Lâu nay dạ luống mơ mòng,
Giang Nam cảnh vật một vòng ghé thăm.
Hồ xanh, liễu rủ, hương lăng,
Thuyền con một chiếc, xinh xinh hai nàng.
* * *
Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí điểm huyệt, không thể động đậy gì được bị mấy gã tùy tòng để nằm ngang trên yên, mặt quay xuống dưới thấy đất chạy giật lùi, vó ngựa tung bay khiến cho mũi miệng chàng dính đầy bụi bặm, tai nghe bọn chúng la hét om xòm toàn bằng tiếng Phiên nên không hiểu gì cả. Chàng đếm chân ngựa tổng cộng có đến mười con.
Chạy được hơn chục dặm đi đến một ngã ba đường nghe thấy Cưu Ma Trí xí xố mấy câu, năm con ngựa liền chạy qua ngả bên trái, còn Cưu Ma Trí đem theo Đoàn Dự cùng ba người khác cưỡi ngựa chạy về bên hữu. Đi thêm mấy dặm nữa lại gặp một ngã ba khác, trong năm người lại có hai người chạy theo ngả kia. Đoàn Dự biết rằng Cưu Ma Trí muốn cho truy binh bối rối không biết phải đuổi theo đường nào cho phải.
Lại chạy thêm một quãng nữa, Cưu Ma Trí nhảy xuống ngựa, lấy ra một cái dây lưng bằng da buộc vào Đoàn Dự, tay trái xách chàng lên, chạy theo triền núi bên ngoài hai gã còn lại giục ngựa chạy về hướng tây. Đoàn Dự trong bụng kêu khổ nghĩ thầm: “Bá phụ có sai thiết giáp kỵ binh liên tiếp đuổi đến đây, cùng lắm là bắt được cả chín tên tùy tòng của gã phiên tăng này nhưng cũng không cứu nổi ta”.
Tuy Cưu Ma Trí tay cầm thêm một người nhưng chân vẫn nhanh thoăn thoắt. Y càng lúc càng lên cao, suốt ba giờ liền chỉ chạy trong những hoang sơn dã lãnh. Đoàn Dự thấy vầng thái dương đã ngả về tây nhưng lúc nào cũng chiếu từ bên trái tới, biết rằng Cưu Ma Trí mang mình đi về hướng bắc.
Đến lúc chiều tối, Cưu Ma Trí để chàng lên trên cành một cây to, lẳng lặng lấy dây trói chặt chàng vào đó, đến mắt cũng không thèm nhìn đến Đoàn Dự, sau đó xoay lưng lại lấy ra mấy miếng bánh khô đưa cho chàng, chỉ giải huyệt một cánh tay trái để chàng tự ăn lấy. Đoàn Dự ngầm giơ tay trái ra, định vận khí dùng Thiếu Trạch Kiếm đả thương y, ngờ đâu các yếu huyệt trên người bị điểm, chân khí toàn thân bị chặn lại, ngón tay điểm ra trống không chẳng có chút nội kình nào.
Cứ như thế mấy ngày liền, Cưu Ma Trí xách chàng tiếp tục chạy về hướng bắc. Nhiều lần Đoàn Dự gợi chuyện với y, hỏi y tại sao lại bắt mình, đưa mình về phương bắc để làm gì, Cưu Ma Trí trước sau không trả lời. Đoàn Dự trong bụng tức tối lắm, nghĩ đến hôm trước bị cô em Mộc Uyển Thanh bắt giữ, tuy bị hành hạ khổ sở hơn nhiều nhưng không đến nỗi chán ngấy như thế này. Huống chi bị một cô gái xinh đẹp bắt giữ, hương thơm thoang thoảng, lâu lâu bị đánh mắng còn hơn ở trong tay một gã phiên tăng giả câm giả điếc, sướng khổ gì cũng mình mình chịu không nói cho ai hay được.
Cứ như thế đi hơn mười ngày, áng chừng đã ra khỏi biên giới Đại Lý, Đoàn Dự thấy y đổi qua đi về hướng đông, nhưng vẫn tránh đường lớn, vẫn chỉ đi ngoằn ngoèo trong núi non hoang dã. Tuy nhiên mặt đất càng lúc càng bằng phẳng, núi đồi càng lúc càng ít dần mà sông nước càng nhiều hơn, trong một ngày phải qua đò đến mấy bận. Sau cùng Cưu Ma Trí mua hai con ngựa mỗi người cưỡi một con nhưng y vẫn không giải những huyệt đạo trên người chàng.
Có lần Đoàn Dự đi cầu đã tính: “Nếu như ta sử dụng Lăng Ba Vi Bộ, gã phiên tăng này chưa chắc gì đã đuổi kịp được?” Thế nhưng chàng chỉ đi được hai bước, chân khí bị chặn lại ngay tại những huyệt bị đóng, lập tức ngã lăn ra. Chàng thở dài một tiếng lồm cồm ngồi dậy biết rằng cách này không thể làm được.
Tối hôm đó hai người nghỉ lại tại một khách điếm trong một thị trấn nhỏ. Cưu Ma Trí bảo người hầu phòng mang nghiên bút giấy mực để lên trên bàn, khêu to ngọn đèn, đợi tên đó ra khỏi mới nói:
– Đoàn công tử, tiểu tăng mời đại giá lên miền bắc, quả thực đắc tội, trong lòng thật áy náy không yên.
Đoàn Dự đáp:
– Không dám, đại sư quá lời.
Cưu Ma Trí nói tiếp:
– Công tử có biết tiểu tăng làm thế này là có ý gì không?
Đoàn Dự trên suốt con đường, trong bụng chỉ nghĩ đến một việc này thấy trên bàn để bút nghiên giấy mực, mười phần cũng đoán được tám chín bèn nói:
– Không được đâu.
Cưu Ma Trí hỏi lại:
– Cái gì mà không được?
Đoàn Dự đáp:
– Ngươi ái mộ kiếm pháp Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn ta định ép ta viết ra cho ngươi chứ gì? Cái đó không thể được.
Cưu Ma Trí lắc đầu:
– Đoàn công tử hiểu sai ý của ta rồi. Năm xưa tiểu tăng có ước hẹn với Mộ Dung tiên sinh, định mượn Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của quí môn cho ông ta xem một lần. Lời hẹn đó chưa hoàn thành, trong lòng lúc nào cũng canh cánh. Cũng may Đoàn công tử thuộc lòng kinh đó, không biết cách nào hơn đành phải đem công tử đến trước mộ ông ta thiêu sống, để tiểu tăng khỏi bị thất tín với người xưa. Thế nhưng công tử là rồng phượng trong loài người, hai bên không có oán thù gì nhau, lẽ nào tiểu tăng lại làm hại đến công tử? Thành ra có một kế vẹn toàn cho cả đôi bên, công tử chỉ cần đem kinh văn đồ phổ chép lại, đừng dấu diếm chút nào, tiểu tăng nhất quyết không ghé mắt xem tới, lập tức gói chặt đem tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh hỏa hóa để hoàn thành tâm nguyện, sau đó sẽ cung kính tiễn công tử trở về Đại Lý ngay.
Câu này khi Cưu Ma Trí vừa mới bước chân vào chùa Thiên Long đã nhắc đến, lúc đó bọn Bản Nhân cũng đã toan bằng lòng, ngay cả Đoàn Dự cũng thấy cách đó có thể thực hiện được. Thế nhưng về sau Cưu Ma Trí tấn công lén Bảo Định Đế, rồi lại bắt giữ mình, ra tay chẳng có gì quang minh chính đại, khi trốn tránh truy binh thì có đủ các ngụy kế, đối với sinh tử an nguy của chín tên bộ thuộc hoàn toàn không coi vào đâu, bao nhiêu tàn ác gian trá đã lộ cả ra rồi, Đoàn Dự đời nào còn tin y cho nổi?
Chàng trong bụng đã tỏ tường bọn Nam Hải Ngạc Thần kia xưng là Tứ Đại ác Nhân xem ra phẩm cách còn hơn xa gã hòa thượng Thổ Phồn ngụy trang dưới danh vị “thánh tăng” này. Chàng tuy chưa từng trải việc đời nhưng trong hơn hai chục ngày qua, việc này đã suy nghĩ chín chắn, biết rõ đầu dây mối nhợ nên đáp:
– Cưu Ma Trí đại sư, lời nói của ông không đánh lừa được tôi đâu.
Cưu Ma Trí chắp tay nói:
– A Di Đà Phật, tiểu tăng một lời đã hứa với Mộ Dung năm xưa mà còn thủ tín đến thế, không lẽ giữ lời hứa này lại bỏ lời hứa kia hay sao?
Đoàn Dự lắc đầu nói:
– Ông bảo năm xưa hứa với Mộ Dung tiên sinh, thật hay giả nào ai biết được? Ông được đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm rồi thể nào chả đọc kỹ một lần, có đem đến đốt trước mồ Mộ Dung tiên sinh không nào ai biết được? Dẫu có phàn hóa thật chăng nữa, người thông minh tài trí như đại sư, đọc đi đọc lại vài lần không lẽ không nhớ được hay sao? Có khi còn sợ nhớ sai, đem sao lại một bản rồi sau mới đốt không chừng.
Cưu Ma Trí hai mắt lóe lên hầm hầm nhìn Đoàn Dự, chỉ trong giây lát, sắc mặt đổi lại từ hòa chậm rãi nói:
– Ngươi với ta đều là đệ tử cửa Phật, lẽ nào lại nói dối nói trá như thế bao giờ, tội quá, tội quá! Nếu như bất đắc dĩ, tiểu tăng đành phải ép buộc, âu cũng chỉ vì muốn cứu mạng công tử, xin đừng trách.
Nói xong đưa tay trái ra, nhẹ nhàng để lên ngực Đoàn Dự nói:
– Khi nào công tử không còn chịu nổi bằng lòng chép lại kinh này, chỉ cần gật đầu một cái, tiểu tăng sẽ buông tay ngay.
Đoàn Dự gượng cười đáp:
– Ta không chép kinh này, ngươi sẽ không chịu thua nên không đành lòng giết ta. Còn như nếu ta chép kinh cho ngươi, lúc đó đời nào ngươi để cho ta sống nữa? Ta chép kinh có khác gì tự sát, Cưu Ma Trí đại sư, cái chỗ đó mười ba ngày trước ta đã nghĩ đến rồi.
Cưu Ma Trí thở dài một tiếng niệm:
– Lạy Phật từ bi!
Chưởng tâm liền vận kình, nghĩ thầm luồng lực đạo này truyền vào huyệt Đãn Trung thì toàn thân chàng như có kiến cắn, khổ sở khó mà chịu nổi, gã công tử vốn được nuông chiều quen rồi, miệng thì nói cứng nhưng nếu bị hành hạ chết đi sống lại sẽ không thể nào không chịu ép một bề. Ngờ đâu kình lực vừa nhả ra, lập tức thấy biến đi đâu mất không thấy tăm hơi gì nữa. Y kinh hãi lập tức thúc đẩy mạnh thêm, lần này nội lực mất mát còn nhanh hơn nữa, tiếp theo chân khí trong người cuồn cuộn đổ ra. Cưu Ma Trí hết hồn, tay phải đẩy mạnh lên vai Đoàn Dự. Đoàn Dự “A” lên một tiếng, ngã lăn ra giường, ót đụng mạnh vào tường.
Cưu Ma Trí vốn đã biết Đoàn Dự học Hóa Công đại pháp của Tinh Tú lão quái nhưng yếu huyệt đang bị phong, dù chính dù ta thì võ công nào cũng không thể thi triển được, ngờ đâu y vừa phát kình, thì nội lực của mình liền tuôn vào huyệt Đãn Trung của đối phương, chẳng khác nào hôm trước toàn thân chàng không cử động gì được, mồm há hốc để cho con mãng cổ chu cáp chui tọt vào trong bụng, trên thân thể huyệt đạo bị đóng và Bắc Minh thần công không liên can gì đến nhau.
Đoàn Dự rên rỉ ngồi dậy hậm hực nói:
– Uổng cho ngươi tự xưng mình là cao tăng, cao tăng gì mà vừa ra tay đã đánh người là sao?
Cưu Ma Trí gằn giọng:
– Môn Hóa Công đại pháp của ngươi do ai dạy cho thế?
Đoàn Dự lắc đầu:
– Hóa Công đại pháp, tàn bạo đối với cả trời lẫn vật khác nào trong tay có nghìn vàng đem vứt dưới đất, coi vật quí giá không ra gì chẳng nực cười ru? Ha ha!
Mấy câu này vô hình chung chàng đem câu viết trong quyển trục lấy được trong thạch động ra dẫn. Cưu Ma Trí không hiểu ý tứ ra sao nhưng không dám đụng tới người chàng nữa, trước đây y điểm các huyệt Thần Phong, Đại Chuy, Huyền Khu, Kinh Môn của chàng nào có thấy gì đâu, người này võ công thật là quái dị, không thể nào hiểu nổi, chắc môn công phu này ắt là từ Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm biến hóa ra, có điều chàng chỉ mới học được chút vỏ ngoài nên không biết sử dụng. Nếu thực như thế thì võ học họ Đoàn Đại Lý càng thèm thuồng hơn, thành thử y đột nhiên giơ chưởng lên, lăng không sử dụng một chiêu Hỏa Diễm Đao, chém đứt một mảnh chiếc khăn thư sinh trên đầu Đoàn Dự, quát lớn:
– Ngươi không viết thật chăng? Ngón đao này ta chỉ cần chém thấp xuống nửa thước thì đầu ngươi có còn không?
Đoàn Dự sợ lắm, nghĩ bụng nếu như y bực mình thật lại hủy một con mắt mình, hay chặt một cánh tay thì biết làm sao đây? Trên đường đi chàng đã suy nghĩ rất nhiều nên mấy câu hờm sẵn lập tức bật ra:
– Nếu như ta bị bức bách quá đỗi thì sẽ viết bậy viết bạ, không đúng hẳn. Nếu như ngươi làm hại đến chi thể ta, ta sẽ hận ngươi thấu xương, khi viết kiếm phổ sẽ thêm thắt đủ thứ. Nếu đã thế kiếm phổ ta chép kia nếu như ngươi đem đến trước mồ Mộ Dung tiên sinh phàn hóa, ngươi bảo là sẽ lập tức niêm phong ngay quyết không hé mắt nhìn đến, dù đúng dù sai thì cũng không liên quan gì đến ngươi. Ta viết lăng viết nhăng thì cũng là ta đánh lừa âm hồn Mộ Dung tiên sinh thôi, y ở cõi âm nếu như luyện rồi bị tẩn hỏa nhập ma, làm tuyệt quỉ mạch thì cũng đâu có trách gì nhà ngươi được.
Nói xong chàng làm như đi đến trước bàn, lấy giấy bút ra giả vờ định viết. Cưu Ma Trí giận lắm, mấy câu của Đoàn Dự làm lộ hết ý đồ định đánh lừa để lấy kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm của y, đồng thời cũng nói rõ ràng nếu y bức bách quá, kiếm phổ viết ra sẽ không đầu đủ, thiếu đầu thiếu đuôi, nhiều đoạn láo lếu, thì phỏng có ích gì, đọc vào chỉ thêm có hại. Y ở chùa Thiên Long đấu kiếm hai lần, Lục Mạch Thần Kiếm giả thật thế nào y nhìn là biết ngay thế nhưng yếu chỉ của lộ kiếm pháp đó đều do nội lực vận dụng sai sử mà thành thì không thể nào phân biệt được. Y thẹn quá hóa giận, nổi cơn điên vung tay chém ra một đòn Hỏa Diễm Đao, nghe soẹt một tiếng nhỏ, quản bút Đoàn Dự cầm trong tay bị chặt đứt ra làm hai.
Đoàn Dự còn đang cười sằng sặc, Cưu Ma Trí bèn quát lớn:
– Tặc tiểu tử, Phật gia có lòng tốt định tha mạng cho ngươi, ngươi vẫn chấp mê không tỉnh ngộ. Để ta xách ngươi tơi trước mồ Mộ Dung tiên sinh thiêu sống, kiếm phổ ngươi nhớ trong bụng thì còn giả được hay chăng?
Đoàn Dự cười đáp:
– Ta khi sắp chết sẽ cố ý nhớ sai mấy chiêu kiếm pháp. Đúng đó, ta cứ thế mà làm, từ giờ trở đi ta hết sức nhớ sai, càng nhớ càng sai, đến sau cùng, đến chính ta cũng chẳng còn biết mình là ai.
Cưu Ma Trí hầm hầm trừng mắt nhìn chàng, ánh mắt dường tóe lửa, hận không thể dùng môn vô hình khí kình Hỏa Diễm Đao chém đứt cổ tên tiểu tử này cho xong.
Từ đó đường đi chỉ về hướng đông, đến hơn hai chục ngày, Đoàn Dự nghe thấy tiếng người nói trên đường đi bắt đầu thánh thót dịu dàng, trong các món ăn cũng ít cay hơn. Hôm đó đến ngoài thành Tô Châu, Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chắc sắp đến mộ của Mộ Dung Bác rồi. Phiên tăng không ép ta chép kiếm phổ được, chắc thể nào cũng giết mình đi nhưng biết đâu trước mồ của Mộ Dung Bác, y lại chẳng đốt một chốc, đánh một chập, khiến cho ta sống dở chết dở, y làm gì mà chẳng được”.
Chàng thấy chạnh lòng không dám nghĩ thêm, đưa mắt nhìn phong cảnh. Lúc đó đang vào tháng ba, hoa hạnh đang nở, liễu xanh rủ bên hồ, gió xuân ấm áp thổi tới khiến lòng lâng lâng như say. Đoàn Dự thấy lòng khoan khoái, cất tiếng ngâm:
Liễu rủ lơ thơ sóng dập dềnh,
Cỏ thơm xóm nhỏ luống mông mênh.
Chiều hôm bóng ngả bên đường cũ,
Gió nhẹ vờn hoa cánh chập chờn.
Ba miểu miểu,
Liễu y y.
Cô thôn phương thảo viễn,
Tà nhật hạnh hoa phi.
Cưu Ma Trí cười khẩy:
– Chết đến nơi mà còn nhàn nhã tiêu sái để ngâm thơ vịnh phú nữa.
Đoàn Dự cười đáp:
– Sắc thân vốn là vô thường, đã còn là vô thường tức là còn khổ. Thiên hạ có ai mà không chết. Ngươi có sống cũng được thêm vài năm, phỏng được bao lâu mà chẳng hưởng cho sung sướng?
Cưu Ma Trí không thèm để ý đến chàng nữa, hỏi người đi trên đường Tham Hợp Trang ở chỗ nào? Thế nhưng y hỏi liên tiếp bảy tám người chẳng một ai biết cả. Hai bên ngôn ngữ bất đồng nên lại càng thêm rắc rối. Mãi sau mới có một ông già nói:
– Trong thành ngoài thành Tô Châu, chẳng có trang viện nào tên là Tham Hợp Trang cả. Chắc là đại hòa thượng nghe nhầm chăng?
Cưu Ma Trí nói:
– Có một đại trang chủ họ Mộ Dung, chẳng hay ông ta ở nơi nào?
Ông già đáp:
– Trong thành Tô Châu này chỉ có họ Cố, họ Lục, họ Thẩm, họ Trương, họ Chu, họ Văn … đều là những đại trang chủ, làm gì có ai họ Mộ Dung? Chưa từng nghe thấy bao giờ?
Cưu Ma Trí chưa biết tính sao, bỗng nghe từ một con đường nhỏ phía tây có người nói:
– Nghe nói họ Mộ Dung ở tại Yến Tử ổ_ ở phía tây cách thành ba mươi dặm, chúng mình tới đó xem sao.
Lại nghe một người khác nói:
– Này, mình đến nơi rồi, phải hết sức cẩn thận mới được.
Giọng nói vùng trung châu Hà Nam. Hai người đó nói rất khẽ nhưng nội công Cưu Ma Trí rất cao nên nghe rõ mồn một nên trong bụng tính thầm: “Không lẽ hai gã này cố ý nói cho mình nghe chăng? Nếu không thì sao lại vừa khéo đến thế?”. Y liếc mắt ngó qua, thấy một người hùng dũng hiên ngang, mặc đồ tang, còn một người nhỏ bé gầy gò chẳng khác gì người bị lao.
Cưu Ma Trí vừa liếc qua biết ngay hai người này có võ công, chưa biết có nên mở lời hỏi thăm không, Đoàn Dự đã kêu lên:
– Hoắc tiên sinh, Hoắc tiên sinh, ông cũng ở đây à?
Thì ra người hình dung ti tiện kia chính là Kim Toán Bàn Thôi Bách Tuyền còn người kia thì là sư điệt của ông ta Truy Hồn Thủ Quá Ngạn Chi.
Hai người đó ra khỏi Đại Lý, nhất định báo thù cho Kha Bách Tuế biết rằng họ Mộ Dung võ công hết sức cao cường, mối thù này khó lòng mà trả được những cũng nhất quyết tìm đến Tô Châu. Họ dò hỏi biết được họ Mộ Dung ở tại Yến Tử ổ nhưng Mộ Dung Bác tạ thế đã lâu, làm sao có thể sát hại Kha Bách Tuế được, hẳn là một người nào khác trong nhà Mộ Dung. Hai người thấy việc báo cừu xem ra có đôi phần hi vọng, đi đến bờ hồ lại gặp phải Cưu Ma Trí và Đoàn Dự.
Thôi Bách Tuyền đột nhiên nghe thấy Đoàn Dự gọi tên mình, còn đang ngạc nhiên vội vàng đi tới, thấy một nhà sư ngồi trên lưng ngựa, tay trái nắm giây cương con ngựa Đoàn Dự đang cưỡi còn Đoàn Dự thì hai tay thẳng đơ xuôi theo bên mình, hiển nhiên đã bị điểm trúng huyệt đạo, lạ lùng hỏi:
– Tiểu vương gia đấy ư? Này, đại hòa thượng, tại sao ông lại gây khó cho vị công tử này? Ông có biết đây là ai không?
Cưu Ma Trí có coi hai người này vào đâu nhưng nghĩ mình chưa từng tới trung nguyên, nhà của Mộ Dung tiên sinh ở nơi nào không dễ gì tìm cho ra, được hai người này dẫn đường thật tốt biết chừng nào bèn nói:
– Ta muốn đến phủ đệ nhà Mộ Dung, phiền hai vị dẫn đường cho.
Thôi Bách Tuyền nói:
– Xin hỏi pháp danh của đại hòa thượng là gì? Sao dám đắc tội với tiểu vương gia họ Đoàn? Đến phủ Mộ Dung có chuyện chi?
Cưu Ma Trí đáp:
– Tới đó tự khắc sẽ biết.
Thôi Bách Tuyền hỏi:
– Đại sư là bằng hữu với nhà Mộ Dung chăng?
Cưu Ma Trí đáp:
– Đúng thế, Tham Hợp Trang nơi ở của Mộ Dung tiên sinh ở nơi nào, Hoắc tiên sinh nếu biết, xin chỉ giùm cho.
Cưu Ma Trí thấy Đoàn Dự gọi y là “Hoắc tiên sinh” lại tưởng y họ Hoắc thật. Thôi Bách Tuyền gãi đầu, quay sang Đoàn Dự hỏi:
– Tiểu vương gia, để tôi giải khai huyệt đạo trên tay tiểu vương gia rồi tính sau.
Y tiến lên mấy bước, đưa tay định giải huyệt cho Đoàn Dự.
Đoàn Dự nghĩ thầm Cưu Ma Trí võ công cao siêu không đâu kể xiết, trên đời e rằng khó có ai bì kịp, Thôi Quá hai người không thể nào địch lại y, nếu lơ ngơ đến cứu mình thì chỉ uổng mạng thôi nên tốt hơn hết bảo họ chạy trốn bèn nói:
– Khoan đã, vị đại sư đây một thân một mình đánh bại bá phụ ta và năm cao thủ khác của nước Đại Lý, bắt ta đem tới đây. Ông ta là bạn bè tri kỷ của Mộ Dung tiên sinh, muốn đem ta đến đốt sống trước mộ để tế, hai vị không liên quan gì đến Mộ Dung Cô Tô, mau mau tránh ra nơi khác.
Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi nghe thấy hòa thượng này đánh bại Bảo Định Đế và các cao thủ khác, trong bụng kinh hãi, lại nghe nói y là bạn chí cốt của nhà Mộ Dung lại thêm hoảng hồn. Thôi Bách Tuyền nghĩ mình ẩn náu trong phủ Trấn Nam Vương hơn một chục năm, hôm nay tiểu vương gia bị nạn, lẽ nào làm lơ không ngó ngàng gì đến? Vả lại đã đến Cô Tô rồi, cái mạng mình vốn đã coi như xong, dẫu chết dưới những quân bàn toán như họ vẫn làm hay chết trong tay người khác thì có khác gì nhau. Nghĩ thế y bèn thò tay vào bọc lấy ra chiếc bàn toán đúc bằng vàng sáng chói, giơ lên lắc lắc nghe tiếng leng keng rộn rã nói:
– Đại hòa thượng, nếu Mộ Dung tiên sinh là bạn của ông thì tiểu vương gia đây cũng là bạn của ta, ta khuyên ông nên thả y ra đi.
Quá Ngạn Chi cũng lấy nhuyễn tiên quấn ở quanh bụng ra cầm trên tay, hai người cùng xông vào đầu ngựa của Cưu Ma Trí. Đoàn Dự kêu lên:
– Hai vị chạy mau lên, đánh không lại y đâu.
Cưu Ma Trí cười nhạt nói:
– Muốn động thủ thực chăng?
Thôi Bách Tuyền đáp:
– Đánh thế này ta biết là vuốt râu hùm, đánh không lại thực nhưng cũng thử một phen, sống chết … ối ối ….
Chẳng biết y định nói “sống chết” cái gì, Cưu Ma Trí đã giơ tay đoạt nhuyễn tiên của Quá Ngạn Chi, kế đó nghe bạch một tiếng, hất ngược nhuyễn tiên lại cuốn lấy chiếc bàn toán trong tay Thôi Bách Tuyền, vung tay một cái, cả hai món binh khí cùng rơi xuống mé hồ bên phải, tưởng đâu sẽ chìm xuống đáy nước không ngờ Cưu Ma Trí sử kình rất chính xác, cán của nhuyễn tiên vòng một vòng, quấn luôn vào một cành liễu rủ trên mặt nước, cả cành cây lẫn nhuyễn tiên rún rẩy không ngừng. Chiếc bàn toán nhấp nhô chạm lên mặt nước thành những vòng tròn lan mỗi lúc một rộng.
Cưu Ma Trí chắp tay nói:
– Phiền đại giá của hai vị dẫn đường dùm.
Thôi Quá hai người mặt mày bàng hoàng, không biết làm sao cho phải. Cưu Ma Trí nói tiếp:
– Nếu hai vị không muốn dẫn đường thì xin chỉ đường tới Tham Hợp Trang ở Yến Tử ổ vậy, tiểu tăng tự mình tìm tới cũng không sao.
Thôi Quá thấy võ công y cao cường như thế, thần thái lại hết sức khiêm hòa, quả thực có muốn nổi giận cũng không xong mà không nổi giận thì lại càng không được.
Ngay lúc đó, bỗng nghe có tiếng nước khua, trên mặt hồ một chiếc thuyền con theo làn sóng xanh đi tới. Trên thuyền là một cô gái mặc áo dài màu lục, hai tay cầm hai mái giầm chậm rãi chèo, miệng hát véo von một bài ca rằng:
Trên ao thơm ngát hương sen,
Cô kia tham hái khiến quên cả về.
Đầu thuyền khuấy nước say mê,
Cười anh vịt nhỏ chạy te khỏi quần.
Hạm đạm hương liên thất khoảnh bi,
Tiểu cô tham hí thái liên trì.
Vãn lai lộng thủy thuyền đầu thản,
Tiếu thoát hồng quần lý áp nhi.
Tiếng hát thánh thót dịu dàng khiến người nghe phải vui lây. Đoàn Dự khi còn ở Đại Lý thường ngâm đọc thơ phú người xưa, đã ghi sâu phong vật Giang Nam, bây giờ được nghe khúc hát khiến hồn không khỏi lâng lâng. Chỉ thấy cô gái kia hai cánh tay trắng muốt như ngọc, phản chiếu làn sóng xanh, tưởng chừng như sáng lóe lên. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi tuy đại địch ngay trước mặt nhưng cũng không khỏi quay đầu liếc nhìn cô gái mấy bận.
Chỉ có Cưu Ma Trí nhìn mà như không thấy, nghe mà như không lọt tai nói tiếp:
– Nếu hai vị không chịu nói cho biết Tham Hợp Trang ở đâu, tiểu tăng đành phải cáo từ.
Khi đó cô gái chèo chiếc thuyền nhỏ đã đến bờ hồ nghe Cưu Ma Trí nói như thế bèn xen vào:
– Vị đại sư phụ kia muốn đến Tham Hợp Trang chẳng hay có chuyện chi rứa?
Giọng nói thật trong trẻo dịu dàng khiến người nghe thấy lòng thật thoải mái. Cô gái đó tuổi chừng mười sáu mười bảy, mặt đầy vẻ ôn nhu, thân hình hết sức thanh tú.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Không ngờ con gái Giang Nam lại xinh đẹp nho nhã đến thế”. Thực ra cô gái này không đẹp lắm đâu, so với Mộc Uyển Thanh còn kém một chút, thế nhưng mặt mũi chỉ tám phần còn vẻ ôn nhu thêm hai phần nữa nên không sút chút nào với những mỹ nữ mười phân vẹn mười.
Cưu Ma Trí nói:
– Tiểu tăng muốn đến Tham Hợp Trang, liệu tiểu nương tử có thể chỉ đường cho được chăng?
Cô gái mỉm cười đáp:
– Cái tên Tham Hợp Trang người bên ngoài làm răng mà biết được, đại sư phụ nghe ở mô vậy chừ?
Cưu Ma Trí đáp:
– Tiểu tăng là người phương xa kết giao rất thân với Mộ Dung tiên sinh, đặc biệt đến trước mộ người bạn cũ tế một tuần để hoàn thành lời ước năm xưa lại cũng mong được thấy thanh phạm của Mộ Dung công tử một lần.
Cô gái ngẫm nghĩ rồi đáp:
– Thế thì quả là phí công, Mộ Dung công tử vừa mới đi khỏi, giá như đại sư phụ tới sớm ba bữa thì đã gặp được công tử rồi.
Cưu Ma Trí nói:
– Giá như được gặp công tử một lần thì thật thỏa nguyện. Thế nhưng tiểu tăng từ nước Thổ Phồn xa xôi diệu vợi tới Trung Thổ, chỉ mong được tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh lạy một lạy để hoàn thành tâm nguyện năm xưa mà thôi.
Thiếu nữ đáp:
– Nếu đại sư phụ là bạn thân của Mộ Dung tiên sinh thì xin ghé uống một chén trà lạt đã, tiểu nữ sẽ vào báo tin, liệu có nên chăng?
Cưu Ma Trí đáp:
– Tiểu nương tử là người thế nào trong phủ công tử? Nên xưng hô làm sao cho phải?
Cô gái cười khúc khích nói:
– Ôi chao! Tiểu nữ chỉ là người gẩy đàn thổi sáo hầu hạ công tử, tên gọi A Bích. Đại sư phụ chẳng nên đại nương tử, tiểu nương tử làm gì cho khách sáo ra, cứ gọi A Bích là được rồi.
Nàng nói giọng Tô Châu vốn thật khó nghe, thế nhưng là thị tì trong một đại thế gia võ lâm chắc bình thời nghe tiếng quan thoại cũng nhiều nên ăn nói thêm nhiều tiếng phổ thông Cưu Ma Trí và Đoàn Dự cố gắng cũng hiểu được. Cưu Ma Trí cung kính đáp:
– Không dám._
A Bích nói:
– Từ đây vào Cầm Vận tiểu trúc trong Yến Tử ổ đều là đường thủy, nếu tất cả các vị đều muốn đến thì tiểu nữ chở thuyền vào, liệu có nên chăng?
Mỗi câu nói cô gái lại thêm vào “liệu có nên chăng?”, vừa có vẻ ân cần hỏi han, lại như bàn thảo khiến cho người nghe khó mà từ chối. Cưu Ma Trí đáp:
– Thế thì xin phiền cô nương.
Y nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ. Chiếc thuyền chỉ hơi chìm xuống một chút mà không chòng chành chút nào. A Bích quay sang mỉm cười với Cưu Ma Trí và Đoàn Dự, dường như muốn khen: “Công phu giỏi thật!”.
Quá Ngạn Chi hỏi nhỏ:
– Sư thúc, mình tính sao đây?
Hai người đến kiếm nhà Mộ Dung báo thù nhưng gặp phải cảnh khó xử này thực là sượng sùng. A Bích mỉm cười:
– Hai vị đại gia đến Tô Châu, nếu không có gì gấp gáp, xin mời đến tệ xứ uống chén trà lạt, ăn chút điểm tâm. Đừng sợ chiếc thuyền này nhỏ không đủ sức, có thêm vài người nữa cũng không chìm đâu mà sợ.
Nàng nhẹ nhàng chèo thuyền đến dưới cây liễu nhặt lấy nhuyễn tiên cùng chiếc bàn toán, tiện tay khẩy mấy hạt toán châu, nghe lách cách leng keng. Đoàn Dự nghe vài tiếng, vui vẻ hỏi:
– Cô nương đàn khúc “Hái Dâu” đấy ư?
Thì ra cô gái thuận tay gẩy mấy viên bàn toán, nặng nhẹ nhanh chậm cũng thành tiết tấu, nghe ra hai câu rất linh động trong trẻo của bài “Hái Dâu”. A Bích mỉm cười nói:
– Công tử tinh thông âm luật, vậy đàn thử một khúc xem sao?
Đoàn Dự thấy nàng ngây thơ hồn nhiên, vui vẻ dễ thân cận cũng cười đáp:
– Tôi đâu có biết gẩy bàn toán.
Chàng quay lại nói với Thôi Bách Tuyền:
– Hoắc tiên sinh, cô này gẩy cái bàn toán của ông nghe hay quá.
Thôi Bách Tuyền cũng bật cười:
– Quả đúng thế! Cô nương thật là thanh nhã, cái món đồ nghề đầy tục khí của ta vào tay cô nương lại cũng thành một món nhạc khí.
A Bích đáp:
– Chao ôi! Quả là không phải chút nào. Cái này của Thôi đại gia đấy sao? Chiếc bàn toán này thật là quí giá, nhà ông chắc phải có của ăn của để nên cả cái bàn toán cũng đúc bằng vàng. Hoắc đại gia, xin trả lại ông đây.
Cô gái cầm chiếc bàn toán vươn tay đưa ra. Thôi Bách Tuyền đang ở trên bờ không thể nào vói tới, y cũng không thể nào bỏ món vật bất ly thân kia được, đành nhẹ nhàng nhảy lên đầu thuyền, giơ tay đón lấy chiếc bàn toán, quay sang trừng mắt nhìn Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí vẻ mặt vẫn đầy vẻ từ hòa, mỉm cười không tỏ vẻ gì khó chịu.
A Bích tay trái cầm cán cây nhuyễn tiên giơ lên cao, năm ngón tay phải vuốt xuôi xuống, móng tay chạm vào những đốt nổi gồ lên phát ra những tiếng leng keng, tình tang khi cao khi thấp. Năm ngón tay nàng vuốt chẳng khác gì người gảy đàn tì bà, món binh khí đã từng chiến đấu khắp hai miền nam bắc Trường giang với biết bao anh hùng hắc bạch, nay vào bàn tay trắng trẻo mềm mại của nàng lại biến thành một món nhạc khí.
Đoàn Dự kêu lên:
– Hay quá! Hay quá! Cô nương thử đàn một bản xem nào.
A Bích quang sang Quá Ngạn Chi nói:
– Nhuyễn tiên này có phải của vị đại gia kia không? Tôi chẳng biết trời trăng gì lấy ra nghịch thực là vô lễ. Đại gia cũng xuống thuyền đi thôi, một lát nữa tôi sẽ bóc hồng lăng_ tươi cho ông ăn.
Quá Ngạn Chi nghĩ đến mối thù của sư phụ, hận nhà họ Mộ Dung đất Cô Tô thấu xương, nhưng thấy tiểu cô nương này nói năng nhí nhảnh, ngây thơ hồn nhiên ên trong bụng tuy đầy thù hằn nhưng cũng không thể nổi sùng với cô ta được, bụng nghĩ thầm: “Cô ta đưa mình đến trang viện thật hay biết mấy, thể nào mình cũng giết được vài đứa báo thù cho ân sư”. Nghĩ thế bèn gật đầu nhảy xuống thuyền.
A Bích cuộn gọn gàng cây nhuyễn tiên giao lại cho Quá Ngạn Chi, vừa chèo một cái, chiếc thuyền đã lướt về hướng tây. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi đưa mắt ra hiệu cho nhau, cùng nghĩ: “Hôm nay mình chui vào hang cọp, không biết sống chết thế nào. Nhà Mộ Dung ra tay thật là độc ác, tiểu cô nương này nhỏ nhẹ dễ thương, xem ra không phải là giả dối, nhưng biết đâu chẳng phải là kế của họ dụ cho địch sinh ra kiêu căng để mình không đề phòng rồi thừa cơ hạ thủ?”.
Thuyền đi trên mặt hồ, quẹo qua quẹo lại mấy lần, rồi đi vào một chiếc đầm lớn, nhìn ra đằng xa thấy khói lung linh bốc lên, mặt nước xa tít tận chân trời. Quá Ngạn Chi trong bụng hãi thầm: “Chiếc hồ này chắc là Thái Hồ_ đây. Ta và Thôi sư thúc đều không biết bơi, con bé này chỉ cần lật thuyền là cả hai người mình sẽ vào bụng cá ngay, còn nói gì đến việc báo thù cho thầy nữa?”.
Thôi Bách Tuyền cũng đã nghĩ đến chuyện đó, nghĩ bụng nếu mình cầm được mái chèo trong tay, nếu cô gái này muốn lật thuyền thì cũng không phải là dễ bèn nói:
– Cô nương, để ta giúp cô chèo thuyền, cô chỉ cần chỉ đường là đủ.
A Bích cười nói:
– Ôi chao, tiểu nữ không dám. Nếu công tử biết được thể nào cũng mắng là coi thường khách.
Thôi Bách Tuyền thấy nàng từ chối lại càng nghi hơn, cười nói:
– Chẳng dấu gì cô, chúng tôi chỉ muốn cô trổ tài dùng nhuyễn tiên đàn một khúc. Chúng tôi là người thô lỗ không phải như Đoàn công tử đây, cầm kỳ thư họa môn nào cũng tinh thông.
A Bích nhìn Đoàn Dự cười nói:
– Tiểu nữ đàn có ra gì đâu, sao dám gọi là tuyệt kỹ? Đoàn công tử phong nhã như thế, nghe sẽ cười bằng thích, tôi chẳng đàn đâu.
Thôi Bách Tuyền cầm cây nhuyễn tiên trên tay Quá Ngạn Chi đặt vào tay cô gái tay kia cầm lấy mái chèo nói:
– Này cô! Cứ đàn đi nào!
A Bích cười nói:
– Thôi được, cho tôi mượn cái bàn toán của ông để đánh nhịp vậy.
Thôi Bách Tuyền trong bụng hơi e dè: “Cô ta muốn lấy luôn cả hai món binh khí của mình, không lẽ không có âm mưu gì sao?”. Thế nhưng đã đến nước này không tiện từ khước đành đưa cho cô ta chiếc kim toán bàn. A Bích để chiếc bàn toán lên sàn thuyền trước mặt, tay trái cầm cán nhuyễn tiên, chân trái đạp lên đầu roi, kéo thẳng ra, năm ngón tay phải vừa vuốt vừa búng, nhuyễn tiên liền phát ra âm thanh tính tang, tuy không réo rắt thánh thoát như tì bà những nghe cũng thật êm dịu.
Năm ngón tay của A Bích đàn nhuyễn tiên thỉnh thoảng lại nghỉ đưa ngón tay khẩy chiếc bàn toán, những hạt toán châu leng keng hòa với tiếng tình tang của nhuyễn tiên, lại càng vui tai. Ngay khi đó, bỗng thấy hai con chim ém sà ngang đầu thuyền, bay vụt về hướng tay. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nơi nhà Mộ Dung ở có tên là Yến Tử ổ, chắc hẳn chim én nhiều lắm”.
Lại nghe A Bích cất tiếng hát rằng:
Sớm mai nơi trước hiên nhà,
Hai con chim én bay sà xuống sân.
Phượng hoàng làm tổ cũng gần,
Khói Tiêu Tương cũng ân cần làm quen.
Lầu hồng cũng lại trèo lên,
Bờ sông biếc cũng chập chờn dừng chân.
Thuận đưa nét vẽ tay thần,
Tiếng oanh dìu dặt thả hồn mê ly.
Vì ai đến vì ai đi?
Rèm châu cuốn bức ơn kia nghìn trùng.
Nhị xã lương thần,
Thiên gia đình viện.
Phiên phiên hựu đổ song phi yến,
Phượng hoàng sào ổn hứa vi lân,
Tiêu Tương yên minh lai hà vãn?
Loạn nhập hồng lâu,
Để phi lục ngạn,
Họa lương khinh phất ca trần chuyển,
Vi thùy qui khứ vi thùy lai?
Chủ nhân ân trọng châu liêm quyển.
Đoàn Dự nghe nàng hát thật là ôn nhu tình tứ không khỏi lòng thấy mênh mang, nghĩ thầm: “Nếu như ta cứ suốt đời chui rúc ở nam cương, làm sao có được những giờ phút thần tiên như thế này?”.
Vì ai đến vì ai đi?
Rèm châu cuốn bức ơn kia nghìn trùng.
Mộ Dung công tử có người nữ tì như thế này hẳn phải là nhân vật phi thường. A Bích hát xong khúc hát đó rồi đưa bàn toán và nhuyễn tiên trả lại cho Thôi Quá hai người, cười nói:
– Hát chẳng ra gì, quí khách đừng cười nhé! Hoắc đại gia, xin chèo vào con lạch nhỏ phía bên trái, đó đó! Đúng rồi!
Thôi Bách Tuyền thấy nàng trả lại binh khí cho mình mới thấy yên bụng, bèn theo đúng lời nàng đi vào một con lạch nhỏ, có điều mặt hồ mọc đầy những lá sen, nếu không được cô ta chỉ điểm thì không ai có thể biết được giữa đám lá sen lại có một con đường. Thôi Bách Tuyền chèo một hồi, A Bích lại chỉ một con đường khác:
– Bơi qua phía kia kìa.
Phía đó mặt nước đầy những cây và trái hồng lăng, trong làn sóng xanh chập chờn, lăng đỏ lá xanh quả thật đẹp không thể tả. A Bích thuận tay hái hồng lăng chia cho mọi người.
Hai tay Đoàn Dự tuy vẫn cử động được nhưng sau khi huyệt đạo bị điểm rồi không có chút hơi sức nào, đến cái vỏ hồng lăng cũng không bóc được. A Bích cười nói:
– Công tử gia không phải người Giang Nam nên không biết bóc lăng, để tiểu nữ bóc dùm cho.
Cô ta bóc luôn mấy trái để vào tay chàng. Đoàn Dự thấy quả ấu đó trơn nhẵn bỏ vào mồm thơm phức, ăn ngon lạ thường cười nói:
– Hồng lăng này ăn bùi mà không ngấy, thật chẳng khác gì nghe cô nương hát vậy.
A Bích mặt ửng hồng cười nói:
– Đem bài hát của tôi so với trái hồng lăng, hôm nay mới là lần đầu nghe đến, xin đa tạ công tử.
Thuyền chưa qua khỏi hồ lăng, A Bích lại chỉ đường chèo thuyền vào một vùng lau lách và giao bạch_ khiến cho cả đến Cưu Ma Trí cũng nổi lòng e dè, trong bụng cố ghi nhớ đường đi của con thuyền để phòng khi đi ra không bị lạc lối. Mọi người đưa mắt nhìn quanh thấy mặt hồ toàn là lá sen, lá ấu, lau niễng nổi phất phơ trên mặt nước chỗ nào cũng giống chỗ nào, mỗi khi gió thổi lại biến đổi đủ chiều, dẫu lúc này có nhớ kỹ đến mấy thì chỉ chốc lát cục diện đã hoàn toàn khác hẳn.
Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi ba người chăm chăm nhìn vào mắt A Bích, cố gắng xem cô ta bằng cách nào tìm ra đường và dấu vết, nhưng cô gái chẳng để ý gì chỉ lo hái lăng, vọc nước, tiện đâu chỉ đó, dường như biết bao nhiêu thủy đạo ngang dọc như bàn cờ kia cô rõ như lòng bàn tay, sinh ra đã biết chẳng cần biện nhận làm gì.
Cứ như thế quay qua quẹo lại đến hai giờ, đến khoảng giời Mùi, nhìn thấy xa xa trong đám cây dương liễu xanh rì thấy lộ ra một góc rèm cửa. A Bích nói:
– Đến rồi đây! Hoắc đại gia, phiền ông phải chèo đến cả nửa ngày trời chắc là mệt lắm.
Thôi Bách Tuyền cười gượng:
– Chỉ cần có hồng lăng ăn, nghe tiếng hát, dẫu có phải chèo thuyền mười năm tám năm cũng không mệt.
A Bích vỗ tay reo:
– Nếu như ông muốn nghe hát, muốn ăn lăng thì có gì là khó? Cứ ở luôn trong đây không ra nữa là xong.
Thôi Bách Tuyền nghe cô ta bảo “Cứ ở luôn trong đây không ra nữa là xong” không khỏi kinh hãi, giương đôi mắt ti hí nhìn cô ta một hồi, chỉ thấy cô gái cười khúc khích xem ra không có bụng dạ nào nhưng cũng không vì thế mà yên tâm.
A Bích cầm lấy mái chèo, chèo thẳng vào dưới tàn cây liễu, đến gần hơn, thấy một cành thông làm thành chiếc thang, rủ xuống mặt nước. A Bích buộc chiếc thuyền vào cành cây, bỗng nghe trên cành liễu một con chim nhỏ hót ríu ra ríu rít nghe thật trong trẻo. A Bích cũng bắt chước tiếng chim ríu rít mấy tiếng, quay đầu lại mỉm cười:
– Xin quí khách lên bờ.
Mọi người lần lượt trèo lên, thấy lơ thơ mấy gian nhà dựng trên một khu đất chẳng hiểu là một hòn đảo hay một bán đảo. Những mái nhà đó trông be bé xinh xinh có vẻ tinh nhã, trên biển ngạch đề hai chữ “Cầm Vận”, nét bút tiêu sái. Cưu Ma Trí nói:
– Có phải đây là Tham Hợp Trang ở Yến Tử ổ chăng?
A Bích lắc đầu:
– Không phải. Chỗ này là công tử dựng lên cho tôi ở, nhỏ bé thế này đâu đáng để tiếp quí khách. Hiềm vì đại sư phụ nói là muốn đến tế mộ Mộ Dung lão gia nên tôi không quyết định được, đành phải để các vị chờ ở đây để tôi đi hỏi A Châu tỉ tỉ.
Cưu Ma Trí nghe nói thế, trong bụng hơi bực, mặt sầm xuống. Y là Hộ Quốc Pháp Vương nước Thổ Phồn, thân phận cao quí biết là nhường nào? Không những y ở Thổ Phồn được nhà vua kính trọng, dẫu có đến triều đình các nước Đại Tống, Đại Lý, Liêu Quốc, Tây Hạ, các vị đế vương cũng phải lấy lễ quí tân mà tiếp đãi, huống chi y lại là kẻ tri giao cựu hữu của Mộ Dung tiên sinh, lần này thân hành đến tế mộ, Mộ Dung công tử vì không biết trước nên đi khỏi thì đã đành, vậy mà bọn kẻ ăn người ở lại không mời y vào khách sảnh tiếp đãi cho long trọng, lại đưa đến biệt viện của đứa tiểu tì chẳng là coi thường nhau lắm hay sao? Thế nhưng y thấy A Bích ăn nói líu lo chẳng có vẻ gì khinh mạn nên nghĩ thầm: “Con tiểu a đầu này chẳng biết gì mình để ý đến nó làm chi?”. Nghĩ như thế y thấy lòng bình thản trở lại.
Thôi Bách Tuyền hỏi:
– A Châu tỉ tỉ của cô là ai thế?
A Bích cười đáp:
– A Châu là A Châu, chị ấy lớn hơn tôi một tháng nên phải gọi bằng chị đấy thôi. Tôi phải gọi bằng chị chứ biết làm sao hơn, ai bảo chị ta hơn một tháng làm chi? Còn ông đâu cần gọi bằng chị, nhưng nếu như gọi bằng chị là chị ấy thích lắm đó!
Cô ta vừa dẫn mọi người vào nhà vừa nói líu lo, âm thanh trầm bổng như tiếng đàn tiếng sáo. Vào đến trong sảnh, A Bích mời mọi người ngồi, sau đó có người đầy tớ bưng trà lên. Đoàn Dự cầm chén trà thấy mùi thơm ngát bốc lên mũi, mở nắp ra, thấy trà màu xanh lợt có những lá trà biếc mọc đầy lông tơ, trông như những hạt châu cuộn nổi trên mặt nước. Đoàn Dự chưa từng thấy bao giờ, đưa lên miệng nhắp thử một ngụm, thấy ngon ngọt lạ thường, nước dãi chảy đầy lưỡi. Cưu Ma Trí và Thôi, Quá hai người thấy lá trà kỳ lạ không ai dám uống. Loại trà tròn như hạt châu này là đặc sản trồng trên núi cao ở vùng kề bên Thái Hồ, người sau gọi là Bích Loa Xuân_, đời Bắc Tống chưa có cái tên thanh tao đó, dân vùng này chỉ gọi là loại trà “thơm phức” để ca tụng mùi hương đặc biệt. Cưu Ma Trí xưa nay chỉ ở Thổ Phồn và Tây Vực, quen uống loại trà đen đắng chát, bây giờ thấy loại trà xanh lông lá thế này, sợ có độc không dám đụng tới.
Bốn món điểm tâm gồm có kẹo Mai Côi, bánh dẻo Phục Linh, bánh ngọt Phí Thúy, bánh bao bột sen hình dáng tinh nhã, cái nào cái nấy trông tưởng như chỉ để chưng chứ không phải để ăn. Đoàn Dự tấm tắc:
– Mấy món điểm tâm trông đẹp thế này, ăn chắc là ngon lắn đó, nhưng thật chẳng nỡ lòng nào mà bỏ vào mồm.
A Bích mỉm cười nói:
– Công tử cứ việc ăn đi, chúng tôi vẫn còn nhiều.
Đoàn Dự cứ ăn một miếng lại nắc nỏm khen, thật là sướng miệng. Cưu Ma Trí và Thôi, Quá hai người không ai dám ăn, Đoàn Dự trong lòng khởi nghi: “Gã Cưu Ma Trí này tự xưng là bạn thân của Mộ Dung Bác, sao lại cái gì cũng dè dặt đến thế? Còn người trong trang viện nhà Mộ Dung đối đãi với y cũng không có gì đặc biệt”.
Lòng kiên nhẫn của Cưu Ma Trí quả không vừa, y đợi đến khi Đoàn Dự uống trà, ăn bánh khen vuốt đuôi thêm vài câu xong rồi mới nói:
– Như vậy thì nhờ cô nương thông tri cho A Châu tỉ tỉ của cô đi.
A Bích cười nói:
– Chỗ A Châu tỉ tỉ ở cách đây bốn con chín đường thủy, hôm nay không kịp nữa rồi, bốn vị ở đây qua một đêm, sáng sớm ngày mai, tiểu nữ sẽ đưa các vị đến Thính Hương Thủy Tạ.
Thôi Bách Tuyền hỏi lại:
– Bốn con chín đường thủy là gì thế?
A Bích đáp:
– Một con chín là chín dặm, hai con chín là mười tám dặm, bốn con chín là ba mươi sáu dặm. Ông lấy bàn toán ra tính là xong ngay.
Thì ra một giải Giang Nam, nói đến khoảng cách lộ trình tính theo một chín, hai chín. Cưu Ma Trí nói:
– Nếu biết sớm sao cô không đưa chúng tôi đến ngay Thính Hương Thủy Tạ có phải hay hơn không?
A Bích cười nói:
– Nơi đây chẳng có ai bầu bạn chuyện trò, buồn đến chết được. Dễ gì có được vài người khách đến chơi? Tiểu nữ vì thế muốn lưu quí vị lại một ngày.
Quá Ngạn Chi từ trước đến nay vẫn ngồi yên không nói một câu, bây giờ bỗng đứng bật dậy, quát lớn:
– Thân nhân nhà Mộ Dung ở nơi nào? Quá Ngạn Chi này đến Tham Hợp Trang không phải để uống trà ăn bánh, cũng chẳng phải đển kể chuyện vui cho ngươi nghe, mà là đến giết người báo thù, máu chảy đầu rơi. Họ Quá này đã đến được nơi đây, không mong gì sống được mà ra về. Cô nương, nhờ cô đi nói cho họ hay, ta là đệ tử của Kha Bách Tuế phái Phục Ngưu, hôm nay đến đây báo thù cho sư phụ.
Nói xong y vung nhuyễn tiên một cái, nghe lách cách một tiếng đã đánh vỡ tan một chiếc bàn trà bằng gỗ tử đàn và một chiếc ghế tre bằng trúc Tương Phi. A Bích không có vẻ gì kinh hoàng, cũng không nổi giận chỉ nói:
– Anh hùng hào kiệt trên giang hồ đến gặp công tử tháng nào cũng có vài người, cũng có người bặm trợn, hầm hè như Quá đại gia, phận con đòi như tiểu nữ đâu có sợ …
Nàng chưa nói dứt câu, từ hậu đường một ông già râu tóc trắng xóa chống gậy bước ra nói:
– A Bích, ai ở ngoài này la lối om sòm như thế?
Người đó nói tiếng quan thoại, ngữ âm thật là đúng giọng. Thôi Bách Tuyền đứng phắt lên đứng bên cạnh Quá Ngạn Chi, quát hỏi:
– Sư huynh ta Kha Bách Tuế chết vì tay ai?
Đoàn Dự thấy ông già kia thân hình lọm khọm, mặt mũi nhăn nheo, không chín mươi thì cũng phải tám chục tuổi, nghe ông ta lầm bầm:
– Kha Bách Tuế, Kha Bách Tuế, Hừ, nếu đã sống đến một trăm, có chết cũng vừa.
Quá Ngạn Chi đến Tô Châu chỉ nghĩ đến chuyện tới nhà Mộ Dung chém giết một phen cho phỉ chí để báo thù cho ân sư thế nhưng sau khi bị Cưu Ma Trí đoạt mất binh khí y cảm thấy mất tinh thần, kế đến gặp một cô gái nhỏ dễ thương như A Bích, bao nhiêu oán hận trong lòng không có chỗ nào phát tiết, nay nghe lão già này ăn nói vô lễ liền vung nhuyễn tiên lên, đầu cây tiên phóng ra điểm luôn vào lưng lão ta. Y thấy Cưu Ma Trí ngồi bên cánh tây, đề phòng nhà sư ra tay ngăn trở nên ngọn roi từ phía đông đánh tới.
Ngờ đâu Cưu Ma Trí vươn tay ra, lòng bàn tay như có sức hút, nhuyễn tiên ở tận đằng xa cũng chộp ngay được, nói:
– Quá đại hiệp, chúng ta là khách từ xa đến, có gì để nói chuyện đầu đuôi, chưa việc gì phải động võ.
Y cuộn nhuyễn tiên lại trao trả cho Quá Ngạn Chi. Quá Ngạn Chi mặt đỏ gay, cầm cũng dở mà không cầm thì cũng không được, chợt nghĩ ngay: “Hôm nay chuyện báo thù mới là chuyện lớn, phải nén cái nhục nhất thời để có binh khí cầm trong tay”. Y nghĩ thế bèn đưa tay cầm lấy.
Cưu Ma Trí nói với ông lão:
– Chẳng hay thí chủ tôn tính đại danh là gì? Là thân thích của Mộ Dung tiên sinh, hay là bạn bè?
Ông già nhếch mép cười đáp:
– Lão đây là đầy tớ của công tử, làm gì có tôn tính đại danh? Nghe nói đại sư phụ là bằng hữu của lão gia khi còn tại thế, không biết muốn sai bảo chuyện gì?
Cưu Ma Trí đáp:
– Việc của ta khi gặp mặt công tử rồi sẽ phụng cáo.
Ông già đáp:
– Thế thì thật lỡ làng, hôm qua công tử gia đã ra khỏi nhà, không chừng phải một hai ngày mới về.
Cưu Ma Trí hỏi lại:
– Thế công tử đi đâu thế?
Ông lão nghiêng đầu ngẫm nghĩ, giơ tay gõ gõ lên trán nói:
– Cái đó ư! Ta cũng quên khuấy đi mất, hình như là qua Tây Hạ, cũng có thể là nước Liêu, không chừng lại qua Thổ Phồn, hoặc giả là Đại Lý.
Cưu Ma Trí hừ một tiếng, trong bụng không vui. Thời đó năm nước chia năm góc thiên hạ, trừ đương địa là Đại Tống không kể, lão già này nói cả bốn nước còn lại. Y biết ông lão giả vờ lú lẫn bèn nói:
– Nếu đã thế, ta không thể đợi công tử về được, xin quản gia dẫn ta lại mộ phần tiên sinh lạy một lạy để cho trọn tình cố nhân.
Ông già kia xua tay rối rít nói:
– Chuyện đó ta không quyết định được, ta nào có phải quản gia đâu.
Cưu Ma Trí nói:
– Thế thì ai là quản gia trong tôn phủ? Xin mời ra cho ta gặp.
Ông lão gật gù nói:
– Được chứ, được chứ! Để ta đi mời quản gia.
Y quay người lẩy bẩy đi ra ngoài, lẩm bẩm nói một mình: “Ta bằng từng này tuổi đầu, trên đời này chuyện ma mãnh gì ta chẳng biết? Biết ngay giả làm sư mô đạo sĩ bịp bợm xin cúng dường. Việc gì lão cũng thấy cả rồi, đừng có mà tính chuyện qua mặt”.
Đoàn Dự nghe nói thế cười rộ lên. A Bích vội nói với Cưu Ma Trí:
– Đại sư phụ đừng giận, Hoàng bá bá lẩn thẩn rồi, lúc nào cũng ra vẻ sành sỏi, nói năng hay làm mích lòng người khác.
Thôi Bách Tuyền giật giật tay áo Quá Ngạn Chi lôi qua một bên nói nhỏ:
– Thằng trọc này tự xưng là bằng hữu của nhà Mộ Dung, nhưng bọn này rõ ràng đâu có coi y là khách quí. Mình chớ có nóng nảy, để xem thế nào rồi hãy tính.
Quá Ngạn Chi đáp:
– Vâng!
Hai người trở lại chỗ cũ nhưng chiếc ghế tre Quá Ngạn Chi ngồi đã bị y đánh vỡ nát rồi thành thử không còn chỗ nào. A Bích nhắc chiếc ghế của nàng lại, mỉm cười nói:
– Quá đại gia, mời ông ngồi đây.
Quá Ngạn Chi gật đầu nghĩ thầm: “Nếu ta có phải giết sạch cả nhà Mộ Dung thì cũng tha cho con tiểu a đầu này”. Đoàn Dự thấy ông lão bộc đi vào, trong bụng cảm thấy có điều gì khang khác, xem ra không ổn nhưng đó là việc gì thì chàng không thể nói được. Chàng quan sát kỹ càng những đồ đạc trong gian nhà nhỏ này, cây cối ngoài sân, tranh vẽ trên vách, rồi lại nhìn kỹ A Bích, Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi bốn người, chỗ nào lạ lùng chàng không thể tìm ra, nhưng trong bụng càng lúc càng ngờ vực.
Một lát sau có tiếng chân người, từ nội đường một gã gầy gò tuổi độ ngũ tuần bước ra. Y mặt mũi vàng vọt, dưới cằm để một túm râu dê, trông ra vẻ nhanh nhảu lanh lợi, quần áo mặc trông cũng khá tươm tất, ngón tay út bên trái đeo một chiếc nhẫn ngọc, xem chừng là quản gia trong nhà Mộ Dung. Gã đó quay sang Cưu Ma Trí và cả bọn hành lễ nói:
– Tiểu nhân Tôn Tam bái kiến các vị. Đại sư phụ, lão nhân gia muốn đến một lão gia chúng tôi tế một tuần, chúng tôi thật là cảm kích. Có điều công tử đã đi khỏi, không ai hoàn lễ, thật không cung kính chút nào. Đợi công tử về rồi, tiểu nhân đem tấm lòng của đại sư phụ trình lên vậy …
Y nói đến đây, Đoàn Dự bỗng ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng, trong bụng chợt động: “Lạ thật! Lạ thật!”. Hồi nãy khi lão bộc bước vào tiểu sảnh, Đoàn Dự cũng ngửi thấy một mùi thơm nhẹ nhàng. Mùi hương đó tương tự như mùi thơm trên người Mộc Uyển Thanh, tuy cũng có khác nhưng đều là hương của đàn bà con gái. Lúc đầu Đoàn Dự còn tưởng là ở người A Bích tỏa ra nên không để ý, nhưng khi lão bộc kia ra khỏi phòng rồi, mùi thơm kia liền không còn nữa, đến lúc gã tự xưng là Tôn Tam kia bước vào, Đoàn Dự lại ngửi thấy mùi hương kia. Chàng liền hiểu ra, việc mình thấy có gì khác lạ chính là vì tại sao từ một lão già tám, chín mươi lại có mùi con gái mười bảy, mười tám, nghĩ thầm: “Không lẽ sau nhà có trồng kỳ hoa dị thảo gì, nên ai từ đó bước ra thân thể cũng có mùi hương thoang thoảng? Nếu không thì cả lão bộc lẫn gã gầy gò này đều là con gái cải trang”.
Mùi hương đó tuy làm Đoàn Dự khởi nghi nhưng thực ra rất là nhẹ, Cưu Ma Trí và hai người kia không ai nhận ra được. Đoàn Dự sở dĩ ngửi thấy được vì chàng và Mộc Uyển Thanh hai người đã trải qua một thời gian thực là nguy hiểm nơi thạch thất, mùi hương đàn bà kia, người khác không nhận ra nhưng chàng đã ghi lòng tạc dạ, so với sạ hương, đàn hương, hoa hương còn đậm đà hơn nhiều. Cưu Ma Trí tuy nội công thâm hậu nhưng cả đời nghiêm thủ sắc giới, dẫu má hồng tóc xanh dưới mắt y cũng chẳng khác gì khô lâu bạch cốt, phấn dịu son thơm cũng không khác gì mùi máu mủ tanh hôi, không phân biệt mùi con trai với con gái.
Đoàn Dự đã nghi Tôn Tam là con gái cải trang, nhưng nhìn qua nhìn lại không thấy chút sơ hở nào, người này thần tình cử chỉ hoàn toàn đàn ông, đến cả hình mạo thanh âm cũng không có chút nào đàn bà con gái. Chàng đột nhiên nghĩ ra: “Đàn bà nếu giả làm đàn ông thì hầu hết cũng không thể nào giả được”. Chàng chăm chú nhìn vào cổ Tôn Tam, thấy chòm râu dê của y phủ xuống không nhìn thấy được cổ họng.
Đoàn Dự đứng lên, giả vờ thưởng ngoạn các bức thiếp và tranh vẽ treo trên tường, đi đến ngang bên Tôn Tam liến qua nhìn lén một cái, thấy cổ họng y quả không có gồ lên, lại nhìn xuống thấy ngực y đầy đặn, tuy không dám chắc đây là đàn bà nhưng một gã đàn ông ốm o như thế, ngực không thể nào tròn trịa như vậy được. Đoàn Dự tìm ra được cái bí mật này thật là thú vị nghĩ thầm: “Bọn họ thật là lắm trò để xem họ định làm gì nữa đây?”.