Than ôi vật đổi sao dời,
Trời sầu đất thảm một đời bỏ đi.
* * *
Mộ Dung Phục giơ tay chào Đinh Xuân Thu, miệng nói:
– Xin chào! Cuộc đời quả có duyên thì ở đâu cũng gặp, vừa mới chia tay đã lại thấy nhau rồi.
Đinh Xuân Thu cười nói:
– Quả là cùng công tử có duyên với nhau thật!
Y nghĩ thầm: “Ta đã đả thương mấy viên đại tướng thủ hạ của y, hôm nay ở trong cuộc cờ lại xúc xiểm khiến y suýt nữa thì bỏ mạng, gã này đâu có thể nào bỏ qua cho ta? Ta từng nghe họ Cô Tô Mộ Dung võ công cực kỳ uyên bác, cái ngón dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân, trong võ lâm ai cũng nói chắc như cua gạch, chắc hẳn không phải hư ngôn, xem công phu y ném quân cờ quả cũng khá lắm. Khi y mải mê xem cờ bị ta dẫn vào ma chướng, đúng là cơ hội bằng vàng để trừ đi ngờ đâu lại bị người ta cứu. Xem ra tiểu tử này võ công cao siêu thật nhưng những pháp thuật khác thì chẳng biết gì.”
Đinh Xuân Thu quay lại nói với A Tử:
– Ngươi nói nếu như ta phế hết võ công, cắt đứt cân mạch, chặt chân chặt tay ngươi, ngươi thà chết ngay chứ nhất định không thổ lộ nơi giấu vương đỉnh, có phải thế không?
A Tử cực kỳ kinh hãi, run run đáp:
– Sư phụ khoan hồng đại lượng, chẳng nên… chẳng nên… chẳng nên để bụng… để bụng những lời nói nhăng nói xàm của đệ tử.
Mộ Dung Phục cười nói:
– Đinh tiên sinh, ông tuổi tác đã cao, chấp nhất làm gì với một đứa trẻ con? Mau lại đây, hai người mình cạn với nhau ba chén, đàm văn luận võ có phải thú không nào? Thanh lý môn hộ trước mặt người ngoài chẳng khiến mình nhẹ thể lắm sao?
Đinh Xuân Thu chưa kịp trả lời thì một tên đệ tử phái Tinh Tú đã bực bội quát lên:
– Cái thứ ngươi thật chẳng biết trên biết dưới, sư phụ ta là võ lâm chí tôn, lẽ nào lại thèm đàm văn luận võ với thứ hậu sinh tiểu tử như ngươi? Ngươi có tư cách gì mà đòi nói chuyện tay đôi với thầy ta?
Lại thêm một gã khác phụ họa:
– Nếu như ngươi cực kỳ cung kính khấu đầu thỉnh giáo, Tinh Tú lão tiên có bụng dẫn dắt bọn hậu sinh, không chừng chỉ cho đôi ba miếng. Chứ còn như ngươi đòi đàm luận với lão tiên, ha ha, thật nực cười đến sái quai hàm mất? Ha ha!
Y mới cười được hai tiếng, vẻ mặt bỗng dưng thật là kỳ quái, một lát sau lại cười khan ha ha lần nữa, cười xong liền há hốc mồm, nhưng hoàn toàn không có tiếng nào phát ra, trên mặt nhuốm một màu ngụy bí, nụ cười đầy vẻ hoạt kê.
Bọn đệ tử phái Tinh Tú ai cũng lấm lét nhìn kẻ đồng môn cười xong ba tiếng rồi tắt thở biết y trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, người nào người nấy hoảng vía, không dám thở mạnh, cúi gầm mặt xuống không dám chạm vào ánh mắt Đinh Xuân Thu, nghĩ bụng: “Câu nói của y không biết làm phật lòng sư phụ ra sao để đến nỗi người dùng thủ đoạn tàn độc giết ngay như thế? Mình phải ngẫm nghĩ cho kỹ xem câu nói đó sai sót chỗ nào, chớ có đi vào vết xe đổ đó nữa.”
Đinh Xuân Thu trong bụng càng tức tối hơn, lại thêm chột dạ. Y vừa hỏi chuyện A Tử vừa hơi vung tay áo lên, tiềm vận nội lực đẩy bột phấn Tam Tiếu Tiêu Dao Tán bắn vào Mộ Dung Phục. Độc phấn đó vô hình lại không mùi vị gì, cực kỳ mịn màng, trời đang tối, trong quán ăn chỉ thấy mờ mờ, những tưởng Mộ Dung Phục dù võ công cao cường thì cũng chẳng thể phát giác, ngờ đâu không biết y dùng thủ đoạn gì mà lại đẩy chất độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán qua bên tên đệ tử của mình.
Chết một tên đệ tử cũng chẳng đáng bao nhiêu, nhưng Mộ Dung Phục đang cười cười nói nói, không thấy y giơ chân múa tay gì mà đã chuyển được qua người khác, hiển nhiên đó không phải là dùng nội lực phản kích khiến cho Đinh Xuân Thu tuy kiến văn rộng rãi nhưng nhất thời không nghĩ ra được đó là công phu gì. Trong bụng y chỉ nghĩ được tám chữ “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân,” thủ pháp Mộ Dung Phục sử dụng cũng tương tự như môn bắt ám khí rồi ném trả lại, tiếp tiêu phát tiêu, tiếp tiễn hoàn tiễn dùng vào việc bắt phấn độc rồi đẩy trở về. Thế nhưng độc phấn tinh vi như thế, sao y lại không bị nhiễm phải mà lại trả về được, thế mới kỳ?
Y lại nghĩ ra: “Nếu nói là dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân thì y phải đẩy Tam Tiếu Tiêu Dao Tán về mình mới phải, chắc là tiểu tử này còn e ngại lão tiên, không dám ngang nhiên vuốt râu hùm.” Tưởng đến vuốt râu hùm, y thuận tay giơ lên vuốt chòm râu nhưng chỉ cầm phải mấy sợi loe hoe ngắn ngủn đã cháy xém, trong lòng không bực tức mà lại vui: “Đến như Tô Tinh Hà, Huyền Nạn lão hòa thượng là những cao thủ công lực như thế, vậy mà còn bị lão tiên hạ thủ chết đứ đừ, cái thứ Mộ Dung Phục miệng còn hôi sữa, thật có đáng gì đâu?”
Đinh Xuân Thu bèn nói:
– Mộ Dung công tử cùng với ta quả là có duyên, lại đây nào, ta mời ngươi một chén rượu.
Nói xong giơ tay búng một cái, một chén rượu lập tức bay tà tà ngang qua đến trước mặt Mộ Dung Phục, vậy mà không sóng sánh ra ngoài giọt nào. Nếu phải lúc bình thời, quần đệ tử của Đinh Xuân Thu đã khen ầm lên, thế nhưng mới vừa thấy một đồng môn bỏ mạng vô cùng quái lạ, ai cũng sợ bợ hàm ngựa không nên trò trống gì lại mó phải vó câu, chưa bắt mạch được dụng ý của sư phụ, chi bằng ngậm miệng là hơn, thế nhưng vào nước này cũng phải reo lên một tiếng cho phải phép, kẻo không sư phụ bực mình, hỏi tội thì cũng khổ.
Chén rượu bay tới trước mặt Mộ Dung Phục, cả bọn liền đồng thanh la lên:
– Hay quá!
Thế nhưng có ba gã đặc biệt nhát gan, đến reo lên cũng không dám, đợi khi cả bọn hoan hô rồi mới chợt nhớ ra là mình không phụ họa, quả là chậm chân, nên cũng vội vàng bắt chước hùa theo. Thế nhưng ba tiếng Hay quá! đó quả có chậm hơn một chút, thành thử nghe loạc choạc không được đều nhịp. Ba gã kia thấy các đồng môn châm bẩm nhìn mình ra chiều trách cứ, ai nấy hổ thẹn vô cùng lại thêm trong lòng thấp thỏm.
Mộ Dung Phục nói:
– Rượu mời của Đinh tiên sinh, tại hạ xin được chuyển sang cho lệnh cao đồ.
Nói xong y thổi phù một cái, chén rượu chuyển hướng, bay đến trước mặt một tên đệ tử phái Tinh Tú ở nơi mé trái. Y chỉ thổi một hơi mà đã làm lệch hướng, so với dùng ngón tay búng, khó dễ khác nhau dù kẻ không biết võ công thì cũng nhìn ra được, Đinh Xuân Thu xem như thua một keo. Thực ra Mộ Dung Phục thổi ra, so với cái búng của Đinh Xuân Thu, lực đạo ai mạnh ai yếu không thể so sánh được, có điều phương vị kình đạo cực kỳ chính xác, tưởng như thổi bay được chén rượu nhưng chính là y mượn sức búng của địch làm sức của mình mà thôi.
Gã đệ tử phái Tinh Tú thấy cái chén bay tới, không kịp suy nghĩ, lập tức đưa tay tiếp lấy miệng nói:
– Chén rượu này sư phụ ra lệnh cho ngươi uống cơ mà!
Y toan ném trở về cho Mộ Dung Phục, đột nhiên kêu rống lên thảm thiết, ngã bật ngửa ra sau rồi không còn động đậy gì nữa. Các đệ tử lần này đều hiểu ra biết ngay khi sư phụ búng chén rượu ra đã gẩy thuốc độc trong móng tay vào thành chén, chỉ cần Mộ Dung Phục chạm phải, chẳng nhấp môi cũng sẽ chết tươi không khác gì tên đệ tử nọ.
Đinh Xuân Thu mặt biến sắc, cực kỳ phẫn nộ, biết không còn dấu đám đệ tử được nữa, đến nước này chẳng có thể ra chiều nhàn nhã, hai tay liền bưng chén rượu lên, chậm rãi đứng dậy nói:
– Mộ Dung công tử, chén rượu này lão phu xin kính mời các hạ.
Nói xong ông ta đi đến trước mặt Mộ Dung Phục. Chỉ vừa liếc qua, Mộ Dung Phục đã thấy rượu trong chén thấp thoáng một ánh xanh biếc, hiển nhiên có chứa một loại độc dược khủng khiếp. Lần nay y tự tay đem đến, không có cách nào có thể cho quay ngược trở về. Đợi tới khi Đinh Xuân Thu đi đến trước mặt chỉ còn cách một mặt bàn, Mộ Dung Phục liền hít một hơi, rượu trong chén Đinh Xuân Thu đang cầm nơi tay lập tức vọt thẳng lên, thành một thủy tuyến màu xanh. Đinh Xuân Thu kêu thầm: “Ghê gớm thật!” biết rằng đối phương hút lên rồi sẽ nhả tới, sợi dây nước đó sẽ bắn thẳng vào người mình, mặc dù chẳng có gì đáng ngại nhưng người mình đầm đìa những rượu không khỏi xấu mặt, lập tức vận nội công lên, bụp một tiếng thổi luôn vào thủy tuyến đó.
Sợi dây nước chạy tới cách mặt Mộ Dung Phục chừng nửa thước, bỗng chuyển xéo qua hướng trái, chạy vòng qua sau ót y, nhanh nhẹn lạ thường bay vọt ra, nghe ọc một tiếng chui tuột luôn vào miệng một tên đệ tử. Gã đó đang há mồm định kêu nhưng chưa thành tiếng thủy tuyến đã chạy tọt vào bụng. Dây nước đó nhanh lạ thường nên y vẫn còn đang cao hứng la lên:
– Hay quá!
Đến khi vừa reo xong, lúc ấy mới hoảng vía lại kêu:
– Hỏng rồi!
Y gục xuống, trong giây lát gương mặt biến thành đen kịp, chết ngay. Thuốc độc đó lợi hại như thế, Mộ Dung Phục cũng sợ đến mất vía: “Ta bôn tẩu giang hồ xưa nay chưa từng thấy loại thuốc độc nào bá đạo đến vậy.” Hai người tỉ thí, chỉ trong giây lát đã khiến cho phái Tinh Tú chết ba đệ tử, hiển nhiên ai thắng ai bại đã rõ ràng. Đinh Xuân Thu phẫn nộ cùng cực, cầm chén rượu vứt xuống bàn, múa chưởng đánh ra. Mộ Dung Phục đã từng nghe đến Hóa Công Đại Pháp của y từ lâu, vội vàng tránh qua, Đinh Xuân Thu liên tiếp đánh ba chưởng, Mộ Dung Phục đều dùng thân pháp tiểu xảo tránh né được, hai bên không hề đụng vào nhau.
Hai người càng đánh càng nhanh, trong phạn điếm bày đầy bàn ghế, lối đi nhỏ hẹp, không có cách nào xoay chuyển, thế nhưng hai người vẫn theo những khe giữa hai bàn mà tới lui, không một tiếng động, quyền chưởng không giao tiếp đã đành mà đến bàn ghế cũng không đổ ngã cái nào.
Quần đệ tử phái Tinh Tú ai nấy đứng dựa vào tường, không ai dám bước chân ra khỏi cửa, sư phụ đang kịch đấu với kình địch, có ai lại dám tránh né ra xa, thế là phạm vào đại tội bất trung với sư môn còn gì. Mọi người ai cũng biết tình thế nguy hiểm, chỉ cần một chút chưởng phong quét phải thì khó mà sống được, ai cũng mong sao thân hình mình xẹp lại mỏng như giấy, dán chặt vào tường ngoài ra không còn cách nào khác. Thế nhưng thấy Mộ Dung Phục thủ nhiều công ít, chưởng pháp tuy tinh kỳ nhưng vì không dám đụng vào chưởng của Đinh Xuân Thu nên không khỏi bó chân bó tay, rơi vào thế hạ phong.
Sau mấy chiêu, Đinh Xuân Thu biết rằng Mộ Dung Phục không dám cùng mình đối chưởng hẳn là sợ Hóa Công Đại Pháp. Nếu đối phương đã sợ công phu này thì mình phải dùng nó để chế ngự y, có điều thân pháp Mộ Dung Phục phiêu hốt, ra chiêu khó mà đoán được nên muốn ép cho y phải đụng với mình kể cũng không phải dễ.
Lại thêm vài chưởng nữa, Đinh Xuân Thu đã nghĩ ra một cách, chưởng phải bay múa tung hoành, đánh ép tới, tay trái giả vờ không được linh hoạt nhưng cố ý che đậy để cho Mộ Dung Phục khỏi biết. Mộ Dung Phục võ công tinh thâm, đối phương mạnh yếu thế nào, lẽ nào lại không nhìn ra?
Y nghiêng người lệch qua, đánh liên tiếp hai chưởng liền, thế mạnh như vũ bão tấn công thẳng vào hông bên trái Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu hự nhẹ một tiếng, lùi lại một bước nhưng không dám đưa chưởng trái ra đỡ đòn. Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Lão quái này không biết ngực và sườn bên trái bị nội thương sao đây.” Y đang đắc thắng nên không nhường nhịn gì nữa, làm như tấn công mạnh về bên hữu nhưng nội lực lại vận dụng toàn lực đánh vào bên tả.
Hai bên trao đổi thêm hơn hai chục chiêu nữa, tay trái Đinh Xuân Thu rút lẩn hẳn vào trong tay áo, chưởng phải biến thành trảo, giơ lên cào vào mặt Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nghiêng qua tránh được, giơ quyền lên đánh thẳng vào sườn bên trái của đối phương. Đinh Xuân Thu nãy giờ vẫn chờ đòn này, sau cùng kẻ địch đã đánh ra, trong lòng mừng rỡ, vung tay áo lên cuốn lấy nắm tay của Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Tụ phong của ngươi dù có mạnh gấp mười lần cũng làm sao đả thương được ta?” Y không rút quyền về mà lại vận kình lên cánh tay, chịu cho tay áo y cuốn được, nghe soẹt một tiếng dài, tay áo Mộ Dung Phục đã bị xé rách toạc một miếng lớn. Mộ Dung Phục còn đang kinh hãi, quyền đó y đánh ra thật mạnh ngờ đâu lại bị rít lại, thì ra nắm tay đã bị đối phương chộp được rồi.
Chiêu đó quả là ngoài dự tính của Mộ Dung Phục, y lập tức kinh hãi hiểu ra: “Lão quái giả vờ bị thương ở bên trái, chẳng qua chỉ là kế dụ địch, hóa ra mình mắc lừa tên già này rồi.” Y trong lòng cảm thấy hối hận: “Ta chẳng qua tự cao tự đại, dám coi thường lão quái tên tuổi vang lừng này, quân tử báo cừu, thập niên vị vãn, chỉ vì cái căm phẫn nhất thời, chưa tính toán chu đáo đã làm liều khiêu chiến với y.” Thế nhưng lúc này đâu còn có thể lùi được nữa, bao nhiêu nội lực trong người lập tức chuyển lên đầu quyền tống ra.
Ngờ đâu nội kình đưa lên rồi chẳng khác gì hòn đá ném xuống biển, không biết đi đâu. Mộ Dung Phục kêu thầm một tiếng: “Chết rồi!” Y vẫn biết Đinh Xuân Thu là một cường địch nên từ khi bắt đầu giao đấu lúc nào cũng chăm chăm quyết không để đối phương sử dụng Hóa Công Đại Pháp, ngờ đâu đến lúc này không còn cách nào tránh được nữa. Hiện tại quả thực tiến thoái lưỡng nan, nếu tiếp tục vận kình kháng cự thì dù nội công cao cường đến đâu cũng sẽ bị y hóa giải chỉ trong giây lát công lực hết sạch, thành người tàn phế, còn như bảo nguyên thủ nhất, thu kình lực về thì những chất độc vô cùng ghê gớm của Đinh Xuân Thu sẽ theo chân khí xâm nhập tạng phủ kinh mạch.
Còn đang chưa biết tính sao, bàng hoàng vô kế bỗng từ sau có người lớn tiếng reo lên:
– Sư phụ xếp đặt thật khéo khiến cho tên tiểu tử thối tha kia bị hãm vào tuyệt cảnh.
Mộ Dung Phục vội vàng lùi lại hai bước, tay trái vươn ra, chộp ngay ngực tên đệ tử phái Tinh Tú. Trong gia số nã thủ tuyệt kỹ của Cô Tô Mộ Dung có một môn mượn sức đánh sức tên là Đẩu Chuyển Tinh Di, người ngoài không biết nguồn cơn thấy khoa gậy ông đập lưng ông của nhà Mộ Dung thật là tuyệt diệu, những người bị chết ai cũng bị chính ngay môn tuyệt nghệ thành danh của mình trở ngược vào thân, hiển nhiên bao nhiêu thần kỹ các môn phái, Cô Tô Mộ Dung đều tinh thông am hiểu. Thực ra trong võ lâm tuyệt kỹ có hàng nghìn hàng vạn môn, dù người thông minh uyên bác đến đâu chăng nữa thì cũng không thể nào học hết mọi tuyệt kỹ được huống chi đã gọi là tuyệt kỹ thì chẳng thể một sớm một chiều mà luyện thành. Tuy nhiên nhà Mộ Dung có thuật Đẩu Chuyển Tinh Di nên dù đối phương đưa ra công phu nào chăng nữa đều có thể di chuyển lực đạo, phản kích trở ngược lại mình.
Người giỏi về Tỏa Hầu Thương khi giơ ngọn giáo đâm vào cổ họng họ Mộ Dung, bị họ dùng môn Đẩu Chuyển Tinh Di xoay lại, mũi thương đó sẽ đâm ngay vào yết hầu của mình, cách sử dụng, kình lực phép tắc đều hoàn toàn do yếu quyết bí truyền của bản môn; người giỏi về Đoạn Tí Đao khi múa đao chém xuống thì lại chém phải chính cánh tay mình. Binh khí nào thì dùng chính binh khí đó, chiêu số nào cũng chính chiêu số đó. Nếu người ta không chính mắt trông thấy người nhà Mộ Dung dùng môn Đẩu Chuyển Tinh Di này thì có ai đoán ra được tại sao người đó bỏ mạng, thực ra cũng chỉ là tự sát mà thôi. Kẻ ra chiêu võ công càng cao thì cái chết lại càng khéo léo.
Nhà Mộ Dung nếu không phải là một người đánh một người, hoặc không biết chắc sẽ có thể lấy mạng đối phương thì không bao giờ dùng môn Đẩu Chuyển Tinh Di này, thành thử Cô Tô Mộ Dung danh chấn giang hồ mà công phu chân chính thế nào có ai biết đến đâu?
Đem binh khí quyền cước của đối thủ chuyển hoán phương hướng để cho kẻ địch mình làm mình chịu, nguyên tắc chẳng qua chỉ là bật ngược trở về, chẳng khác gì một người giơ tay đấm vào tường đá, ra tay càng mạnh thì quyền đầu bị chấn lực càng đau, nặng nhẹ mạnh yếu không sai một mảy. Có điều chuyển hoán binh khí quyền cước là vật hữu hình thì dễ, còn chuyển hoán thứ vô hình vô chất như nội lực khí công mới cực kỳ khó khăn. Mộ Dung Phục tuy tập luyện công phu này đã nhiều năm nhưng vì tuổi còn trẻ nên vẫn chưa đạt đến cảnh giới đăng phong tạo cực, gặp phải hạng cao thủ số một như Đinh Xuân Thu, biết không cách nào dùng Đẩu Chuyển Tinh Di bật ngược lại đả thương đối phương được nên dùng Đẩu Chuyển Tinh Di ba lần cũng chỉ giết được ba tên đệ tử của phái Tinh Tú mà thôi.
Y có chuyển có di đấy nhưng cũng chỉ chuyển di sang người thứ ba mà thôi. Đinh Xuân Thu lén sử dụng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, búng chén tống chất độc, rồi nén độc tửu bắn ra, môn nào cũng bị Mộ Dung Phục nhẹ nhàng đưa người khác ra chết thay cho mình.
Đến khi Đinh Xuân Thu sử dụng Hóa Công Đại Pháp, Mộ Dung Phục không cách nào có thể di chuyển được, may sao có gã đệ tử kia lên tiếng nịnh nọt lấy lòng thầy, vừa há miệng kêu lên nên đã cho y biết được mình đang ở đâu. Mộ Dung Phục trong cơn gấp gáp, không còn thì giờ đâu mà nghĩ ngợi, chộp ngay được tên đệ tử kia, lập tức xoay ngang hất dọc, đẩy khí thay kình đem gã đó ra thế chỗ mình. Y mạo hiểm thi triển may sao hiệu quả, Tinh Tú Lão Quái vốn chủ tâm hóa công lực của Mộ Dung Phục, ngờ đâu lại tán ngay công phu bản môn của đứa học trò.
Mộ Dung Phục thử một lần thành công, thật đúng là chết đi sống lại, lập tức chụp ngay lấy cơ hội, không để cho Đinh Xuân Thu có dịp suy nghĩ, đẩy luôn tên đệ tử phái Tinh Tú cho đụng vào một gã đệ tử khác. Công lực của tên đệ tử thứ hai cũng lập tức bị Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu hóa tán ngay.
Đinh Xuân Thu đã thấy Mộ Dung Phục dùng công phu tá lực đả lực chuyển sang đệ tử của mình, càng thêm phẫn nộ, nghĩ thầm: “Ta nếu như vì bảo toàn cho mấy đứa học trò bị thịt này mà buông y ra, muốn bắt lại thật khó bằng lên trời, tên tiểu tử này thoát thân rồi sẽ tìm cách chạy mất. Nếu như thế ta chết năm tên đệ tử mà chỉ xé rách được tay áo của y, thế có phải là phái Tinh Tú thua đứt đuôi, Tinh Tú lão tiên còn mặt mũi nào dương uy Trung Nguyên?”
Y bèn tăng thêm kình lực vào năm ngón tay, nhất định không buông Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục lại lùi thêm mấy bước, dính chặt thêm một gã đệ tử phái Tinh Tú nữa để cho Đinh Xuân Thu tiêu tán công lực. Chỉ trong khoảnh khắc, ba tên đệ tử đã nằm bẹp dưới đất, chẳng khác gì bị quỉ nhập tràng hút hết máu trong người. Những tên còn lại kinh hãi quá, thấy Mộ Dung Phục tiến đến gần, ai nấy kêu thất thanh, bỏ chạy tán loạn.
Mộ Dung Phục hất tay một cái, ba tên đệ tử phái Tinh Tú bay tung ra, tên thứ ba lại dụng ngay vào một gã khác. Gã đó kinh hoảng vừa mới há miệng kêu lên thì người đã nhũn ra rồi. Những đệ tử còn lại ai ai cũng đều nhìn rõ, nếu sư phụ không thả Mộ Dung Phục ra thì tên tiểu tử này tiếp tục mượn sức đả thương người, bao nhiêu đệ tử đều bị Tinh Tú lão tiên hóa hết, rồi thể nào cũng đến lượt mình, nhưng ngoài việc khiếp đảm ra, chẳng một ai dám bỏ chạy nên chỉ lẩn quẩn ở bên trong quán, chui qua trốn lại như chuột để khỏi mang họa vào thân.
Cái tiểu điếm đó đâu có rộng bao nhiêu, thành thử Mộ Dung Phục vung tay ra là lại trúng được ba bốn tên khác, dính chùm với nhau thành một xâu bảy tám người, trong tay cái món binh khí vừa to vừa dài ấy muốn đụng vào ai lại càng dễ hơn. Lúc đó y đã hoàn toàn chiếm được thượng phong nhưng trong bụng lại lo ngay ngáy, đệ tử phái Tinh Tú tuy đông thật nhưng cũng có lúc phải hết, đến khi Đinh Xuân Thu hóa hết nội lực bọn chúng rồi thì lúc đó kiếm đâu ra một tên tử quỉ khác? Y hết sức vùng vẫy, liên tiếp phát chân lực cố giằng khỏi tay Đinh Xuân Thu.
Đinh Xuân Thu thấy môn hạ đệ tử của mình dính chặt vào nhau, chẳng khác gì người ta dùng lạt xâu một bầy cá, kẻ nào chưa bị thì trốn chui trốn nhủi, không còn ai buông lời tán tụng mình nữa. Y vừa thẹn vừa tức, lại càng ghịt chặt nắm tay Mộ Dung Phục, nghĩ thầm: “Cái bọn học trò vô tích sự có chết hết cũng không tiếc, chỉ cần hóa được công lực thằng nhãi này, Tinh Tú lão tiên thắng được Cô Tô Mộ Dung thì cũng là chuyện chấn động thiên hạ rồi. Còn thu đệ tử thì trên đời này thiếu giống gì bọn bưng mâm bợ đỡ?” Khuôn mặt y không lộ chút gì tức tối, thần thái vẫn ra vẻ thanh nhàn, làm như tiêu sái lắm.
Đệ tử phái Tinh Tú vẫn mong sư phụ e ngại ném chuột vỡ đồ, buông Mộ Dung Phục ra để cho bọn chúng khỏi bị hóa tán công lực, thế nhưng thấy lão nhân gia chẳng chút chạnh lòng, biết rồi cũng đến lượt mình, ai nấy kêu thét hãi hùng nhưng vì bị uy thế của sư phụ tích chứa lâu nay nên vẫn không tên nào dám bỏ chạy, cũng chẳng dám mở miệng van xin sư phụ buông tha “thằng nhãi đã bị lão tiên nắm giữ”.
Đinh Xuân Thu không còn cách gì khác hơn, đưa mắt nhìn khắp bốn bề thấy trong đám đệ tử chỉ còn hai người không theo những người khác trốn lánh. Một người là Du Thản Chi, nép mình tại một góc nhà, chui đầu sắt vào giữa hai tay, hiển nhiên cực kỳ sợ hãi. Còn một người nữa là A Tử, mặt mày nhợt nhạt, cũng ngồi một góc xem hai người đấu với nhau. Đinh Xuân Thu quát lên:
– A Tử!
A Tử đang xem đến xuất thần, có ngờ đâu sư phụ lại gọi đến, ngẩn người ra rồi đáp:
– Sư phụ, lão nhân gia đại triển thần uy…
Nàng chỉ mới nói được nửa câu bỗng ngượng nghịu cười ruồi, không dám nói tiếp. Sư phụ lão nhân gia quả có đại triển thần uy thế nhưng đả thương toàn người của mình, có gì đáng ca tụng đâu quả khó dùng lời lẽ gì tán dương được. Đinh Xuân Thu chưa thanh toán được Mộ Dung Phục vốn đang hết sức nóng ruột, thấy nụ cười của A Tử có chiều diễu cợt, càng thêm cuồng nộ, cánh tay áo bên trái liền phất một cái, bật tung hai chiếc đũa trên bàn, bắn thẳng vào mắt A Tử.
A Tử kêu lên:
– Chao ôi!
Nàng vội vàng vung tay đánh tạt hai chiếc đũa ra nhưng vẫn chậm mất một bước, đầu đũa đã điểm trúng, chỉ thấy vừa ngứa vừa tê, vội đưa tay áo lên chùi, mở mắt ra trước mắt chỉ một màu trắng loang loáng di động, chỉ giây lát vùng trắng sáng biến mất chỉ còn một màu đen như mực.
Nàng sợ đến hồn vía lên mây, kêu ầm lên:
– Ta… ta… mắt ta… mắt ta không… không thấy gì nữa.
Đột nhiên một luồng hàn khí thốc vào người, rồi tiếp theo là một cánh tay vòng qua ôm ngang lưng cô gái, một người nào đó đã bồng nàng bỏ chạy. A Tử kêu lên:
– Mắt… mắt ta…
Ở phía sau nghe bình một tiếng, dường như song chưởng đụng nhau, A Tử cảm thấy mình như đằng vân giá vụ bay bổng lên, trong cơn mơ màng, nghe loáng thoáng có tiếng Mộ Dung Phục nói:
– Thôi ngừng tại đây, Tinh Tú Lão Quái, sau này…
A Tử cảm thấy lạnh buốt thấu xương, bên tai gió ù ù thổi, một người còn lạnh hơn băng bồng mình chạy vùn vụt. Nàng lạnh đến răng đập vào nhau lách cách, rên rỉ:
– Lạnh quá… mắt ta… lạnh… lạnh quá mất thôi…
Người kia đáp:
– Được, được. Mình chạy đến khu rừng kia, Tinh Tú lão tiên không tìm thấy đâu.
Y miệng nói nhưng chân vẫn chạy băng băng. Một hồi sau, A Tử thấy y ngừng lại, nhè nhẹ bỏ nàng xuống, dưới lưng nghe tiếng loạt soạt hóa ra đã để nàng nằm trên một đống lá khô. Người kia nói:
– Cô nương, mắt… mắt cô ra sao?
A Tử chỉ thấy đôi mắt đau đớn khôn tả, cố hết sức nhướng mắt lên nhưng không thấy gì cả, tất cả trời đất nay chỉ còn một màu đen kịt mới hay rằng mắt nàng đã bị Đinh Xuân Thu dùng độc dược làm mù mất rồi, đột nhiên khóc òa lên, kêu la rầm rĩ:
– Mắt… mắt ta đui rồi, ta… mù rồi.
Người kia dịu giọng an ủi:
– Xem chừng có thể trị khỏi được!
A Tử bực tức đáp:
– Thuốc độc của Đinh lão quái lợi hại biết chừng nào, làm sao trị được? Ngươi lừa ta! Mắt ta đui rồi, mắt ta đui rồi!
Nói xong lại khóc tức tưởi. Người kia nói:
– Bên kia có dòng suối nhỏ, mình đến đó rửa cho sạch thuốc độc trong mắt đi.
Nói xong cầm tay nàng, nhẹ nhàng kéo lên. A Tử chỉ thấy bàn tay y lạnh ngắt, tự nhiên rụt về, người đó liền buông ra. A Tử đi được hai bước, vấp một cái lảo đảo muốn té. Người kia nói:
– Coi chừng!
Rồi lại đưa tay đỡ nàng. Lần này A Tử không giựt tay về nữa, để mặc y dẫn đến bên dòng nước. Người kia nói:
– Cô đừng sợ, đây là bờ suối đó!
A Tử quì xuống bên khe nước, hai tay vốc nước lên rửa mắt. Dòng nước mát rượi thấm vào mắt, đau đớn giảm dần nhưng trời đất vẫn tối tăm, trước mắt không một chút sáng sủa nào hết. Trong cùng một lúc, tuyệt vọng, đau thương, bơ vơ, phẫn nộ, bao nhiêu mối cùng kéo tới, nàng ngồi phịch xuống đất, khóc rưng rức, hai chân đạp lung tung:
– Ngươi dối ta, ngươi dối ta, mắt ta mù hẳn rồi, mắt ta mù hẳn rồi!
Người kia nói:
– Cô nương, cô đừng quá đau lòng! Tôi không bỏ cô mà đi đâu, cô… cô cứ yên tâm.
A Tử thấy tạm nguôi ngoai, hỏi lại:
– Ngươi… ngươi là ai?
Người kia đáp:
– Tôi… tôi…
A Tử nói:
– Ồ xin lỗi, cảm ơn ông đã cứu mạng tôi. Chẳng hay cao tính đại danh của các hạ là gì?
Người kia ấp úng:
– Tôi… tôi… cô nương không nhận ra tôi sao?
A Tử nói:
– Đến tên họ ông còn chẳng cho tôi hay, vậy mà dám xí gạt nói là sẽ không bỏ tôi mà đi. Mắt… mắt tôi mù rồi, chỉ… chỉ có nước chết quách cho xong.
Nói xong lại khóc òa lên. Người kia vội gạt đi:
– Cô nương muôn ngàn lần chớ có chết. Tôi… tôi quả thật mãi mãi sẽ không bao giờ rời xa cô. Chỉ cần cô nương bằng lòng cho tôi đi theo, tôi vĩnh viễn… vĩnh viễn ở bên cạnh cô nương.
A Tử đáp:
– Ta không tin! Ta không tin! Ngươi xí gạt ta, ngươi gạt ta để ta không tìm cái chết. Ta muốn chết, mắt ta mù rồi, còn sống làm gì nữa?
Người kia lắp bắp:
– Tôi nhất quyết không đánh lừa cô đâu, nếu tôi bỏ cô thì cho tôi chết đường chết chợ.
Giọng y hốt hoảng xem ra thật là thành khẩn. A Tử hỏi lại:
– Thế ngươi là ai?
Người kia đáp:
– Tôi là Tụ Hiền Trang… không, không phải, tôi họ Trang, tên Tụ Hiền.
Người cứ được A Tử chính là thiếu trang chủ của Tụ Hiền Trang Du Thản Chi. A Tử nói:
– Hóa ra là Trang… Trang tiền bối, đa tạ tiền bối đã cứu tiểu nữ.
Du Thản Chi đáp:
– Tại hạ cứu được cô nương khỏi độc thủ Tinh Tú lão tiên, lòng mừng vô hạn, cô nương chẳng phải tạ ơn làm gì. Tại hạ cũng không phải tiền bối của cô nương, chỉ lớn hơn cô nương vài tuổi.
A Tử nói:
– Ồ, vậy thì tiểu muội gọi là Trang đại ca.
Du Thản Chi vui mừng không sao kể xiết, lắp bắp:
– Cái đó… cái đó không dám.
A Tử nói:
– Trang đại ca, tiểu muội cầu đại ca một việc.
Du Thản Chi đáp:
– Cô đừng nói cầu hay không cầu, cô nương có điều gì sai khiến, dù phải hi sinh tính mạng, tại hạ cũng nhất quyết làm cho cô nương.
A Tử mỉm cười hỏi lại:
– Anh với tôi vốn không quen biết, sao anh đối với tôi tốt như thế?
Du Thản Chi lập cập đáp:
– Phải, phải, xưa nay không quen biết gì cả, tại hạ chưa từng gặp cô nương, cô nương cũng chưa từng gặp tại hạ. Lần này… hôm nay mới gặp mặt lần đầu.
A Tử buồn bã nói:
– Còn nói gì đến gặp mặt? Tôi vĩnh viễn không bao giờ thấy mặt anh đâu.
Nói đến đây nhịn không nổi nước mắt lại rơi lã chã. Du Thản Chi vội đáp:
– Cái đó cũng chẳng hề gì. Không thấy tôi lại càng tốt.
A Tử hỏi lại:
– Sao thế?
Du Thản Chi nói:
– Tôi… tôi mặt mày khó coi lắm, cô nương nếu trông thấy e rằng sẽ mất vui.
A Tử lặng lẽ mỉm cười nói:
– Anh lại gạt tôi rồi. Người xấu xí khó coi nhất đời này tôi đã từng thấy nhiều lắm. Tôi có một đứa đầy tớ, đầu đeo một cái lồng sắt, vĩnh viễn không thể nào gỡ ra được, thế mới thực là khó coi chứ. Nếu như anh thấy y thì anh sẽ phải cười đến ba ngày ba đêm. Anh có muốn xem không?
Du Thản Chi run run đáp:
– Không! Không! Tôi không xem đâu.
Y nói nhưng không ngăn nổi tự nhiên lùi lại hai bước. A Tử nói:
– Anh bồng tôi chạy nhanh chẳng kém gì tỉ phu tôi, võ công giỏi vậy mà sao nhát thế, đến người đầu sắt cũng không dám coi. Trang đại ca, người đầu sắt đó ngộ nghĩnh lắm, để tôi bảo y lộn mèo cho anh coi, bảo y đưa đầu vào lồng sư tử, lồng cọp cho dã thú cắn. Tôi sẽ bảo người ta đem y ra làm diều phóng trên không, thật là thú vị.
Du Thản Chi bất giác rùng cả mình, luôn mồm kêu:
– Tôi không muốn coi, tôi thực sự không muốn coi.
A Tử thở dài:
– Thôi được. Anh vừa mới bảo bất luận tôi muốn gì, dù phải bỏ mạng anh cũng làm, hóa ra cũng chỉ để xí gạt tôi thôi.
Du Thản Chi đáp:
– Không, không! Tôi không nói láo đâu. Cô nương bảo tôi làm gì?
A Tử nói:
– Tôi muốn về ở bên cạnh tỉ phu, anh ta ở Nam Kinh nước Liêu. Trang đại ca, nhờ anh đưa tôi về.
Nàng vừa nói thế, đầu óc Du Thản Chi trở nên hỗn loạn nhưng không dám nói nên lời. A Tử hỏi:
– Sao? Anh không chịu ư?
Du Thản Chi ấp úng:
– Không phải… không chịu, có điều… có điều tôi không muốn… không muốn đến Nam Kinh nước Liêu.
A Tử nói:
– Tôi bảo anh đến xem gã hề đầu sắt, anh không chịu, bảo anh đưa tôi về với anh rể tôi, anh cũng không chịu. Thôi thế thì tôi đi một mình vậy.
Nói xong nàng chậm rãi đứng lên, hai tay đưa ra đằng trước mò đường. Du Thản Chi nói:
– Để tôi đi với cô! Cô đi một mình… sao được?
Du Thản Chi cầm bàn tay nhỏ nhắn mịn màng của A Tử, dẫn nàng ra khỏi khu rừng, trong bụng chỉ nghĩ: “Chỉ cần mình được nắm tay nàng đi chầm chậm như thế này, thì dù phải đến mười tám tầng địa ngục thì ta vẫn hết sức hài lòng.” Đến khi hai người ra tới đường cái, nhìn lên thấy có một đám ăn mày, người đi đầu thân hình gầy cao, tướng mạo thanh tú, chính là Cái Bang Đại Trí phân đà đà chủ Toàn Quan Thanh. Du Thản Chi nghĩ thầm: “Gã này hôm trước bị sư phụ ta đả thương, hóa ra không chết.” Y không muốn gặp bọn này, vội vàng dẫn A Tử rời đại lộ, đi vào phía đồng hoang. A Tử thấy đường lồi lõm không phẳng bèn hỏi:
– Cái gì thế?
Du Thản Chi chưa kịp trả lời, Toàn Quan Thanh đã trông thấy hai người, rảo bước đi tới chặn lại, hầm hầm gặng hỏi:
– Làm gì mà lấp lấp ló ló ở đây? Ngươi… ngươi hình dáng kỳ quái, làm cái trò gì?
Du Thản Chi hoảng hốt nghĩ thầm: “Nếu như y gọi ra ba chữ thằng đầu sắt thì A Tử cô nương biết ngay mình là ai, sẽ không còn nhìn nhõi gì đến mình nữa. Dẫu nàng có bằng lòng cho mình đưa về Nam Kinh thì cũng không bao giờ để cho mình nắm tay nữa.” Y bàng hoàng không biết tính sao, đột nhiên quì phục xuống, lạy như tế sao, tay chỉ trỏ lung tung yêu cầu Toàn Quan Thanh đừng nói lộ chân tướng mình ra.
Toàn Quan Thanh chẳng hiểu y ra hiệu để làm gì, lạ lùng hỏi:
– Ngươi làm gì thế?
Du Thản Chi chỉ vào A Tử, xua xua tay, lại chỉ vào mồm mình, xua xua tay, rồi lại lạy mấy cái. Toàn Quan Thanh nhìn ra A Tử đã bị mù, hiểu ra gã đầu sắt này xin mình đừng nói, còn đang ngạc nhiên, các đệ tử Cái Bang đã chạy ùa đến. Một người chỉ vào đầu Du Thản Chi, cười hềnh hệch kêu lên:
– Lạ chưa kìa, gã này đầu…
Du Thản Chi tung mình nhảy tới, chưởng đánh ra. Gã đệ tử Cái Bang vội đưa tay lên đỡ, chỉ nghe lắc cắc mấy tiếng, xương cánh tay lẫn xương sườn đều gãy vụn, thân hình bắn tung về sau cả trượng, nằm gục xuống đất, chết tươi ngay.
Bọn ăn mày vừa kinh hãi vừa tức giận, lập tức năm người khác xông lên tấn công Du Thản Chi. Du Thản Chi song chưởng vung lên, đánh đấm lung tung. Võ công y tuy thấp kém thua xa đệ tử Cái Bang nhưng thủ chưởng đến đâu, chỉ nghe lắc cắc, lộp cộp liên hồi, Chết rồi!, Chao ôi!, bình bình bình, bịch bịch, cả năm tên đều văng ra, rơi xuống chết cả. Bọn còn lại hết sức kinh hoàng, lập tức vây quanh Du Thản Chi và A Tử nhưng không kẻ nào dám xông lên tấn công.
Du Thản Chi đột nhiên lại quay về phía Toàn Quan Thanh quì xuống, lạy như tế sao, rồi lại giơ tay chỉ trỏ, chỉ vào A Tử, lại chỉ vào cái đầu sắt của mình, không ngớt xua tay.
Toàn Quan Thanh thấy y giơ tay lên đã giết được sáu bang chúng Cái Bang, công lực thâm hậu, quả thực bình sinh ít thấy, đến như mình có tiến lên động thủ, chưa chắc đã thắng được y, thế nhưng y lại lạy lục mình, quả không sao hiểu nổi, bèn cũng ra hiệu lại, chỉ vào A Tử, chỉ vào đầu sắt của y, rồi chỉ vào mồm mình, xua xua tay.
Du Thản Chi mừng quá, gật đầu liên tiếp. Toàn Quan Thanh trong lòng chợt nghĩ: “Gã này võ công cực kỳ cao siêu nhưng lại sợ ta tiết lộ chuyện bí mật của y, xem chừng mình có thể nhân chuyện này ép y vào việc mình có thể dùng được.” Y bèn quay sang nói với các thủ hạ:
– Tất cả không ai được nói năng gì, tất cả mọi việc để cho ta hỏi chuyện.
Du Thản Chi lại càng mừng rỡ, lạy thêm mấy cái nữa. A Tử hỏi:
– Trang đại ca, bọn nào thế? Anh đánh chết mấy người phải không?
Du Thản Chi nói:
– Đây là các hảo bằng hữu của Cái Bang, chẳng qua chỉ hiểu lầm một chút. Vị Đại Trí phân đà Toàn đà chủ đây nhân nghĩa hơn người, tốt bụng lắm, trước nay ta vẫn hết sức khâm phục. Ta… ta lỡ tay giết chết mấy vị huynh đệ, quả thực vô cùng ân hận.
Nói xong chắp tay tạ tội với bọn người Cái Bang. A Tử hỏi:
– Trong Cái Bang cũng có người tốt sao? Trang đại ca, anh võ công cao siêu như thế, chi bằng giết sạch bọn chúng đi, để cho tỉ phu tôi đỡ tức.
Du Thản Chi vội đáp:
– Ấy chết, không được, cái đó chẳng qua chỉ hiểu lầm. Tôi với Toàn đà chủ là hảo bằng hữu. Cô ở đây đợi, tôi đi với Toàn đà chủ nói cho rõ sự tình.
Nói xong đưa tay vẫy vẫy Toàn Quan Thanh. Toàn Quan Thanh thấy y nhận ra mình, càng thêm lạ lùng, nhưng xem ra không có gì ác ý, nên cũng theo y đi ra ngoài hơn mười trượng. Du Thản Chi thấy mình đi cách A Tử cũng đã xa, nàng không thể nào nghe được mình nói những gì nhưng lại sợ bọn ăn mày làm hại nàng, không dám đi thêm nữa nên ngừng lại, chắp tay nói:
– Toàn đà chủ, nhờ có ông ẩn dấu chân tướng cho tôi, đại ân đại đức đó quyết không dám quên.
Toàn Quan Thanh đáp:
– Nguyên do bên trong, huynh đệ thật chẳng hiểu chi hết. Tôn huynh cao tính đại danh là gì?
Du Thản Chi nói:
– Huynh đệ họ Trang, tên gọi Trang Tụ Hiền, chỉ vì bản thân gặp chuyện không may, trên đầu mới đeo cái của quỉ này, thành thử chẳng thể nào cho vị cô nương đó biết được.
Toàn Quan Thanh thấy y trong khi nói đưa mắt nhìn A Tử với vẻ cực kỳ quan thiết, cũng đoán ra được bảy tám phần: “Cô nương kia thanh nhã tú lệ, gã này đem lòng yêu mến cô ta, sợ nàng biết y hình dáng quái dị, có cái đầu sắt.” Y bèn hỏi:
– Trang huynh làm sao lại biết đến tại hạ?
Du Thản Chi đáp:
– Khi Đại Trí phân đà của quí bang tụ hội bàn tính chuyện suy tuyển người làm bang chủ, huynh đệ ở cạnh bên, nghe thấy người ta gọi Toàn đà chủ. Hôm nay huynh đệ lỡ tay đánh chết mấy vị huynh đệ của quí bang, quả là… quả là sai quấy, mong Toàn đà chủ lượng thứ cho.
Toàn Quan Thanh nói:
– Chúng ta ai chẳng có lúc lầm lẫn, có gì đáng quan tâm đâu. Trang huynh, cái vật huynh đài mang trên đầu, huynh đệ quyết không nói ra. Để tại hạ dặn thuộc hạ không ai được tiết lộ chút phong thanh nào cả.
Du Thản Chi cảm kích muốn chảy nước mắt, liên tiếp chắp tay vái nói:
– Đa tạ! Đa tạ!
Toàn Quan Thanh nói tiếp:
– Thế nhưng Trang huynh cùng cô nương đó dắt tay nhau đi trên đường, khó mà không để cho người khác trông thấy, ắt có người kinh hoảng kêu la rầm lên, dù cho Trang huynh có giết đi thì cũng không kịp.
Du Thản Chi đáp:
– Đúng lắm! Đúng lắm!
Y từ khi cứu được A Tử, thần hồn phiêu đãng nên quên khuấy mất chuyện đó, bây giờ nghe Toàn Quan Thanh nói không biết phải tính thế nào, ngượng nghịu nói:
– Tôi… tôi chỉ có nước đưa nàng tới một nơi thâm sơn cùng cốc trốn ở đó thôi.
Toàn Quan Thanh mỉm cười nói:
– Chỉ e cô nương này khởi nghi, vả lại, sau khi Trang huynh với cô ta kết thành đôi lứa, sớm muộn gì cũng phải biết thôi.
Du Thản Chi ngực như sôi lên ấp úng:
– Kết thành đôi… đôi lứa ư, tôi nào dám nghĩ đến, chắc… chắc không được rồi, tôi đâu… đâu có xứng? Chẳng qua… chẳng qua… ư quả là khó thật.
Toàn Quan Thanh nói:
– Trang huynh, nếu như không hiềm thì cùng huynh đệ kết thành bằng hữu, bạn bè có chuyện khó khăn thì phải lo liệu giúp nhau. Chi bằng mình đến thị trấn trước mặt, thuê một cỗ xe, ngươi cùng cô nương đó ngồi trong xe, chẳng ai thấy được hai người.
Du Thản Chi mừng lắm, nghĩ đến việc được cùng A Tử ngồi chung một xe, thật thần tiên cũng không bằng, vội đáp:
– Đúng, đúng rồi! Ý kiến đó của Toàn đà chủ cao minh lắm.
Toàn Quan Thanh nói tiếp:
– Sau này mình tìm cách tháo cái mũ sắt trên đầu Trang huynh đi, huynh đệ vỗ ngực bảo đảm, vị cô nương đó vĩnh viễn không bao giờ biết được chuyện đáng hổ thẹn đó của Trang huynh đâu, ngươi nghĩ sao?
Cộp một tiếng, Du Thản Chi đã quì mọp xuống, hướng về Toàn Quan Thanh liên tiếp rập đầu, chiếc lồng sắt chạm xuống đất kêu boong boong. Toàn Quan Thanh cũng quì xuống hoàn lễ, nói:
– Trang huynh hành đại lễ như thế này, huynh đệ làm sao dám nhận? Nếu như Trang huynh không hiềm, hai đứa mình kết nghĩa kim lan, nên chăng?
Du Thản Chi mừng rỡ nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Tiểu đệ chuyện gì cũng không thông, có được một huynh trưởng túc trí đa mưu chỉ điểm cho đường ngay nẻo sáng, quả thật cầu còn không được.
Toàn Quan Thanh cười hà hà nói:
– Người ca ca này hơn ngươi vài tuổi, thôi chẳng khách sáo gì gọi ngươi một tiếng huynh đệ nhé.
* * *
Trong khi Đinh Xuân Thu và Tô Tinh Hà đánh nhau trời long đất lở như thế, mắt Đoàn Dự trước sau vẫn không rời Vương Ngữ Yên, còn Vương Ngữ Yên thì lại đầy vẻ tình ý đăm đăm như dán vào người biểu ca. Thành thử ánh mắt Đoàn Vương hai người thủy chung cũng vẫn chưa hề chạm nhau.
Đến khi Đinh Xuân Thu đại bại bỏ chạy, Hư Trúc hội ngộ với người của phái Tiêu Dao, bọn Mộ Dung Phục bỏ đi, Đoàn Dự cũng mê mê mẩn mẩn lẽo đẽo theo Vương Ngữ Yên.
Xuống dưới chân núi rồi, Mộ Dung Phục quay sang chắp tay chào Đoàn Dự:
– Hôm nay may mắn được biết Đoàn huynh, giờ xin từ biệt, ngày sau mong lại gặp nhau.
Đoàn Dự lập cập nhắc lại:
– Vâng! Vâng! Hôm nay may mắn được biết, giờ xin từ biệt, ngày sau mong lại gặp nhau.
Miệng nói nhưng mắt vẫn chăm chăm không rời khỏi thân hình Vương Ngữ Yên. Mộ Dung Phục cảm thấy khó chịu, hừ một tiếng, quay người bước đi. Đoàn Dự vẫn lưu luyến lọt tọt theo sau. Bao Bất Đồng giơ tay chặn ngang Đoàn Dự nói:
– Đoàn công tử, hôm nay công tử ra tay tương trợ chủ nhân chúng tôi, Bao mỗ xin đa tạ.
Đoàn Dự đáp:
– Có gì đâu mà phải khách sáo.
Bao Bất Đồng tiếp:
– Việc này đã cảm tạ rồi, hai bên không còn nợ nần gì nhau nữa. Thế nhưng mắt ngươi chăm chăm không rời Vương cô nương, đã vô lễ lắm rồi, bây giờ lại còn toan đi theo, thì thật hết chỗ nói. Ngươi là kẻ đọc sách, sao không biết câu “phi lễ vật thị, phi lễ vật hành”(33.1) hay sao? Bao mỗ lúc này trên người không có một chút lực khí nào nhưng vẫn còn cái miệng để chửi đấy nhé.
Đoàn Dự thở dài, lắc đầu:
– Nếu đã nói thế, Bao huynh cũng nên phi lễ vật ngôn, còn ta thì đành phi lễ vật căn(33.2) vậy.
Bao Bất Đồng cười sằng sặc nói:
– Ngươi nói phải lắm!
Nói xong y quay lại chạy theo bọn Mộ Dung Phục. Đoàn Dự đưa mắt nhìn theo Vương Ngữ Yên đến khi bóng nàng khuất sau rừng cây nhưng vẫn ngơ ngẩn như người mất hồn. Chu Đan Thần nói:
– Công tử, mình đi thôi.
Đoàn Dự đáp:
– Ừ, thì đi vậy.
Nói thế nhưng chàng vẫn đứng yên, đến lúc Chu Đan Thần giục giã đến ba lần mới uể oải trèo lên con ngựa Cổ Đốc Thành dắt lại. Chàng tuy đã ngồi trên lưng ngựa nhưng mắt vẫn hướng về lối Vương Ngữ Yên vừa đi.
Hôm đó Đoàn Dự đưa thư cho Toàn Quan Thanh rồi vội chạy đến bái kiến Đoàn Chính Thuần. Cha con lâu ngày gặp lại, cả hai đều vui mừng khôn xiết. Nguyễn Tinh Trúc cũng hết sức chiều đãi vị tiểu vương gia này. A Tử không từ biệt mà đi mất thành ra hai anh em chưa có dịp gặp nhau. Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc thấy việc A Châu, A Tử không có gì làm đẹp đẽ nên cũng không đề cập tới.
Ở hơn mười ngày, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi cũng tìm đến. Nơi Cầm Vận tiểu trúc đất Tô Châu, hai chú cháu lạc mất Đoàn Dự nên đi khắp nơi dò hỏi nhưng chẳng thấy tung tích đâu, về sau do người của bản môn ở núi Phục Ngưu, Hà Nam cho hay tin là Trấn Nam Vương nước Đại Lý đến đây nên từ núi Phục Ngưu chạy tới, thấy Đoàn Dự an toàn không sao, thật mừng rỡ.
Đoàn Dự sau khi thập tử nhất sinh rồi, nay gặp được đoàn tụ với cha tuy có vui thật nhưng mối tình tưởng nhớ Vương Ngữ Yên càng ngày càng tăng, đợi đến kỳ hẹn đánh cờ, được phụ thân đồng ý liền cùng bọn Cổ Đốc Thành phó hội. Quả nhiên không phụ tấm lòng mong mỏi, nơi kỳ hội chàng được thấy lại ý trung nhân. Thế nhưng gặp nhau chỉ thêm sầu khổ, gặp hay không gặp đằng nào hơn, chính chàng cũng không biết nữa.
Đoàn người đi chừng hơn hai chục dặm bỗng thấy trước mặt bụi bay tung, khoảng hơn chục người cưỡi ngựa chạy đến, chính là Tam Công nước Đại Lý Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch cùng một số tướng sĩ khác. Những người đó tới gần nhảy xuống ngựa hành lễ với Đoàn Dự. Thì ra bọn họ phụng mệnh Đoàn Chính Thuần đến tiếp ứng, sợ rằng trong hội cờ của Lung Á tiên sinh có gì hung hiểm chăng. Những người đó nghe thấy Đoàn Diên Khánh cũng có mặt, cũng may không hạ thủ Đoàn Dự, ai nấy đều nổi da gà.
Chu Đan Thần nói nhỏ với bọn Phạm Hoa là Đoàn Dự ở trong kỳ hội gặp một cô gái xinh đẹp của nhà Mộ Dung Cô Tô, ngơ ngẩn nhìn không chớp mắt, mất hồn mất vía, lại định đi theo, cũng may đối phương trách cứ mới thôi. Bọn Phạm Hoa nhìn nhau cười tủm tỉm, người nào cũng nghĩ như nhau: “Tiểu vương tử phong lưu đã quen, quả là con giòng cháu giống. Thế nhưng nếu vậy mà quên được chuyện nhớ nhung cô em gái thì cũng là điều hay lắm.”
Đên chiều hôm đó, cả đoàn người ở lại khách điếm ăn cơm. Phạm Hoa kể lại chuyến đi Giang Nam, nói:
– Công tử gia, nhà Mộ Dung xem ra vô cùng ngụy bí, sau này nếu gặp họ phải thật cẩn thận mới được.
Đoàn Dự hỏi lại:
– Sao thế?
Phạm Hoa đáp:
– Lần này ba anh em chúng tôi phụng tướng lệnh của vương gia, đến nhà Mộ Dung ở Yến Tử Ổ đất Tô Châu tra xét, xem có chút dấu vết gì không, Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm có thực là bị nhà Mộ Dung hạ sát chăng.
Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi hết sức quan tâm, cùng lên tiếng hỏi:
– Ba vị có tra xét được chút nào không?
Phạm Hoa đáp:
– Chúng tôi ba người không ngang nhiên đến bái kiến, chỉ tra xét ngầm thôi, trong nhà Mộ Dung không thấy chủ nhân nam nữ đâu cả, chỉ còn toàn đầy tớ lão bộc. Cả mấy tòa trang viện to lớn dường ấy mà chỉ có một cô gái nhỏ tên là A Bích trông nom quán xuyến mọi việc.
Đoàn Dự gật đầu nói:
– Ừ, A Bích cô nương là người rất tốt, các vị không làm gì tổn thương cô ta chứ?
Phạm Hoa mỉm cười:
– Không đâu, chúng tôi tra xét luôn mấy đêm liền, chỗ nào trong trang viện nhà Mộ Dung cũng có đến, không thấy điều gì khác lạ cả. Ba huynh đệ đột nhiên nghĩ ra, gã phiên tăng Cưu Ma Trí mời công tử từ Đại Lý đến Giang Nam, nói là đem đến tế Mộ Dung tiên sinh…
Thôi Bách Tuyền ngắt lời:
– Đúng đó! Hai con a đầu trong Mộ Dung Trang nhất định không chịu dẫn phiên tăng đi tế mộ, cũng nhờ thế nên công tử gia mới thoát khỏi độc thủ của gã sư hổ mang kia.
Đoàn Dự gật đầu nói:
– A Châu, A Bích hai vị cô nương quả là người tốt bụng. Không biết họ bây giờ ra sao rồi?
Ba Thiên Thạch mỉm cười nói:
– Chúng tôi ba đêm liên tiếp đều chỉ thấy A Bích cô nương ngồi may một chiếc trường bào đàn ông, lẩm bẩm một mình: “Công tử gia đi ra ngoài chừ lạnh lắm, không biết chừng mô mới quay về?” Đoàn công tử, phải chăng cô ta may áo cho công tử chăng?
Đoàn Dự vội đáp:
– Không phải, không phải đâu! Cô ta may áo cho Mộ Dung công tử đó.
Ba Thiên Thạch nói:
– Đúng rồi! Ta xem con tiểu a đầu đó hồn vía đâu đâu, hẳn là nhớ đến công tử gia nhà thị, thành thử ba người ta đi hết phòng này sang phòng khác mà thị có hay biết gì đâu.
Y dằn mạnh câu đó để nhắc chừng Đoàn Dự đừng theo thói của cha, đi đâu vương vãi ái tình đến đó, trong lòng A Bích chỉ nhớ đến Mộ Dung công tử, Đoàn công tử chớ có tơ tưởng chỉ tổ mất công. Đoàn Dự thở dài một tiếng nói:
– Mộ Dung công tử tuấn nhã vô song, cũng chẳng trách được! Huống chi hai người lại là anh em cô cậu, từ tấm bé đã có tình thanh mai trúc mã…
Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch cả bọn ngơ ngác nhìn nhau, nghĩ thầm: “Đứa thị tì với công tử sao lại có tình thanh mai trúc mã được nhỉ? Anh em cô cậu là sao?” Có ai biết được Đoàn Dự nghĩ đến là Vương Ngữ Yên đấy thôi.
Thôi Bách Tuyền hỏi thêm:
– Phạm Tư Mã, Ba Tư Không thử nghĩ xem tên phiên tăng đó định đến tế mộ Mộ Dung tiên sinh là vì lý do gì? Có liên can gì đến cái chết của sư huynh tiểu nhân chăng?
Phạm Hoa đáp:
– Ta đưa ra việc này cũng chính là để cho tất cả mọi người xem xét cho tỏ tường. Hoa đại ca vừa nghe đến chữ mộ đã thấy ngứa ngáy tay chân, mới bảo: “Không chừng trong mả lão già này có cái gì kỳ quái, hay là mình đào lên xem?” Ta và Ba huynh không mấy tán thành, họ Cô Tô Mộ Dung danh mãn thiên hạ, họ Đoàn nhà mình đi đào mả người ta, xem ra quá đáng. Hoa huynh đệ bèn nói: “Mình len lén đào một địa đạo vào tới nơi, quỉ thần cũng không hay biết, huống hồ là người?” Bọn ta cãi không được đành nghe theo. Ngôi mộ đó chôn ở phía sau trang viện, ở một nơi hết sức kín đáo, không dễ gì kiếm ra. Ba người chúng ta đào đến nơi, mở quan tài, Thôi huynh có đoán ra được chăng?
Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cùng bật dậy hỏi:
– Gì thế?
Phạm Hoa đáp:
– Quan tài trống rỗng, không có xác người!
Thôi Quá hai người há hốc mồm, một hồi lâu không ngậm lại được. Qua một lúc sau, Thôi Bách Tuyền vỗ đùi nói:
– Tên Mộ Dung Bác kia chưa chết. Y bảo con y đi rảo khắp nơi ở Trung Nguyên còn y đi ra xa vài nghìn dặm giết người, khiến cho không ai ngờ được. Sư ca ta… sư ca ta chắc là do tên ác tặc Mộ Dung Bác giết rồi.