Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Thiên Long Bát Bộ

Chương 25 – Tòng thử túy (2)

Tác giả: Kim Dung
Chọn tập

Từng khi khắc khoải mơ người ngọc,

Nay càng say đắm mộng giai nhân.

* * *

Đoàn Dự không còn cách nào tránh mặt, từ sau tảng đá bước ra vái một cái thật sâu nói:

-Tiểu sinh phụng mệnh phu nhân tại nơi đây trồng hoa trà không ngờ lại chạm mặt tiểu thư.

Chàng tuy vái dài nhưng mắt vẫn nhìn lên, sợ rằng tiểu thư sẽ buông một câu: “Ta không thích gặp đàn ông lạ” rồi quay mình đi mất, lỡ mất cơ hội thấy mặt cô ta.

Chàng vừa nhìn mặt cô gái, tai bỗng ù đi, mắt hoa lên, hai chân mềm nhũn, không tự chủ nổi khuỵu ngay xuống, nếu không cố gượng e đã rập đầu rồi, nhưng miệng vẫn buột ra:

-Thần tiên tỉ tỉ! Ta … ta nhớ tỉ tỉ kể đâu cho xiết! Đệ tử Đoàn Dự bái kiến sư phụ.

Tướng mạo cô gái trước mặt giống hệt như pho tượng ngọc nơi động núi Vô Lượng không khác chút nào. Vương phu nhân trông đã giống pho tượng nhưng tuổi tác có khác lại cũng không đẹp bằng, còn thiếu nữ này ngoài quần áo phục sức ra, khuôn mặt, đôi mắt, chiếc mũi, đôi môi, trái tai, màu da, thân thể, chân tay không chỗ nào không giống, tưởng như ngọc tượng sống lại không bằng. Chàng trong những khi mơ mộng nghĩ đến pho tượng không biết bao nhiêu nghìn vạn lần, bây giờ thấy ngay trước mắt, không còn biết mình đang ở đâu, ở nhân gian hay đang ở trên trời?

Còn cô gái thì lại tưởng chàng bị điên, kêu lên một tiếng, lùi lại hai bước, sợ hãi nói:

-Ngươi … ngươi …

Đoàn Dự đứng thẳng lên, mắt nhìn trừng trừng vào cô gái, lúc này nhìn càng rõ hơn, bấy giờ mới biết, thiếu nữ so với pho tượng ngọc cũng có đôi phần khác biệt: pho tượng diễm lệ linh động trong thần tình có vẻ như thu hồn nhiếp phách người ta, còn cô gái trước mặt đây có vẻ đoan trang xen lẫn nét thơ ngây, ngoài hình dáng ra, pho tượng so với thiếu nữ này cũng linh hoạt hơn. Chàng bèn nói:

-Từ ngày được bái kiến tiên phạm thần tiên tỉ tỉ trong thạch động, tiểu sinh mừng thầm phúc lộc của mình không ít, ngờ đâu hôm nay lại còn được tận mắt chiêm ngưỡng dung nhan. Thế gian quả có tiên thật, không phải là chuyện hoang đường.

Thiếu nữ quay sang nói với Tiểu Mính:

-Y nói chi rứa? Y … là ai?

Tiểu Mính đáp:

-Y là gã đồ gàn A Châu, A Bích đưa tới. Y nói y biết trồng hoa trà, phu nhân cũng tin y nói nhăng nói cuội.

Cô gái hỏi Đoàn Dự:

-Anh đồ gàn, hồi nãy bọn ta nói chuyện với nhau, ngươi có nghe thấy không?

Đoàn Dự cười đáp:

-Tiểu sinh họ Đoàn, tên Dự, người Đại Lý, đâu có phải là anh đồ gàn. Thần tiên tỉ tỉ và Tiểu Mính tỉ tỉ đây nói chuyện, tôi vô ý nghe thấy cả. Thế nhưng hai vị cứ yên tâm, tiểu sinh nhất định không tiết lộ một câu nửa chữ, bảo đảm Tiểu Mính tỉ tỉ sẽ không bị phu nhân trách phạt.

Thiếu nữ mặt hơi sầm xuống nói:

-Ai cho ngươi tỉ tỉ muội muội gọi càn? Nếu ngươi không nhận mình là anh đồ gàn thì ngươi đã gặp ta bao giờ?

Đoàn Dự hỏi lại:

-Nếu như tiểu sinh không gọi là thần tiên tỉ tỉ thì gọi là gì bây giờ?

Thiếu nữ đáp:

-Ta họ Vương, ngươi gọi ta là Vương cô nương được rồi.

Đoàn Dự lắc đầu:

-Không được! Không được! Trên đời này con gái họ Vương có hàng nghìn hàng vạn, người đẹp như tiên thế kia không lẽ chỉ gọi xuông ba chữ Vương cô nương? Thế thì phải gọi cô là gì nhỉ? Thật khó quá. Gọi cô là Vương tiên tử chăng? Xem ra có vẻ quê mùa quá. Hay là Mạn Đà công chúa? Đại Tống, Đại Lý, Liêu Quốc, Thổ Phồn, Tây Hạ nước nào chẳng có công chúa? Làm sao có người nào sánh được với cô đâu?

Thiếu nữ kia nghe chàng nói lảm nhảm, càng nghe càng thấy quả thực gàn dở, nhưng có điều nghe người ta hồn vía điên đảo ca tụng sắc đẹp mình, nên ít nhiều cũng cảm thấy sung sướng, mỉm cười nói:

-Cũng may cho anh, không bị mạ tôi chặt hai chân.

Đoàn Dự đáp:

-Lệnh đường phu nhân dung mạo cũng không khác gì thần tiên tỉ tỉ, có điều tính tình khác thường, hơi một tí là giết người, xem ra không xứng với dáng dấp thần tiên …

Cô gái hơi nhướng mày nói:

-Thôi anh đi trồng hoa đi, đừng ở đây lải nhải nữa, bọn ta cũng có chuyện cần phải bàn.

Lối nói của nàng quả xem chàng như mọi người phu trồng hoa tầm thường khác. Đoàn Dự vẫn chẳng chịu thôi, chỉ muốn được nói chuyện với nàng thêm vài câu, được nhìn nàng thêm một vài lần nghĩ bụng: “Muốn cho nàng bằng lòng nói chuyện với ta thì chỉ có cách nói về Mộ Dung công tử, ngoài cách đó ra, chẳng có chuyện gì khiến nàng phải quan tâm”. Chàng bèn nói:

-Chùa Thiếu Lâm là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, trong chùa cao tăng hảo thủ không một nghìn thì cũng tám trăm, phần lớn đều tinh thông bảy mươi hai môn tuyệt kỹ. Lần này Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm bị người ta hạ độc thủ giết chết ở chùa Thân Giới, châu Lục Lương, nước Đại Lý, các hòa thượng cho rằng do tay Cô Tô Mộ Dung. Mộ Dung công tử một thân một mình mạo hiểm thật là bất ổn.

Cô gái quả nhiên giật mình, Đoàn Dự không dám nhìn thẳng vào mặt nàng, trong bụng nghĩ thầm: “Nàng lo lắng cho gã tiểu tử Mộ Dung Phục kia như thế, nếu như nhìn vào mặt nàng, không chừng ta ghen tức đến chảy nước mắt mất”. Chàng thấy tà áo màu cánh sen của nàng hơi rung rung, rồi tiếng nói thánh thót như tiếng tiêu của nàng hỏi:

-Tại sao các hòa thượng chùa Thiếu Lâm lại đổ oan cho Cô Tô Mộ Dung? Anh có biết không? Anh … anh cho tôi biết.

Đoàn Dự nghe lời nàng thiết tha năn nỉ, cũng thấy mềm lòng, đang định cho nàng hay những gì mình biết nhưng chợt nghĩ lại: “Những gì mình biết chẳng là bao nhiêu, chỉ biết Huyền Bi đại sư bị trúng phải Vi Đà Chử mà chết, ai ai cũng bảo đó là thuật “Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” trong thiên hạ chỉ có họ Mộ Dung ở Cô Tô có mà thôi. Bao nhiêu tình tiết đó chỉ vài câu là hết, mình nói xong là nàng lại giục mình đi trồng hoa, kiếm được đề tài khác nói chuyện với nàng thật không phải dễ. Thành ra mình phải nói dông nói dài, mỗi ngày chỉ nói một tí, huyên thuyên đông tây, không ra đầu đuôi gì, muốn dài là dài để nàng ngày nào cũng phải đến tìm ta, tìm không thấy là bồn chồn khó chịu”.

Chàng đằng hắng một tiếng nói:

-Bản thân tôi vốn không biết võ công, ngay cả những chiêu thế thật dễ dàng như Kim Kê Độc Lập, Hắc Hổ Thâu Tâm cũng chẳng biết, thế nhưng trong nhà có một người bạn, họ Chu tên là Chu Đan Thần, ngoại hiệu là Bút Nghiễn Sinh, trông người cũng văn nhược nho nhã như tôi, ai cũng bảo là một con mọt sách, vậy mà võ công ông ta thực là ghê gớm. Một hôm nọ tôi thấy ông ta gấp cái quạt, đổi ngược chiều, dùng cán quạt điểm vào đầu vai đại hán nọ nghe bịch một cái, anh chàng kia lập tức rúm người lại, sụm xuống như một cục đất nát, không còn động đậy gì được nữa.

Thiếu nữ nói:

-Ồ, đó là chiêu thứ ba mươi tám trong phép đả huyệt Thanh Lương Phiến, tên là Thấu Cốt Phiến, đảo ngược cán quạt đánh xéo vào huyệt Kiên Trinh. Vị Chu tiên sinh đó thuộc bàng chi của phái Côn Lôn, đệ tử Tam Nhân Quan, phái đó dùng phán quan bút còn ghê gớm hơn dùng cán quạt nhiều. Thôi anh đi thẳng vào chuyện chính đi, đừng nói chuyện võ công nữa.

Câu nói đó nếu như vào tai Chu Đan Thần, y thể nào cũng bội phục lạy phục xuống, thiếu nữ không những nói được tên thủ pháp y dùng, lại cả sư thừa lai lịch, võ học gia số cũng nói đâu ra đấy. Nếu như một võ học danh gia chẳng hạn như bá phụ Đoàn Dự là Đoàn Chính Minh hay phụ thân Đoàn Chính Thuần nghe thấy thể nào cũng hết sức kinh ngạc: “Làm sao một cô gái trẻ tuổi như thế, sao kiến thức võ học lại uyên bác rành mạch thế này?”. Thế nhưng Đoàn Dự hoàn toàn không biết võ công, cô gái kia thuận mồm nói ra, chàng cũng không để vào tai. Chàng cũng không biết cô gái nói đúng hay sai, chỉ chăm chăm nhìn vào đôi hàng mi hơi nhướng lên, đôi môi đỏ thắm mấp máy, đúng cũng được mà sai cũng chẳng sao, không để tâm.

Thiếu nữ hỏi lại:

-Thế vị Chu tiên sinh đó rồi ra sao?

Đoàn Dự chỉ vào một tảng đá bên cạnh hàng trúc nói:

-Câu chuyện này nói ra cũng dài, xin tiểu thư dời gót ngọc, đến ngồi trên tảng đá kia, để cho tiểu sinh được bẩm báo rõ ràng.

Thiếu nữ đáp:

-Sao anh cứ ba hoa chích chòe, không nói phứt ra cho xong? Tôi chẳng có hơi đâu mà ngồi nghe anh mãi.

Đoàn Dự đáp:

-Nếu như hôm nay tiểu thư bận thì ngày mai đi tìm tôi cũng được. Còn như ngày mai cũng bận, để vài ngày nữa cũng không sao. Miễn là phu nhân không cắt lưỡi tôi, tiểu thư có gì cần hỏi, nếu biết là tôi không dấu chút nào, nói cho kỳ hết.

Cô gái dậm chân một cái nhè nhẹ, quay đầu đi không nhìn đến chàng nữa hỏi Tiểu Mính:

-Phu nhân còn nói chi nữa không?

Tiểu Mính đáp:

-Phu nhân nói: “Hừ, tên ngỗ nghịch kia càng lúc càng loạn, đã gây thù chuốc oán với Cái Bang, lại đối đầu với cả chùa Thiếu Lâm, chỉ sợ rồi đây Cô Tô Mộ Dung nhà ngươi chết … chết không có đất mà chôn”.

Cô gái vội nói:

-Mẹ ta biết rõ biểu thiếu gia đang rơi vào cảnh ngộ hung hiểm, sao lại làm lơ không hỏi tới là sao?

Tiểu Mính đáp:

-Dạ phải. Tiểu thư, chỉ sợ phu nhân cho kiếm, tiểu tì xin kiếu thôi. Chuyện mới rồi, tiểu thư tuyệt đối đừng nói ra để cho tì tử còn được hầu hạ tiểu thư vài ba năm.

Cô gái nói:

-Ngươi cứ yên tâm không phải lo chi cả, lẽ nào ta lại hại ngươi hay sao?

Tiểu Mính cáo biệt ra đi, trên mặt lộ vẻ khiếp sợ, Đoàn Dự nghĩ thầm: “Vương phu nhân giết người như ngóe làm cho ai cũng sợ mất vía”.

Cô gái khoan thai đi đến tảng đá xanh nhẹ nhàng ngồi xuống nhưng không gọi Đoàn Dự bảo cùng ngồi. Đoàn Dự cũng không dám tự tiện ngồi bên cạnh nàng, thấy khóm bạch trà ngay kề bên cô gái, còn hai cây kia thì hơi xa hơn, mỹ nhân sánh với danh hoa, quả thực xứng hợp nên thở dài một tiếng:

Người thì nghiêng nước nghiêng thành,

Bên hoa nổi tiếng một cành sánh đôi_.

Không được, không được! Năm xưa Lý Thái Bạch lấy hoa thược dược để so sánh với sắc đẹp của nàng Dương Quí Phi, nếu như ông ta có phúc được gặp tiểu thư thì mới biết rằng hoa kia tuy có rực rỡ nhưng làm sao biết giận hờn, biết nũng nịu, biết cười đùa, biết ưu tư, thực không thể nào bì kịp.

Thiếu nữ buồn bã nói:

-Anh cứ luôn mồm tấm tắc khen tôi đẹp, tôi chẳng biết anh nói thật hay không?

Đoàn Dự hết sức ngạc nhiên, nói:

-Ai không biết Tử Đô là đẹp thì đúng là không có mắt._ Đến đàn ông còn như thế, huống chi một người diễm lệ tuyệt trần như cô nương? Chắc là trong đời cô nghe nhiều người ca tụng quá rồi nên chán ngấy phải không?

Cô gái chậm rãi lắc đầu, trong ánh mắt dường như đầy nỗi u hoài, nói:

-Từ trước tới giờ chẳng ai bảo tôi đẹp hay không đẹp. Trong Mạn Đà Sơn Trang này, ngoài mạ tôi ra, toàn là tì nữ bộc phụ, họ chỉ biết tôi là tiểu thư, có ai để ý tôi đẹp hay xấu làm gì?

Đoàn Dự hỏi lại:

-Thế còn người ngoài thì sao?

Thiếu nữ ngạc nhiên:

-Người ngoài là ai?

Đoàn Dự đáp:

-Thế khi cô đi ra ngoài, người ta thấy cô đẹp như tiên trên trời, chẳng lẽ không tấm tắc khen ngợi, cúi đầu chào hay sao?

Cô gái nói:

-Tôi trước nay đã đi ra ngoài bao giờ đâu, ra để làm chi? Mẹ tôi không cho tôi ra ngoài. Tôi chỉ sang Hoàn Thi Thủy Các bên nhà cô tôi đọc sách thôi, chẳng gặp ai là người ngoài cả, bất quá chỉ có vài người bạn của anh ấy như Đặng đại ca, Công Dã nhị ca, Bao tam ca, Phong tứ ca, nhưng họ … nhưng họ đâu có gàn gàn dở dở như anh.

Nàng nói tới đó bất giác mỉm cười. Đoàn Dự hỏi:

-Không lẽ Mộ Dung công tử … y cũng chẳng nói cô đẹp bao giờ ư?

Cô gái chầm chậm cúi đầu, nghe một tiếc tích thật nhỏ, kế đến một tiếng tích nữa, mấy giọt nước mắt rơi xuống cỏ, trong trẻo lấp lánh, chẳng khác gì những giọt sương buổi sớm.

Đoàn Dự không dám hỏi thêm, cũng không biết nói thế nào để an ủi nàng. Một lát sau, thiếu nữ nhè nhẹ thở dài nói:

-Anh ấy … anh ấy bận lắm, suốt cả năm, ngày nào cũng từ sáng tới tối có lúc nào ở không mô? Mỗi khi anh ấy gặp tôi, nếu không bàn luận võ công thì cũng nói chuyện quốc gia đại sự. Tôi … tôi chán ghét võ công.

Đoàn Dự vỗ đùi, kêu lên:

-Đúng đó, đúng đó! Tôi cũng ghét học võ. Bá phụ và gia gia tôi bắt tôi học võ, tôi nhất định không học, đành phải len lén bỏ nhà ra đi.

Cô gái thở dài một tiếng, nói:

-Tôi vì muốn thỉnh thoảng được gặp anh ấy nên dù chán ghét võ công, cũng phải xem quyền kinh đao phổ, cố gắng nhớ trong lòng, để anh ấy chỗ nào không hiểu rõ tôi nói cho anh ấy nghe. Thế nhưng chính tôi thì lại không học, làm thân con gái mà múa đao đánh gậy, xem ra bất nhã …

Đoàn Dự tự đáy lòng nức nở khen một câu:

-Đúng vậy! Đúng vậy! Người đẹp thiên hạ vô song như cô, lẽ nào lại cùng người ta động thủ động cước, thật chẳng còn ra đâu vào đâu. Ối chà …

Chàng đột nhiên nghĩ ra, câu nói đó xúc phạm tới mẹ ruột mình. Thiếu nữ không để ý đến chàng nói gì, nói tiếp:

-Từ nghìn xưa đến nay bao nhiêu triều đại vua chúa hôm nay ngươi giết ta, ngày mai ta giết ngươi, tôi thật không muốn biết đến làm gì. Thế nhưng đó là chuyện anh ấy thích nói đến nhất, thành ra tôi phải đọc sách để nói cho anh ta nghe.

Đoàn Dự lạ lùng:

-Vì sao cô lại phải đọc để nói lại cho anh ta nghe? Anh ta không đọc lấy được ư?

Cô gái lườm chàng, giận dỗi nói:

-Thế anh bảo anh ấy mù hay sao? Hay là anh ấy không biết chữ?

Đoàn Dự vội đáp:

-Không, không đâu! Tôi bảo anh ta là người tốt nhất trên đời, thế có được không nào?

Thiếu nữ bật cười nói:

-Anh ấy là anh họ tôi. Trong trang viện ngoài cô, dượng và anh ấy ra, rất ít khi có người ngoài. Thế nhưng từ khi dượng tôi qua đời, mạ tôi với cô tôi cãi nhau, thành thử ngay cả biểu ca mạ tôi cũng không cho qua nữa. Tôi cũng chẳng biết anh ấy có phải là người tốt nhất trên đời hay không. Người tốt hay người xấu tôi chẳng gặp ai bao giờ.

Đoàn Dự hỏi lại:

-Thế sao cô không hỏi cha cô?

Cô gái đáp:

-Cha tôi mất sớm, từ lúc tôi chưa ra đời, tôi … tôi chưa từng gặp cha tôi bao giờ.

Đoàn Dự ồ lên một tiếng:

-Thế bà cô là chị của cha cô, còn ông dượng là chồng của bà ấy chứ gì? Anh ta … anh ta … là con của hai người đó phải không?

Thiếu nữ cười khúc khích:

-Nghe anh ăn nói lẩn thẩn làm sao ấy! Tôi là con của mẹ tôi, anh ta là biểu ca của tôi.

Đoàn Dự thấy câu chuyện khiến nàng bật cười, rất là cao hứng bèn nói:

-À, tôi hiểu rồi, chắc là biểu ca cô bận quá không có thì giờ đọc sách nên cô phải đọc giùm chứ gì?

Cô gái nói:

-Nói thế cũng đúng nhưng ngoài ra còn có nguyên nhân. Tôi hỏi anh, những hòa thượng chùa Thiếu Lâm vì cớ gì lại đổ oan cho biểu ca tôi giết người của họ?

Đoàn Dự thấy hàng lông mi dài của nàng còn lưu một giọt nước mắt, nghĩ thầm: “Người xưa có nói: Lê hoa nhất chi xuân đái vũ để ví với người đẹp đang khóc. Hoa lê tuy đẹp thật nhưng cây lê lại xù xì, sau trận mưa rồi, đóa hoa nào cũng đẫm nước, có phải quá đau lòng không? Chỉ có thể như Vương cô nương giống như đóa hoa trà điểm thêm giọt sương buổi sáng, thế mới thật là đẹp”.

Cô gái đợi một hồi thấy chàng không trả lời, bèn lay bàn tay chàng một cái nói:

-Anh sao rứa?

Đoàn Dự giật mình, nhảy dựng lên, kêu:

-Ối trời!

Thiếu nữ thấy chàng hoảng hốt vội hỏi:

-Chi rứa?

Đoàn Dự mặt đỏ bừng nói:

-Cô lấy ngón tay đâm vào lưng bàn tay, tôi lại tưởng là bị cô điểm huyệt.

Cô gái không biết là Đoàn Dự nói đùa, giương tròn đôi mắt nhìn chàng nói:

-Trên lưng bàn tay làm gì có huyệt đạo. Dịch Môn, Trung Chử, Dương Trì ba huyệt ở bên cạnh bàn tay, hai huyệt Tiền Khoát, Dưỡng Lão thì gần cổ tay, còn cách xa lắm.

Nàng vừa nói vừa đưa tay mình ra để chỉ cho Chàng. Đoàn Dự thấy ngón tay trỏ của nàng trông như búp măng, để lên lưng bàn tay phải trắng muốt, cảm thấy cổ khô, đầu óc quay cuồng, ấp úng hỏi:

-Cô … cô nương, tên cô là gì?

Cô gái mỉm cười nói:

-Anh ni quả là lạ lùng. Được rồi, cho anh biết cũng được không sao. Nếu tôi không nói, A Châu, A Bích hai đứa a đầu kia cũng nói.

Nàng giơ ngón tay làm bút viết lên lưng bàn tay mình ba chữ: Vương Ngữ Yên. Đoàn Dự kêu lên:

-Hay thật! Hay thật! Ngữ tiếu yên nhiên, hòa ái khả thân.

Chàng nghĩ thầm: “Mình phải nói chặn trước chứ nếu như nàng giống tính mẹ, đang nói cười vui vẻ, tự nhiên nổi cơn tam bành, bắt mình đi trồng hoa thì tên với người chẳng ăn khớp nhau tí nào”. Vương Ngữ Yên mỉm cười:

-Tên đặt thì ai mà chẳng hay. Trong sử sách có biết bao nhiêu người đại gian đại ác, tên lại nghe thật đẹp. Tào Tháo có tiết tháo gì đâu, Chu Toàn Trung thì lại đại bất trung. Tên anh là Đoàn Dự, tên tuổi anh có thật là vang lừng không? Hay lại chỉ là kẻ cô danh …

Đoàn Dự liền chặn lời:

-… điếu dự!

Hai người cùng cười khanh khách. Khuôn mặt xinh đẹp của Vương Ngữ Yên vốn dĩ nhuốm chút u sầu, bây giờ trông thật rạng rỡ càng tăng thêm vẻ kiều diễm. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu như ta ngày ngày được làm cho nàng vui thì trên đời này còn cầu gì hơn nữa?”.

Ngờ đâu cô gái chỉ vui được chốc lát rồi ánh mắt lại thoáng hiện một nỗi buồn u uẩn, nhỏ nhẹ nói:

-Anh ấy … anh ấy lúc nào cũng nghiêm trang, chưa từng bao giờ nói chuyện chơi với tôi cả. Ôi! Nước Yên, nước Yên, không lẽ quan trọng đến thế hay sao?

Hai tiếng “nước Yên, nước Yên” lọt vào tai trong đầu Đoàn Dự chợt lóe lên, bao nhiêu những mảnh vụn chợt liền lại thành một chuỗi: nào là họ Mộ Dung, Yến Tử Ổ, Tham Hợp Trang, Yên quốc … chàng liền buột miệng:

-Phải chăng Mộ Dung công tử là hậu đại của giòng Mộ Dung Tiên Ti thời loạn Ngũ Hồ? Y là người Hồ, không phải người Trung Quốc?

Vương Ngữ Yên gật đầu:

-Đúng vậy, anh ta là vương tôn nước Yên họ Mộ Dung nhưng đã mấy trăm năm rồi, cớ chi phải khắc khoải chuyện xưa của ông cha làm chi nữa? Không phải là người Trung Quốc, đến chữ Trung Quốc cũng không thèm học, sách Trung Quốc cũng không thèm đọc. Tôi không biết nữa, sách Tàu có gì không hay đâu? Có lần tôi hỏi anh ấy: “Biểu ca, anh bảo sách Tàu không hay, thế có sách Tiên Ti nào cho tiểu muội đọc chăng?”. Anh ấy nghe vậy nổi giận đùng đùng, hóa ra không có sách gì của người Tiên Ti cả.

Nàng chậm rãi ngước đầu lên, nhìn những đám mây trắng trôi lững lờ, nhỏ nhẹ nói:

-Anh ấy … anh ấy hơn tôi mười tuổi, trước nay chỉ coi tôi như một cô em gái nhỏ, nên tôi nghĩ ngoài việc đọc sách, nhớ những võ công ra không còn biết gì khác. Anh ta có biết đâu, tôi đọc sách cũng chỉ vì anh ta, nhớ võ công cũng chỉ vì anh ta. Nếu không thà rằng tôi nuôi mấy con gà, đánh đàn, viết chữ còn vui hơn.

Đoàn Dự run run hỏi:

-Thế ra anh ta hoàn toàn không biết … không biết cô có lòng như vậy sao?

Vương Ngữ Yên đáp:

-Tôi có lòng với anh ấy, đương nhiên anh ta phải biết chứ! Anh ấy cũng thương tôi lắm, có điều … có điều … chúng tôi đối với nhau chỉ như anh em ruột, ngoài những chuyện nghiêm trang ra không bao giờ nói chuyện gì khác. Anh ấy chẳng bao giờ thổ lộ tâm tư, cũng chẳng bao giờ hỏi tôi bụng dạ ra sao.

Nói tới đây, đôi má Vương Ngữ Yên thoáng hiện sắc hồng, trong ánh mắt dường như có vẻ thẹn thùng. Đoàn Dự vốn cũng muốn nói chuyện vui với nàng đôi câu toan gặng hỏi: “Thế cô có tâm sự gì?” nhưng thấy nàng nhu mì e ấp nên không dám đường đột trêu ghẹo giai nhân, bèn nói:

-Chẳng lẽ cô chỉ nói chuyện về võ học với anh ta, không nói tới những khúc Tí Dạ Ca, Hội Chân Thi trong thi từ hay sao?

Chàng buột miệng nói ra chợt thấy hối hận: “Cứ để nàng thầm yêu trộm nhớ, tới đâu hay đó chẳng hơn sao? Lẽ nào ta lại vẽ đường cho hươu chạy như thế? Mình đúng là một thằng ngốc”. Vương Ngữ Yên lại càng ngượng ngập, vội nói:

-Ai … ai lại thế? Tôi là khuê nữ con nhà gia giáo, lẽ nào nói tới những chuyện … thơ văn đó để biểu ca coi thường mình sao?

Đoàn Dự thở phào nói:

-Phải, cô nói đúng lắm.

Trong bụng tự trách thầm mình: “Đoàn Dự ơi, ngươi thật chẳng phải là kẻ chính nhân quân tử chút nào”. Nỗi niềm đó của Vương Ngữ Yên trước nay nàng chưa từng nói với ai, chỉ giấu kín trong lòng một mình nghĩ, một mình mình hay, biết bao lần trăn trở, hôm nay gặp Đoàn Dự một người dễ tính đến đâu hay đó chẳng hiểu vì sao nàng lại mười phần tin tưởng, đem hết uẩn khúc trong lòng thổ lộ cho chàng hay. Thực ra, tấm lòng thầm yêu trộm nhớ biểu ca của nàng, A Châu, A Bích và cả đến Tiểu Trà, Tiểu Mính, U Thảo những đứa đầy tớ trong nhà ai cũng biết cả, có điều không dám nói ra thôi.

Nàng nói ra hết rồi, những nỗi sầu chất chứa trong tim vơi đi bèn nói:

-Tôi nói cho anh nghe nhiều chuyện không liên can gì mà chưa vào chuyện chính. Chùa Thiếu Lâm vì cớ gì làm khó biểu ca tôi?

Đoàn Dự thấy không còn có thể nói năng cù nhầy thêm được nữa đành kể:

-Phương trượng chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ đại sư có một người sư đệ tên là Huyền Bi. Môn võ công tinh diệu nhất của Huyền Bi đại sư là Vi Đà Chử.

Vương Ngữ Yên gật đầu:

-Đó là tuyệt nghệ thứ bốn mươi tám trong bảy mươi hai môn của chùa Thiếu Lâm, tất cả có mười chín chiêu chử pháp, khi thi triển cực kỳ uy mãnh.

Đoàn Dự nói tiếp:

-Huyền Bi đại sư đi đến Đại Lý chúng tôi, tại chùa Thân Giới ở Lục Lương Châu không biết vì sao bị người ta giết chết, thủ pháp đả thương chính là môn Vi Đà Chử sở trường của ông ta. Thành thử họ mới nói rằng, cái lối giết người đó chỉ có họ Cô Tô Mộ Dung mới có thôi, gọi là cái gì “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân”.

Vương Ngữ Yên gật đầu:

-Nói thế nghe cũng có lý.

Đoàn Dự nói tiếp:

-Ngoài phái Thiếu Lâm ra cũng còn nhiều người khác muốn tìm họ Mộ Dung báo thù.

Vương Ngữ Yên hỏi:

-Còn những ai nữa?

Đoàn Dự đáp:

-Phái Phục Ngưu có một người tên là Kha Bách Tuế, môn võ công tuyệt nghệ của ông ta là Thiên Linh Thiên Liệt.

Vương Ngữ Yên nói:

-Ồ, đó là biến chiêu thứ tư trong hai mươi chín chiêu Bách Thắng Nhuyễn Tiên của phái Phục Ngưu, tuy chiêu pháp có kỳ lạ thực nhưng không phải là võ công thượng thừa, chỉ được cái lực đạo cực kỳ cương mãnh thôi.

Đoàn Dự nói:

-Ông ta chết vì một chiêu Thiên Linh Thiên Liệt, thành ra sư đệ vào học trò ông ta đang kiếm nhà Mộ Dung để trả thù.

Vương Ngữ Yên trầm ngâm rồi đáp:

-Kha Bách Tuế rất có thể do biểu ca tôi giết, còn Huyền Bi đại sư thì không phải đâu. Biểu ca tôi không biết sử dụng Vi Đà Chử, môn võ công đó luyện rất khó. Thế nhưng nếu anh có gặp biểu ca tôi thì đừng có nói là anh ấy không biết môn này, cũng chớ có nói là tôi bảo thế, anh ấy mà nghe được thì giận lắm đó…

Hai người vừa nói đến đây bỗng thấy hai người hấp tấp chạy đến, chính là Tiểu Mính và U Thảo. Gương mặt U Thảo cực kỳ kinh hoàng, thở không ra hơi lắp bắp:

-Tiểu thư, không … không xong rồi! Phu nhân ra lệnh đem A Châu, A Bích hai người …

Cô gái nói tới đây cổ họng nghẹn lại không ra hơi. Tiểu Mính vội tiếp:

-Đem hai người ra chặt hai tay phải vì tội dám tự tiện vào Mạn Đà Sơn Trang. Phu nhân lại bảo rằng nếu bà gặp hai con a đầu kia lần nữa thì sẽ chặt đầu. Bây chừ … biết mần răng?

Đoàn Dự vội nói:

-Vương cô nương, cô …cô mau tìm cách cứu họ đi!

Vương Ngữ Yên cũng thật là bối rối, nhíu mày nói:

-A Châu, A Bích là hai thị tì tâm phúc của biểu ca, nếu làm thương tổn đến thân thể họ, ta còn mặt mũi nào nhìn anh ta? U Thảo, bọn nớ ở mô?

U Thảo chơi rất thân với A Châu, A Bích nghe thấy tiểu thư có ý muốn cứu cũng cảm thấy có chút hi vọng vội nói:

-Phu nhân sai đem hai đứa xuống Hoa Phì Phòng_, tiểu tì đã xin Nghiêm bà bà hoãn lại một chút đừng ra tay vội, bây chừ đến xin phu nhân tha cho may ra còn kịp.

Vương Ngữ Yên nghĩ bụng: “Xin với mẹ ta tha cho thật khó mà được. Thế nhưng ngoài cách đó không còn cách nào khác”. Nàng bèn gật đầu cùng U Thảo, Tiểu Mính hai tì nữ đi ngay. Đoàn Dự nhìn theo tấm lưng uyển chuyển của nàng, tính chạy theo nói mấy câu nhưng vừa dợm bước thấy mình chẳng còn gì để nói, đứng ngẩn ngơ, nghĩ lại câu chuyện mình cùng nàng vừa trao đổi bỗng dưng đờ đẫn.

Vương Ngữ Yên hấp tấp đi lên phòng trên thấy mẹ đang ngồi nghiêng nghiêng dựa lưng trên giường, ngắm một bức tranh hoa sơn trà trên tường đến xuất thần, vội gọi khẽ một tiếng:

-Mạ!

Vương phu nhân chậm rãi quay đầu, gương mặt đanh lại nói:

-Con muốn nói chuyện chi? Nếu liên quan đến nhà Mộ Dung thì ta không nghe đâu nhé.

Vương Ngữ Yên nói:

-Thưa mạ, A Châu và A Bích lần này có phải cố ý đến đâu, xin mạ tha cho bọn chúng một chuyến.

Vương phu nhân hỏi lại:

-Mần răng con biết chúng không phải cố ý đến? Ta chặt tay hai đứa nớ, con sợ biểu ca con không nhìn con nữa chớ gì?

Vương Ngữ Yên nước mắt rưng rưng nói:

-Biểu ca là cháu của cha con, mạ … mạ … sao ghét anh ấy quá vậy?_ Nếu như cô có đắc tội với mạ, mạ cũng đừng vì thế mà giận lây đến biểu ca.

Nàng thu hết can đảm nói được mấy câu đó, trống ngực đánh thình thình, thấy mình sao quả là liều mạng đám mở lời chống báng lại mẫu thân. Đôi mắt Vương phu nhân như một luồng điện lạnh lẽo quét qua mặt con mấy lần lặng thinh không nói gì cả rồi nhắm lại. Vương Ngữ Yên sợ quá không dám thở mạnh, không biết trong bụng mẹ mình định thế nào. Một lúc sau, Vương phu nhân mở mắt ra nói:

-Mi làm sao biết được cô ngươi đắc tội với ta? Mụ ta đắc tội thế nào?

Vương Ngữ Yên thấy giọng mẹ lạnh như tiền, sợ đến mất mật không sao trả lời được. Vương phu nhân nói:

-Mi giỏi lắm! Bây giờ mi lớn rồi không còn nghe ta nữa phải không?

Vương Ngữ Yên vừa tức tối vừa hoảng hốt, nước mắt ròng ròng chảy xuống, nghẹn ngào nói:

-Thưa mạ, mạ … mạ giận cô như thế thì hẳn là cô có điều gì không phải với mạ. Thế nhưng không phải thế nào, mạ có bao giờ nói cho con nghe đâu. Bây giờ cô qua đời rồi, mạ … mạ đừng nhớ chuyện cũ làm gì nữa.

Vương phu nhân gắt:

-Con nghe ai nói vậy?

Vương Ngữ Yên lắc đầu:

-Mạ chưa hề nói với con, cũng chẳng cho ai vào đây, con nghe ai nói bây giờ?

Vương phu nhân thở dài một tiếng, khuôn mặt đang gay gắt bỗng chùng lại, giọng cũng dịu xuống:

-Mạ làm thế cũng chỉ vì con thôi. Trên đời ngày người xấu thật nhiều, giết sao cho hết được, con còn nhỏ chỉ là một đứa trẻ ngây thơ tốt hơn hết không gặp kẻ xấu.

Nói đến đây bà chợ nhớ ra một chuyện, bèn nói:

-Gã trồng hoa họ Đoàn mới đến đây, mồm miệng lanh lợi, không phải là kẻ tốt. Nếu nó lân la nói với con một câu, lập tức sai thị tì giết ngay, không cho nói câu thứ hai, con nghe chưa?

Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Nói gì một câu với lại hai câu, y nói chuyện với mình có đến cả trăm câu, hai trăm câu rồi”. Vương phu nhân nói:

-Sao? Coi bộ mặt hiền lành, bụng dạ nhân hậu như con không biết rồi đây sẽ phải chịu bao nhiêu khổ sở.

Bà vỗ tay hai tiếng, Tiểu Mính liền chạy vào. Vương phu nhân nói:

-Ngươi truyền lệnh ta, ai nói chuyện với tên trồng hoa họ Đoàn một câu thì cả hai đều bị cắt lưỡi.

Tiểu Mính thần sắc ngỡ ngàng, tưởng chừng như Vương phu nhân nói đây là chuyện giết con gà, con chó gì đó chứ không phải con người, dạ một tiếng rồi lập tức lui ra. Vương phu nhân quay sang con vẫy tay:

-Con cũng đi ra.

Vương Ngữ Yên đáp:

-Dạ!

Nàng đi đến cửa, ngừng lại một chút, quay lại nói:

-Thưa mạ, xin mạ tha cho A Châu, A Bích bảo chúng nó từ nay không bao giờ được bén mảng tới.

Vương phu nhân lạnh lùng đáp:

-Ta có bao giờ nói ra rồi lại không tính đâu? Con có nói thêm cũng vô ích.

Vương Ngữ Yên cắn răng, nói khẽ:

-Con biết vì sao mạ giận cô, vì sao mạ ghét biểu ca rồi.

Nàng nhè nhẹ dậm chân một cái định ra khỏi phòng. Vương phu nhân gọi giật lại:

-Quay lại!

 

Chọn tập
Bình luận
× sticky