúng tôi đã nói chuyện:
“Cố gắng tìm ra những gì chúng tôi muốn nhưng không muốn để lại ấn tượng. Không phải ở cấp độ của Lord King… Cẩn thận đừng để bị mình bị phát hiện là đang điều tra, hãy phòng thủ.”
Quan trọng hơn cả, người liên lạc với tôi đã đưa cho chúng tôi chiếc đĩa. Khi tôi in nó ra, nó chứa đựng những điều bí mật. Các thám tử tư đã giấu những điều cực kỳ bí mật về những gì họ định làm và những người họ báo cáo tại British Airways. Nhóm đó đã hoạt động dưới cái tên “Covent Garden”. Trong phần đầu, ngày 30/11/1991, có viết “Báo cáo của Dự án Barbara được nhìn thấy trong văn phòng của S1 tại Enserch House [trụ sở chính của BA tại trung tâm London]. “S1” trở thành biệt danh của David Burnside, và “Dự án Barbara” chính là báo cáo về Virgin mà Basham đưa cho Chris Hutchins.
Hầu hết bộ phận quản lý cấp cao của BA đều được đặt biệt danh, nhưng họ lấy tên bằng cả chữ cái và số nên tên thật của họ không bao giờ xuất hiện trên giấy tờ. Tôi thấy khá dễ dàng phát hiện ra biệt danh đó là dành cho ai: Lord King là “LK” hoặc “C1”; Colin Marshall là “C2”; và Basham là “S2”,còn một số tên khác như “R1” và “R2” thì chúng tôi không biết. Họ trở thành những thám tử tư, Nick Del Rosso và Tom Crowley, những người đứng đầu nhóm dưới chiêu bài cố gắng tìm ra gián điệp bên trong BA thì đang tuồn thông tin cho chúng tôi. Covent Garden là do Ian Johnson Associates, một “nhà tư vấn quản lý rủi ro quốc tế” điều hành. Thông tin trong chiếc đĩa chỉ ra cách Johnson và Del Rosso hướng dẫn giám đốc rủi ro của BA là David Hyde và giám đốc pháp lý là Mervyn Walker cách vận hành của Covent Garden. Chiếc đĩa này cũng ghi lại những cuộc họp giữa Robert Ayling và Colin Marshall.
Chiếc đĩa chứa đựng những thông tin bất ngờ về cách nhóm thám tử thuyết phục các nhà quản lý cấp cao của BA rằng chúng ta đang thực hiện một công việc chống lại BA. Số tiền ước tính chi tiêu vào công việc không hề tồn tại này là 400 nghìn bảng. Sau đó, chúng tôi thấy rằng BA chi 15 nghìn bảng mỗi tuần cho Covent Garden.
Sự vô lý của công việc đó bị bại lộ sau khi những thông tin về cách mà các thám tử theo dõi khách sạn Tickled Trout ở Lancashier bằng máy quay phim và thiết bị thu âm bí mật được tiết lộ. Ý tưởng thu âm cuộc trò chuyện gặp gỡ giữa Burnside và một “công ty” mà Covent Garden đã thuyết phục đã có tác dụng đối với Virgin. Đoạn băng đã cho thấy kế hoạch của họ đã thất bại như thế nào khi Burnside bị lộ trong lúc bật thiết bị nghe trộm của mình. Đáng lẽ tôi đã có thể xóa mọi rắc rối của BA: tôi chưa bao giờ thuê thám tử và sẽ không bao giờ. Đó không phải là cách mà tôi và Virgin làm việc.
Khi xem xong cuốn băng về Covent Garden, tôi cảm thấy như thể mình vừa quay trở về từ một thế giới tương tự – một thế giới được tạo ra từ trí tưởng tượng của những người tham gia vào kế hoạch bí mật và ban quản lý cấp cao được BA thuê với giá hàng nghìn bảng. Tôi thực sự bắt đầu trông chờ vụ xét xử về tội bôi nhọ danh dự, vụ kiện được báo trước là “mẹ của những vụ xử về tội bôi nhọ”.
Ngày 7/12/1992
“BA đã bị sụp đổ” – George Carman nói với tôi. “Hôm nay họ phải trả gần nửa triệu bảng cho vụ kiện, chính xác là 485 bảng. Họ vừa thú nhận là họ có tội.”
Sau đó chúng tôi phát hiện ra rằng chỉ ngay trước khi phiên tòa bắt đầu, các luật sư của BA nói rằng họ không có hy vọng giành thắng lợi. Nếu họ không muốn bị bẽ mặt khi phải đứng trong hàng ghế nhân chứng và bị George Carman thẩm vấn cũng như phải chứng kiến tất cả các hành động của mình được đăng trên trang nhất, thì sự lựa chọn duy nhất của họ là trả tiền cho tòa án và bắt đầu thương lượng để không phải ra hầu tòa.
Ban đầu, tôi nghĩ rằng liệu mình có nên chấp nhận việc BA trả tiền hay không. Tôi vô tội, và chúng tôi có thể đưa tất cả các giám đốc của BA ra tòa và hủy hoại họ. Nhưng sau khi thảo luận, chúng tôi nhận ra rằng mặc dù việc đó cũng hay nhưng nó có thể được coi là một việc làm không hề khoan dung và đầy mạo hiểm.
“Ông cũng nhớ là vì sao ông lại khởi kiện chứ” – George Carman nói với tôi. “Ông muốn chấm dứt tất cả những mánh khóe bẩn thỉu và ông muốn rửa sạch thanh danh của mình. BA đã thú nhận rằng ông hoàn toàn đúng. Thanh danh của ông đã được rửa sạch”.
“Nếu ông vẫn muốn tiếp tục phiên tòa thì sẽ có hai việc xấu xảy ra. Hội đồng xét xử sẽ bồi thường thiệt hại cho ông nhưng họ có thể sẽ nghĩ rằng ông là một người giàu có và ông không cần đến 500 nghìn bảng và chỉ trả cho ông 250 nghìn bảng. Đó có thể được coi là một sự thất bại dành cho ông và phần thắng thuộc về British Airways. Nếu hội đồng xét xử thanh toán ông một khoản tiền ít hơn khoản tiền mà Brtish Airways đã trả cho tòa án thì ông sẽ phải trả cho cả hai loại chi phí đó. Do đó, ông có thể thắng kiện nhưng lại mất nhiều tiền, và mọi người sẽ thắc mắc tại sao Virgin Atlantic Challenger lại phải trả 3 triệu bảng.”
Điều cuối cùng mà George khuyên rất thuyết phục. Mặc dù theo một cách nào đó, các quyết định của tôi nhằm giải quyết vụ kiện có thể đang dần hạ nhiệt, và chúng tôi không thấy thỏa mãn khi nhìn George Carman thẩm vấn các giám đốc, và bằng cách chấp nhận việc BA trả tiền, chúng tôi đã thắng hoàn toàn mà không có rủi ro và chúng tôi hoàn toàn tự do để tiếp tục công việc kinh doanh của mình.
“Vậy bây giờ chúng tôi phải làm gì?” – Tôi hỏi.
“Chúng ta có 21 ngày để lấy tiền ra khỏi tòa án nếu chúng ta chấp nhận”. “Thế thì chúng tôi sẽ làm”.
“Lord, không được” – George nói, trông có vẻ hoang mang. “Tôi sẽ không chấp nhận. Tôi sẽ bắt họ phải trả cho chúng tôi ít nhất là 600 nghìn bảng. Nếu họ đã sẵn sàng trả 485 nghìn bảng thì họ hoàn toàn có thể trả số tiền 600 nghìn. Cứ mỗi 100 nghìn bảng thiếu thì tiêu đề trên báo sẽ to lên.
George dành cả một tuần để thương lượng về số tiền. Ngày 11/12/1992, chúng tôi đồng ý với điều khoản thanh toán vì tội bôi nhọ danh tiếng cao nhất từ trước đến nay trong lịch sử của nước Anh: 500 nghìn bảng cho tôi để bồi thường vì đã bôi nhọ danh dự của tôi và 110 nghìn bảng cho Virgin Atlantic Challenger để bồi thường vì đã bội nhọ danh dự của công ty.
Ngày 11/1/1993
“VIRGIN XỬ LÝ BA” là tiêu đề của tờ Sun’s. Và bài báo này chiếm hết trang đầu.
“Tôi thích cách diễn đạt khác cơ” – Kebin MacKenzie, biên tập viên tờ Sun’s nói với tôi, “tôi có thể viết một cái tiêu đề hay hơn.”
Tôi đang ở trong phòng của Geroge Carman cùng với Gerrard Tyrrell và bố tôi, người tôi đã chia sẻ sự chiến thắng. Tôi đi một vòng quanh High Court ở Strand và chen lấn với rất nhiều phóng viên ở ngoài. Hành lang ở phía ngoài tòa số 11, nơi mọi người có thể nghe ngóng tình hình đang rất đông đúc. Trong tòa án thì rất yên tĩnh. Mọi người nhận thấy: Lord King, ngài Colin Marshall và Robert Ayling, ba người ủng hộ chính cho British Airway không có ở đó. David Burnside vắng mặt, Brian Basham đi nước ngoài, nhưng luật sư của ông ấy vẫn đang thực hiện những cố gắng cuối cùng để nhấc tên ông ấy ra khỏi danh sách xin lỗi. Quan tòa lắng nghe lời bào chữa và sau đó yêu cầu British Airways thảo luận ý kiến của mình. Họ đồng ý với Virgin rằng tên của Brian Basham nên nằm trong danh sách xin lỗi. Quan tòa quyết định rằng danh sách xin lỗi phải được giữ nguyên như trước.
George Carman đứng dậy và đọc bản tuyên bố đã được các bên đồng ý. Khi anh ấy đọc đến đoạn cuối, cả phiên tòa trở nên yên lặng:
British Airways và Lord King đã hoàn toàn chấp nhận rằng những lời buộc tội họ đưa ra để chống lại sự thật và tính chính trực của Richard Branson và Virgin Atlantic Challenger là hoàn toàn không đúng. Họ cũng đồng ý rằng những cáo buộc của Richard Branson và Virgin về những hoạt động của các thành viên trong British Airways, của ông Basham, gây ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh và danh tiếng của Virgin Atlantic Challenger và Richard Branson là có cơ sở. Trong những trường hợp này, British Airways và Lord King đứng trước phiên tòa để xin lỗi và trả một khoản tiền cho bên nguyên đơn như là một khoản bồi thường cho sự hủy hoại thanh danh và đẩy bên nguyên đơn vào tình cảnh khó khăn do bị buộc tội sai. Họ cũng tìm cách rút lại kháng cáo chống lại Virgin Atlantic Challenger và Richard Branson.
Bên cạnh đó, British Airways và Lord King đã đồng ý trả Richard Branson và Virgin Atlantic Challenger khoản phí pháp lý kiện tụng, kháng cáo và cam kết không nhắc lại lời buộc tội gây mất danh dự, cốt lõi của vấn đề này…
George Carman dừng lại và lấy hơi. Phiên tòa như ngừng lại.
…British Airways và Lord King sẽ trả cho Richard Branson 500 nghìn bảng đền bù thiệt hại và trả 110 nghìn bảng cho những thiệt hại gây ra đối với Virgin Atlantic Challenger…
George lên giọng để tất cả mọi người có thể nghe thấy khi phiên tòa bỗng trở nên ồn ào:
…Qua lời xin lỗi chân thành và bằng việc được đền bù cho những thiệt hại, Richard Branson và Virgin Airways xem như danh tiếng của họ đã được rửa sạch qua việc dàn xếp ổn thỏa vụ rắc rối này.
Tôi nhìn thấy nước mắt bố tôi lăn trên má ông khi ông nghe đọc bản tuyên bố. Ông lôi chiếc khăn tay to ở trong túi áo ngực để lau nước mắt. Tôi nắm chặt tay ở dưới bàn để ngăn bản thân mình không nhảy lên.
Có một điểm rất mẫu thuẫn trong lời xin lỗi của British Airways, mặc dù đã xin lỗi nhưng họ vẫn tiếp tục bào chữa cho mình:
Cuộc điều tra mà British Airways đã thực hiện trong suốt thời gian xảy ra vụ kiện tụng này đã hé lộ một số sự tình cờ liên quan đến những nhân viên của British Airways mà hãng hàng không này cho là đáng tiếc và đã cung cấp cho Richard Branson cũng như Virgin Atlantic Challenger những căn cứ hợp lý. Tuy nhiên, tôi nhấn mạnh rằng các giám đốc của British Airways không tham gia vào bất cứ chiến dịch nào chống lại Richard Branson và Virgin Atlantic Challenger” – Nhóm luật sư của họ nói.
Nhiều người trong phiên tòa đã tỏ ý nhạo báng. Đó là khi British Airways từ chối nói lời xin lỗi.
“Cứ để họ làm như vậy đi” – Gerorge Carman khuyên tôi. “Mọi người sẽ thấy rõ điều đó có ý nghĩa gì. Chúng ta còn chưa nghe thấy phần cuối của từ ‘âm mưu.’”
Sau đó, với sự đồng ý của quan tòa, luật sư của ngài Basham đứng dậy và chỉ ra rằng khách hàng của ông không chấp nhận sự liên quan của ông ta được đề cập ở trên là một lời kết luận đúng đối với những hành động của ông đại diện cho BA.
Ở bên ngoài, đám nhà báo và phóng viên chen lấn nhau, tôi giơ cả hai tay lên và vẫy trong chiến thắng.
Tôi nói: “Tôi chấp nhận phần thưởng này không chỉ cho Virgin mà còn cho cả những hãng hàng không khác như Laker, Dan Air, Air Europe và B-Cal. Họ đã từng trải qua cảnh ngộ như chúng tôi và chúng tôi đã chiến thắng British Airways.”
Chúng tôi trở về Holland Park và bữa tiệc bắt đầu. Tôi quyết định chia 500 nghìn bảng tiền đền bù thiệt hại cho nhân viên của Virgin Atlantic Challenger để thưởng cho những gì họ đã trải qua sau những áp lực mà Brtish Airways đã đè nén và họ đã phải nhận lương ít hơn còn phần thưởng thì bị cắt giảm. Chương trình ti vi được bật lên ở trong góc, các tin truyền hình đều đưa tin về chiến thắng của Virgin như là chuyên mục chính trong ngày.
Thậm chí, ITN còn phỏng vấn Sadig Khlifa và Yvone Parson. Buổi tiệc tạm dừng để chúc mừng họ trong chốc lát rồi lại tiếp tục.
Sau đó, khi tôi đang nói chuyện với một người nào đó thì cơn sóng mệt mỏi ập đến. Khi tôi nhận ra rằng chúng tôi đã thắng, Tất cả căng thẳng đã được giải tỏa; tôi cười với một nụ cười hạnh phúc, mãn nguyện, ngả người sang một bên và ngủ say.