Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Ba Người Lính Ngự Lâm

Chương 20 : Du hành

Tác giả: Alexander Dumas
Chọn tập

– Đúng hai giờ sáng, bốn chàng phiêu lưu của chúng ta ra khỏi Paris, qua cửa ô Saint-Denis. Chừng nào vẫn còn là đêm, họ vẫn phải câm lặng. Dẫu không nói, họ vẫn chịu ảnh hưởng của bóng đêm và nhìn đâu cũng thấy ổ phục kích.

Vừa rạng sáng, lưỡi họ mới như được cởi trói. Cùng với mặt trời, niềm vui trở lại. Thật giống như đêm trước một cuộc giao chiến, tim đập mạnh, mắt long lanh, người ta cảm thấy cuộc đời mình sắp lìa bỏ suy cho cùng vẫn là một cái gì tốt đẹp.

Cảnh tượng đoàn người ngựa xem ra thật dữ dội. Những con ngựa ô của ngự lâm quân, dáng dấp hiếu chiến, rồi thói quen bước đều trong đội kỵ binh của những đồng đội cao quý ay, tất cả những cái đó có thể làm lộ một sự giả dạng chặt chẽ nhất. Những tên hầu theo sau, vũ trang đến tận răng.

Mọi việc đều ổn thỏa cho tới khi đến Sángtily vào lúc tám giờ sáng. Phải ăn sáng đã. Họ xuống ngựa trước một quán ăn trưng một biển hiệu vẽ Saint-Martin chia một nửa tấm áo khoác cho một người nghèo. Bọn người hầu được lệnh không được tháo yên cương ngựa và ở tư thế sẵn sàng đi ngay.

Bọn họ vào căn phòng công cộng và ngồi vào bàn. Một nhà quý tộc theo đường D’ Artagnan vừa tới cũng vào ngồi cùng bàn và điểm tâm. Hắn gợi chuyện về trời mưa và nắng ráo. Các lữ khách đáp chuyện. Hắn uống chúc họ sức khoẻ. Các lữ khách cũng đáp lễ lại.

Nhưng khi Mousqueton vào báo ngựa đã sẵn sàng, và khi mọi người đứng lên, người lạ đề nghị Porthos nâng cốc chúc sức khỏe Giáo chủ. Porthos trả lời chàng không đòi hỏi gì hơn nếu người lạ đến lượt mình cũng xuống chúc sức khỏe nhà Vua.

Người lạ hét lên hắn không biết nhà Vua nào ngoài Giáo chủ.

Porthos gọi hắn là thằng say rượu. Người lạ rút gươm.

– Cậu lại làm một chuyện dại dột rồi – Athos nói – thôi kệ vậy, lúc này có lùi cũng không được rồi, giết nó đi rồi đuổi kịp bọn mình càng nhanh càng tốt.

Và cả ba đều lên ngựa phi nước đại ra đi trong khi Porthos hứa với đối thủ sẽ đâm xuyên qua người hắn bằng tất cả các thế của thuật đấu gươm.

Đi được khoảng năm trăm bước, Athos nói:

– Thế là xong một tên?

– Nhưng tại sao tên đó lại tấn công vào Porthos thay vì mọi người khác? – Aramis hỏi.

– Tại vì – Porthos nói to hơn tất cả chúng ta, nó tưởng anh ấy là chỉ huy – D’ Artagnan nói.

Athos lẩm nhẩm:

– Mình luôn bảo, cái cậu tập sự Gátxcông này là một tay khôn ngoan thâm thúy mà.

Các lữ khách lại tiếp tục lên đường.

Đến Bôve, họ dừng lại hai giờ, vừa để cho ngựa thở, vừa để chờ Porthos. Không thấy Porthos đến, cũng chẳng có tin gì về chàng, họ lại lên đường.

Đi khỏi Bôve chừng một dặm, đến một chỗ đường đi thắt lại giữa hai vạt đất, họ gặp một bọn tám đến mười người, lợi dụng đoạn đường bị bong đá lát có vẻ như đang làm việc ở đó bằng việc đào hố và xẻ rãnh bùn.

Aramis sợ bẩn ủng trong lớp vữa nhân tạo ấy, quát mắng bọn họ thậm tệ. Athos muốn ngăn chàng lại, nhưng đã quá muộn. Những người thợ bèn châm chọc các lữ khách, sự cấc lấc của họ làm điên đầu cả đến chàng Athos tính lạnh, đến mức thúc ngựa xông vào một người trong bọn.

Thế là mỗi người trong bọn họ đều lùi lại đến tận cái hố, và vồ lấy một khẩu hỏa mai giấu ở đấy. Kết quả là bẩy lữ khách của chúng ta chẳng khác gì được đem ra để thử súng. Aramis nhận một viên đạn xuyên qua vai và Mousqueton bị một viên cắm vào thịt vùng dưới thận. Tuy nhiên chỉ có mỗi Mousqueton ngã ngựa không phải vì bị trọng thương, mà vì hắn không thể nhìn thấy vết thương, chắc hắn tưởng nguy hiểm chứ đâu phải thường.

– Đây là một ổ phục kích – D’ Artagnan nói – Đừng bắn nữa, lên đường thôi.

Aramis tuy bị thương vẫn giữ chặt bờm ngựa, đi theo những người khác. Ngựa của Mousqueton cũng đuổi kịp đoàn và phi một mình không chủ.

– Chúng ta sẽ có một con ngựa để thay đây. Athos nói.

– Giá tôi có một chiếc mũ thì tốt quá – D’ Artagnan nói – Mũ của tôi bị đạn làm bay mất rồi. Kể cũng may chán, vì bức thư không để ở trong mũ.

Aramis nói:

– Nhưng bọn chúng sẽ giết Porthos khi cậu ấy qua đây mất.

– Nếu Porthos còn đứng vững trên đôi chân của mình, có lẽ cậu ấy bây giờ đã đuổi kịp chúng ta – Athos nói – Tôi nghĩ lúc giao tranh, tên say sẽ tỉnh rượu.

Rồi họ lại phi ngựa trong hai tiếng nữa, cho dù ngựa đã quá mệt đến nỗi họ sợ chúng không chịu cho cưỡi nữa.

Các lữ khách đi theo lối tắt hy vọng sẽ bớt lo. Nhưng đến Crevơcơ (Crève – Vỡ tim), Aramis tuyên bố chàng không thể đi xa hơn được nữa. Quả thật, để đi được đến đây, chàng đã phải lấy hết can đảm được che giấu dưới bề ngoài trang nhã và cung cách lịch thiệp của mình. Mỗi lúc chàng càng tái nhợt đi và mọi người phải đỡ chàng ngồi vửng trên mình ngựa. Họ để chàng xuống ngựa trước cửa một tửu quán, cho Bazin ở lại với chàng, vả chăng hắn chỉ tổ vướng chân nếu xảy ra đụng độ chứ chẳng được ích lợi gì. Rồi họ lại lên đường với hy vọng đến ngủ ở Amiêng.

Rong ruổi trên đường, lúc này chỉ còn Grimaud, Planchet và hai ông chủ, Athos nói:

– Mẹ kiếp! Bọn chúng sẽ không lừa nổi mình nữa đâu, mình đảm bảo với cậu từ đây đến Cale, chúng đừng hòng cậy nổi răng mình hoặc làm mình rút gươm khỏi vỏ.

– Thôi đừng thề thốt nữa – D’ Artagnan nói – Hãy phi lên, nếu lũ ngựa còn chịu.

Các du khách thúc đinh vào bụng ngựa, lũ ngựa được kích thích mạnh, lấy lại được sức. Họ đến Amiêng vào lúc nửa đêm và xuống ngựa ở quán trọ Huệ vàng.

Chủ quán có vẻ là một người lương thiện nhất trên đời. Lão ta tay mang cây đèn nến, tay kia ngả mũ bông chào đón khách. Hắn muốn để hai vị khách, mỗi người ngủ một căn phòng duyên dáng, nhưng chán nỗi mỗi phòng lại ở mỗi đầu quán trọ.

D’ Artagnan và Athos từ chối. Chủ quán nài mãi. Lừ khách vẫn một mực như thế. Đành phải tùy lữ khách vậy.

Họ vừa xếp đặt chỗ ngủ và chặn cửa phía trong xong thì có tiếng gõ cửa sổ trông ra sân, họ hỏi xem ai thì nhận ra tiếng nói của những người hầu, và mở ra.

Quả nhiên đó là Planchet và Grimaud. Planchet nói:

– Một mình Grimaud thôi cũng đủ để canh ngựa, và nếu các ông muốn, tôi sẽ nằm chắn cửa, như thế các ông sẽ yên trí không ai lọt vào chỗ các ông được.

– Thế anh ngủ trên cái gì? – D’ Artagnan hỏi.

Planchet trả lời:

– Giường tôi đây. – Và anh ta chỉ một bó rơm.

– Vậy vào đi! – D’ Artagnan nói – Anh có lý đấy, cái bộ mặt lão chủ quán làm ta không ưa, trông thớ lợ quá.

Athos nói:

– Cả tôi nữa cũng thấy thế.

Planchet trèo qua cửa sổ, nằm chắn ngang cửa, còn Grimaud thì chui vào chồng ngựa đảm bảo năm giờ sáng anh ta và ngựa đã sẵn sàng.

Đêm khá yên tĩnh. Khoảng hai giờ sáng, có kẻ định mở cửa thật. Nhưng Planchet giật mình chồm dậy, và kêu lên: “Ai đó?”. Kẻ kia trả lời mình nhầm và bỏ đi.

Lúc bốn giờ sáng, có tiếng ầm ầm ở chuồng ngựa. Grimaud muốn đánh thức bọn trai coi ngựa, và bọn chúng đã đánh hắn.

Khi mấy người mở cửa sổ, thì thấy gã hầu tội nghiệp nằm bất tỉnh, đầu bị một đòn cán chĩa đánh vỡ.

Planchet đi xuống sân và định gióng lại yên cương cho ngựa.

Chân ngựa đều bị tụ máu. Chỉ còn mỗi con của Mousqueton chạy không chủ trong năm sáu tiếng đồng hồ đêm trước có lẽ có thể tiếp tục lên đường. Nhưng do một sự nhầm lẫn không thể chấp nhận được, kẻ có vẻ là thú y giải phẫu mà người ta sai đi tìm để trích máu cho con ngựa của chủ quán, lại trích ngay con ngựa của Mousqueton.

Việc đó khiến mọi người trở nên lo lắng. Tất cả những tai họa kế tiếp nhau có thể do rủi ro, nhưng cũng rất có thể là kết quả của một âm mưu. Athos và D’ Artagnan ra ngoài, trong khi đó Planchet hỏi thăm xem xung quanh đây, có ba con ngựa nào muốn bán không? Ở ngoài cửa có hai con ngựa yên cương sẵn sàng, sung sức và lực lưỡng. Đúng là nắng hạn gặp mưa rào. Gã hỏi chủ ngựa đâu, người ta trả lời, họ cũng qua đêm ở đây và lúc này đang tính tiền trả chủ quán.

Athos đi xuống để trả tiền trọ. Còn D’ Artagnan và Planchet đứng ở cửa trông ra phố. Chủ quán ở trong một cái phòng thấp và sâu mãi vào trong. Người ta yêu cầu Athos vào trong.

Athos không nghi ngờ gì lấy ra hai đồng vàng để trả. Chủ quán chỉ có một mình và đang ngồi trước bàn làm việc mà một trong số ngăn kéo đã hé mở. Hắn cầm đồng tiền Athos đưa cho, lật đi lật lại từ tay này sang tay khác và bất ngờ kêu toáng lên là tiền giả, hắn tuyên bố sẽ bắt giữ bọn chàng như những kẻ làm tiền giả.

– Quân chó má! – Athos vừa nói vừa tiến lại – Tao sẽ cắt tai mày.

Cùng lúc đó, bốn người trang bị đến tận răng, qua cửa bèn xông vào và nhảy bổ lên Athos.

– Tôi bị bắt – Athos đồn hết sức kêu thật to – chạy đi thôi, D’ Artagnan phóng ngựa đi, phóng ngựa mau!

Rồi chàng nhả liền hai phát súng ngắn.

D’ Artagnan vì Planchet không để nhắc lại đến lần thứ hai, tháo luôn hai con ngựa chờ ở cửa, nhảy lên, thúc đinh vào bụng ngựa, phóng như bay.

D’ Artagnan vừa phi vừa hỏi Planchet:

– Mày có biết Athos bây giờ ra sao không?

– Ồ thưa ông – Planchet nói – tôi trông thấy hai tên ngã vì trúng hai phát đạn, và qua cửa kính, tôi thấy hình như ông đang đọ gươm với những tên khác.

– Hoan hô Athos! – D’ Artagnan lẩm nhẩm. Lại nghĩ đến việc mình phải bỏ rơi anh ấy – Ồ, mà có lẽ cũng lại như thế đang đợi ta cách đây mấy bước thôi. Planchet tiến lên, mày tốt lắm! Tiến lên!

– Thưa ông, tôi đã nói với ông rồi – Planchet trả lời. Dân Pica, khi dùng mới biết mà. Hơn nữa, tôi đang trên mảnh đất quê hương, tôi càng phấn khích.

– Và cả hai phi ngựa hết tốc lực, một mạch đến Saint Ômê. Ở Saint Ômê, họ xuống cho ngựa thở, cánh tay vẫn ngoắc dây cương, đề phòng bất trắc và ngồm ngoàm đứng ăn đôi chút ngay giữa phố và rồi lại khởi hành.

Cách cửa ô của Cale chừng trăm bước, ngựa của D’ Artagnan quỵ ngã, không có cách nào làm cho nó đứng lên được, máu trào ra mũi và hai mắt, còn lại con ngựa của Planchet, nhưng nó cũng dừng lại, không có cách nào làm nó lại đi nữa.

Cũng may chỉ còn cách thành phố trăm bước, họ bỏ ngựa lại trên đường và chạy về phía cảng. Planchet ra hiệu cho chủ mình chú ý đến một nhà quý tộc cùng với người hầu đi trước bọn họ chừng năm mươi bước.

Họ rảo bước đến gần. Gã quý tộc có vẻ đang rất bận rộn, đôi ủng của gã phủ đầy bụi đường và gã đang hỏi thăm xem có thể qua nước Anh ngay lúc này được không.

Người chủ một chiếc thuyền buồm chuẩn bị căng buồm trả lời:

– Chả có gì dễ hơn việc đó. Nhưng sáng nay có lệnh không được để người nào không được phép khẩn cấp của Giáo chủ đi qua.

– Tôi có giấy phép đó – Gã quý tộc vừa nói vừa rút mảnh giấy trong túi ra – Giấy phép đây!

– Ông hãy đem đến trấn thủ cảng xác nhận – chủ thuyền nói – và đưa cho tôi giấy ưu tiên.

– Tôi phải tìm ông trấn thủ ở đâu?

– Ở dã thự của ông ấy.

– Dã thự ấy ở đâu?

– Cách thành phố một phần tư dặm. Kia kìa, từ đây ông cũng nhìn thấy, cái mái lợp đá đen ở chân cái gò nhỏ ấy.

– Tốt lắm! – Gã quý tộc nói.

Và cùng với người hầu, gã đi theo con đường dẫn đến dã thự của viên trấn thủ.

D’ Artagnan và Planchet đi theo gã quý tộc với khoảng cách năm trăm bước.

Ra khỏi thành phố, D’ Artagnan rảo bước đuổi kịp gã, vừa lúc gã đi vào một cánh rừng nhỏ.

– Thưa ông – D’ Artagnan nói – Ông có vẻ rất vội vã?

– Người ta không thể vội hơn thế, thưa ông.

– Tôi lấy làm tiếc – D’ Artagnan nói – vì tôi cũng rất vội, nên tôi muốn nhờ ông giúp tôi một việc.

– Việc gì?

– Để tôi đi trước.

– Không được – gã quý tộc nói – tôi đã đi sáu mươi dặm và mất bốn mươi tư giờ và trưa mai tôi đã phải ở London.

– Tôi cũng đi cùng con đường ấy trong bốn mươi giờ và mười giờ sáng mai tôi phải ở London.

– Thưa ông tiếc thật. Nhưng tôi đến trước, và tôi sẽ không qua sau đâu.

– Rất tiếc thưa ông. Nhưng tôi đến sau, và tôi sẽ qua trước.

– Công việc của nhà Vua! – Gã quý tộc nói.

– Công việc của chính tôi! – D’ Artagnan nói.

– Tôi thấy hình như ông định cố tình gây sự với tôi.

– Mẹ kiếp! Thế ông muốn nó là thế nào?

– Ông muốn gì?

– Ông muốn biết điều đó ư?

– Hẳn rồi.

– Vậy thì thế này! Tôi muốn cái lệnh ông đang mang theo, bởi vì tôi không có nó, và tôi lại cần có một cái.

– Tôi cho là ông đang đùa.

– Tôi chả bao giờ đùa.

– Để tôi đi!

– Ông không đi được đâu.

– Anh bạn trẻ tử tế của ta ạ, ta sẽ bắn vỡ đầu anh, Lubanh đâu, súng ngắn của ta.

– Planchet! – D’ Artagnan nói – hãy lo tên hầu, còn ta lo thằng chủ.

Planchet hăng hái lập chiến công đầu, nhảy bổ lên Lubanh, và vì khỏe và dũng mãnh, hắn quật Lubanh ngã ngửa ra và tì gối lên ngực rồi nói với D’ Artagnan:

– Ông chủ, ông lo việc của ông đi, còn tôi, tôi đã làm xong việc của tôi rồi.

Thấy vậy, gã quý tộc rút gươm nhảy bổ vào D’ Artagnan, nhưng gã gặp phải một đối thủ khó nuốt.

Trong khoảng ba giây đồng hồ D’ Artagnan đã cho hắn ba nhát gươm, mỗi nhát chàng lại nói:

– Một nhát vì Athos! Một nhát vì Porthos! Một nhát vì Aramis.

Đến nhát thứ ba, gã quý tộc đổ vật xuống như một đống thịt.

D’ Artagnan tưởng hắn chết, hoặc ít nhất cũng bị ngất, lại gần hắn để chiếm lấy cái lệnh, nhưng đúng lúc chàng vươn cánh tay ra để lục tìm, tên bị thương vẫn chưa rời tay gươm liền xỉa luôn một mũi vào ngực chàng và nói:

– Một cho ngươi!

– Và một cho ta! Nhát cuối là nhát tốt nhất! – D’ Artagnan hét lên giận dữ, đâm nhát thứ tư xuyên qua bụng hắn cắm mũi gươm xuống đất.

Lần này gã quý tộc nhắm mắt lại và lịm đi. D’ Artagnan lục trong cái túi mà chàng thấy gã đút tờ lệnh đi đường vào đấy rồi cầm lấy. Giấy mang tên Bá tước De Wardes.

Rồi đưa mắt nhìn lần cuối con người trẻ tuổi đẹp trai suýt soát hai nhăm tuổi, bỏ mặc hắn nằm đấy không còn cảm giác, có lẽ đã chết, chàng buông một tiếng thở dài, buồn thay cho cái định mệnh trớ trêu xui khiến con người hủy hoại lẫn nhau vì lợi ích của những kẻ xa lạ với mình và thường không biết cả đến việc mình đang tồn tại nữa.

Nhưng chàng bị bứt ra khỏi những ý nghĩ ấy bởi những tiếng gào thét hết sức mình kêu cầu cứu của Lubanh.

Planchet lấy tay chẹn họng hắn, và dùng hết sức siết chặt lại rồi nói:

– Thưa ông, chừng nào tôi còn chẹn thế này, nó sẽ không kêu nữa, tôi tin chắc như vậy. Nhưng tôi chỉ vừa buông tay ra là nó lại rống lên ngay. Tôi nhận ra nó là người Noócmăng, và dân Noócmăng thì bướng lắm.

Thật vậy, bị chẹn đến thế, Lubanh vẫn cố để lọt ra tiếng kêu.

– Đợi đã! – D’ Artagnan nói.

Cầm chiếc khăn tay, chàng nhét vào miệng hắn và bảo Planchet:

– Bây giờ, trói nó vào một gốc cây.

Công việc được thực hiện cẩn thận, rồi họ kéo Bá tước De Wardes đến gần tên đầy tớ. Và vì đêm bắt đầu buông, kẻ bị trói và kẻ bị tử thương cả hai đều ở sâu mấy bước ở trong rừng, đương nhiên họ phải ở lại đó đến ngày hôm sau.

– Và bây giờ – D’ Artagnan nói – ta đến nhà trấn thủ.

– Nhưng tôi thấy hình như ông cũng bị thương? – Planchet nói.

– Không sao cả, ta hãy lo chuyện gấp nhất đã, rồi hãy nói đến vết thương của ta sau, vả chăng hình như cũng không nguy hiểm lắm đối với ta.

– Và cả hai rảo bước tới dã thự của viên trấn thủ đáng kính.

Người ta thông báo có Bá tước De Wardes.

D’ Artagnan được dẫn vào.

– Ông có lệnh do Giáo chủ ký? – Viên trấn thủ hỏi.

– Vâng, thưa ông – D’ Artagnan trả lời – lệnh đây.

– Ờ, ờ, thế này là hợp thức và bảo đảm lắm rồi – viên trấn thủ nói.

– Đơn giản thôi – D’ Artagnan trả lời – tôi là một trong những người thân tín của Giáo chủ mà.

– Hình như Đức ông muốn ngăn ai đó đến nước Anh.

– Phải, một thằng cha D’ Artagnan nào đó, một tên quý tộc người Bearn xuất phát từ Paris cùng với ba tên bạn với ý đồ đến tận London.

– Ông có biết đích thân hắn không? – Viên trấn thủ hỏi.

– Ai cơ?

– Cái tên D’ Artagnan ấy.

– Quá rõ.

– Vậy cho tôi biết đặc điểm của hắn đi.

– Không gì dễ hơn.

Và D’ Artagnan tả từng nét, từng nét đặc điểm của Wardes.

– Hắn có ai đi cùng không? – Viên trấn thủ hỏi.

– Có, một tên hầu là Lubanh.

– Người ta sẽ canh chừng bọn chúng, và nếu tóm được chúng, Đức ông có thể yên tâm, chúng sẽ được giải về Paris, và được áp giải cẩn thận.

D’ Artagnan nói:

– Thưa ông, nếu làm được chuyện đó, ông sẽ có công lớn với Giáo chủ.

– Khi quay về, ông lại gặp lại Giáo chủ chứ, thưa Bá tước?

– Chắc chắn thế rồi.

– Xin Bá tước nói giùm với Giáo chủ, tôi xin hết lòng phụng sự ngài.

– Tôi sẽ không quên đâu.

Vui mừng vì được bảo đảm như thế, viên trấn thủ xác nhận vào tờ giấy thông hành và trao lại cho D’ Artagnan.

D’ Artagnan không để mất thì giờ vào những việc chúc tụng vô ích, chàng chào viên trấn thủ, cám ơn và ra đi.

Khi đã ra ngoài, chàng và Planchet đi theo đường vòng để tránh khu rừng và vào thành phốbằng một cửa ô khác.

Con thuyền luôn sẵn sàng ra đi, chủ thuyền đang đợi trên boong thuyền. Thấy D’ Artagnan ông ta hỏi:

– Thế nào?

– Đây là giấy thông hành đã được xác nhận.

– Còn nhà quý tộc kia?

– Ông ta không đi hôm nay – D’ Artagnan nói – nhưng ông yên tâm, tôi sẽ trả tiền đi cho cả hai suất.

– Nếu thế thì đi thôi – chủ thuyền nói.

– Ta đi thôi! – D’ Artagnan lắp lại.

Rồi chàng và Planchet nhảy xuống chiếc xuồng nhỏ. Năm phút sau họ đã cặp mạn thuyền.

Ra biển được nửa dặm, D’ Artagnan thấy một vùng sáng lóe lên và một tiếng nổ. Thì ra đó là tiếng đại bác báo hiệu đóng cửa hải cảng.

Đã đến lúc chăm sóc vết thương của mình, may sao đúng như D’ Artagnan nghĩ, nó không nguy hiểm lắm, mũi gươm gặp phải một xương sườn và trượt dọc theo chiếc xương đó, thêm nữa, áo lót dính ngay vào vết thương và chỉ chảy mất mấy giọt máu.

D’ Artagnan mệt lả. Họ trải cho chàng một tấm nệm trên boong thuyền, chàng lăn ra và ngủ thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau, chàng thấy mình chỉ cách bờ biển nước Anh ba bốn dặm. Suốt đêm gió yếu nên đi được ít.

Khoảng mười giờ, thuyền thả neo ở cảng Đuvrơ.

– Mười giờ rưỡi, ta đã ở đây rồi!

Nhưng thế chưa đủ, còn phải đến London. Ở nước Anh, bưu trạm phục vụ khá tốt. D’ Artagnan và Planchet mỗi người cưỡi một con ngựa nhỏ, một phu trạm chạy trước dẫn đường họ.

Bốn giờ sau, họ đã tới cửa ô kinh thành.

D’ Artagnan không quen biết London, không biết một câu tiếng Anh, nhưng chàng viết lên một mẩu giấy cái tên Buckingham và ai ai cùng chỉ dinh Quận công cho chàng.

Quận công đi săn ở Uynxo với nhà Vua.

D’ Artagnan hỏi người hầu thân tín của Quận công, thường đi theo ông trong mọi cuộc du hành, nói tiếng Pháp thông thạo.

Chàng bảo anh ta rằng mình đến London vì một việc sinh tử, và anh ta phải nói ngay cho chủ mình tức khắc.

Giọng nói đáng tin của D’ Artagnan đã thuyết phục được Patrítxơ. Patrítxơ là tên người thừa hành của Thủ tướng. Anh ta đóng yên cương hai con ngựa, tự đảm nhiệm việc dẫn đường chàng cận vệ trẻ. Còn Planchet, người ta phải đỡ hắn từ trên lưng ngựa xuống, chàng trai đáng thương đã kiệt sức, ngồi cứng đờ như cây chò, không như D’ Artagnan vững như thép.

Mọi người đã đến lâu đài, hỏi thăm thì biết nhà Vua và Buckingham đi săn chim ở đầm lầy cách đây hai ba dặm.

Hai người đến nơi chỉ dẫn mất hai mươi phút. Patrítxơ nghe thấy ngay tiếng chủ mình đang gọi chim ưng. Patrítxơ hỏi chàng:

– Tôi phải thông báo ai muốn gặp Huân tước Quận công đây?

– Cứ nói chàng trai trẻ một buổi tối đã kiếm cớ gây sự với ngài ở cầu Mới trước mặt nhà thờ Samaritain là được rồi.

– Lối giới thiệu lạ đời nhỉ!

– Anh sẽ thấy nó gấp mấy lối khác ấy chứ.

Patrítxơ phi ngựa nước đại đến gặp Quận công và thông báo với ông đúng lời lẽ D’ Artagnan đã nói là có một sứ giả đang đợi ông.

Buckingham nhận ra D’ Artagnan ngay và ngờ rằng có chuyện gì đó xảy ra ở Pháp nên phải cho chàng mang tin đến, ông chỉ kịp hỏi người đưa tin đang ở đâu và từ xa đã nhận ra bộ đồng phục cận vệ, ông cho ngựa phi nước đại đến thẳng chỗ D’ Artagnan. Patrítxơ cẩn thận đứng tránh ra.

– Hoàng hậu không gặp phải chuyện chẳng lành nào chứ? – Buckingham hỏi bằng tất cả nỗi nhớ mong và tình yêu của mình.

– Tôi không nghĩ như vậy. Tuy nhiên, tôi tin bà đang gặp một mối nguy lớn mà chỉ có Đức ngài mới có thể giải thoát.

– Ta ư? – Buckingham hỏi – Thế nào nào? Ta sẽ rất sung sướng được có ích cho bà trong một việc nào đó! Nói đi nào! Nói đi?

– Ngài hãy xem bức thư này! – D’ Artagnan nói.

– Bức thư này ư! Của ai gửi cho ta?

– Tôi nghĩ đó là của Hoàng hậu.

– Của Hoàng hậu! – Buckingham vừa nói vừa tái nhợt đi khủng khiếp, D’ Artagnan tưởng ông ta sắp ngất.

Và ông ta bẻ xi niêm phong.

– Vết rách này là cái gì? – Ông ta vừa nói vừa chỉ cho D’ Artagnan một chỗ thư bị xuyên thủng.

– À, à, – D’ Artagnan nói – Tôi không để ý cái đó. Đó là vết mũi gươm của Bá tước De Wardes, rất đẹp khi đâm vào ngực tôi đấy!

– Ông bị thương à? – Buckingham vừa bẻ xi vừa hỏi.

– Ồ không sao? Một vết xước thôi.

– Trời, ta vừa đọc cái gì đây? – Công tước kêu lên – Patrítxơ hãy ở lại đây rồi xem nhà Vua ở đâu, đi theo và tâu với Hoàng thượng là ta cúi đầu van xin Ngài hãy tha thứ cho ta vì ta có việc tối quan trọng phải có mặt ở London – còn ông đi theo ta.

– Và cả hai cùng phi nước đại về kinh thành.

– Đúng hai giờ sáng, bốn chàng phiêu lưu của chúng ta ra khỏi Paris, qua cửa ô Saint-Denis. Chừng nào vẫn còn là đêm, họ vẫn phải câm lặng. Dẫu không nói, họ vẫn chịu ảnh hưởng của bóng đêm và nhìn đâu cũng thấy ổ phục kích.

Vừa rạng sáng, lưỡi họ mới như được cởi trói. Cùng với mặt trời, niềm vui trở lại. Thật giống như đêm trước một cuộc giao chiến, tim đập mạnh, mắt long lanh, người ta cảm thấy cuộc đời mình sắp lìa bỏ suy cho cùng vẫn là một cái gì tốt đẹp.

Cảnh tượng đoàn người ngựa xem ra thật dữ dội. Những con ngựa ô của ngự lâm quân, dáng dấp hiếu chiến, rồi thói quen bước đều trong đội kỵ binh của những đồng đội cao quý ay, tất cả những cái đó có thể làm lộ một sự giả dạng chặt chẽ nhất. Những tên hầu theo sau, vũ trang đến tận răng.

Mọi việc đều ổn thỏa cho tới khi đến Sángtily vào lúc tám giờ sáng. Phải ăn sáng đã. Họ xuống ngựa trước một quán ăn trưng một biển hiệu vẽ Saint-Martin chia một nửa tấm áo khoác cho một người nghèo. Bọn người hầu được lệnh không được tháo yên cương ngựa và ở tư thế sẵn sàng đi ngay.

Bọn họ vào căn phòng công cộng và ngồi vào bàn. Một nhà quý tộc theo đường D’ Artagnan vừa tới cũng vào ngồi cùng bàn và điểm tâm. Hắn gợi chuyện về trời mưa và nắng ráo. Các lữ khách đáp chuyện. Hắn uống chúc họ sức khoẻ. Các lữ khách cũng đáp lễ lại.

Nhưng khi Mousqueton vào báo ngựa đã sẵn sàng, và khi mọi người đứng lên, người lạ đề nghị Porthos nâng cốc chúc sức khỏe Giáo chủ. Porthos trả lời chàng không đòi hỏi gì hơn nếu người lạ đến lượt mình cũng xuống chúc sức khỏe nhà Vua.

Người lạ hét lên hắn không biết nhà Vua nào ngoài Giáo chủ.

Porthos gọi hắn là thằng say rượu. Người lạ rút gươm.

– Cậu lại làm một chuyện dại dột rồi – Athos nói – thôi kệ vậy, lúc này có lùi cũng không được rồi, giết nó đi rồi đuổi kịp bọn mình càng nhanh càng tốt.

Và cả ba đều lên ngựa phi nước đại ra đi trong khi Porthos hứa với đối thủ sẽ đâm xuyên qua người hắn bằng tất cả các thế của thuật đấu gươm.

Đi được khoảng năm trăm bước, Athos nói:

– Thế là xong một tên?

– Nhưng tại sao tên đó lại tấn công vào Porthos thay vì mọi người khác? – Aramis hỏi.

– Tại vì – Porthos nói to hơn tất cả chúng ta, nó tưởng anh ấy là chỉ huy – D’ Artagnan nói.

Athos lẩm nhẩm:

– Mình luôn bảo, cái cậu tập sự Gátxcông này là một tay khôn ngoan thâm thúy mà.

Các lữ khách lại tiếp tục lên đường.

Đến Bôve, họ dừng lại hai giờ, vừa để cho ngựa thở, vừa để chờ Porthos. Không thấy Porthos đến, cũng chẳng có tin gì về chàng, họ lại lên đường.

Đi khỏi Bôve chừng một dặm, đến một chỗ đường đi thắt lại giữa hai vạt đất, họ gặp một bọn tám đến mười người, lợi dụng đoạn đường bị bong đá lát có vẻ như đang làm việc ở đó bằng việc đào hố và xẻ rãnh bùn.

Aramis sợ bẩn ủng trong lớp vữa nhân tạo ấy, quát mắng bọn họ thậm tệ. Athos muốn ngăn chàng lại, nhưng đã quá muộn. Những người thợ bèn châm chọc các lữ khách, sự cấc lấc của họ làm điên đầu cả đến chàng Athos tính lạnh, đến mức thúc ngựa xông vào một người trong bọn.

Thế là mỗi người trong bọn họ đều lùi lại đến tận cái hố, và vồ lấy một khẩu hỏa mai giấu ở đấy. Kết quả là bẩy lữ khách của chúng ta chẳng khác gì được đem ra để thử súng. Aramis nhận một viên đạn xuyên qua vai và Mousqueton bị một viên cắm vào thịt vùng dưới thận. Tuy nhiên chỉ có mỗi Mousqueton ngã ngựa không phải vì bị trọng thương, mà vì hắn không thể nhìn thấy vết thương, chắc hắn tưởng nguy hiểm chứ đâu phải thường.

– Đây là một ổ phục kích – D’ Artagnan nói – Đừng bắn nữa, lên đường thôi.

Aramis tuy bị thương vẫn giữ chặt bờm ngựa, đi theo những người khác. Ngựa của Mousqueton cũng đuổi kịp đoàn và phi một mình không chủ.

– Chúng ta sẽ có một con ngựa để thay đây. Athos nói.

– Giá tôi có một chiếc mũ thì tốt quá – D’ Artagnan nói – Mũ của tôi bị đạn làm bay mất rồi. Kể cũng may chán, vì bức thư không để ở trong mũ.

Aramis nói:

– Nhưng bọn chúng sẽ giết Porthos khi cậu ấy qua đây mất.

– Nếu Porthos còn đứng vững trên đôi chân của mình, có lẽ cậu ấy bây giờ đã đuổi kịp chúng ta – Athos nói – Tôi nghĩ lúc giao tranh, tên say sẽ tỉnh rượu.

Rồi họ lại phi ngựa trong hai tiếng nữa, cho dù ngựa đã quá mệt đến nỗi họ sợ chúng không chịu cho cưỡi nữa.

Các lữ khách đi theo lối tắt hy vọng sẽ bớt lo. Nhưng đến Crevơcơ (Crève – Vỡ tim), Aramis tuyên bố chàng không thể đi xa hơn được nữa. Quả thật, để đi được đến đây, chàng đã phải lấy hết can đảm được che giấu dưới bề ngoài trang nhã và cung cách lịch thiệp của mình. Mỗi lúc chàng càng tái nhợt đi và mọi người phải đỡ chàng ngồi vửng trên mình ngựa. Họ để chàng xuống ngựa trước cửa một tửu quán, cho Bazin ở lại với chàng, vả chăng hắn chỉ tổ vướng chân nếu xảy ra đụng độ chứ chẳng được ích lợi gì. Rồi họ lại lên đường với hy vọng đến ngủ ở Amiêng.

Rong ruổi trên đường, lúc này chỉ còn Grimaud, Planchet và hai ông chủ, Athos nói:

– Mẹ kiếp! Bọn chúng sẽ không lừa nổi mình nữa đâu, mình đảm bảo với cậu từ đây đến Cale, chúng đừng hòng cậy nổi răng mình hoặc làm mình rút gươm khỏi vỏ.

– Thôi đừng thề thốt nữa – D’ Artagnan nói – Hãy phi lên, nếu lũ ngựa còn chịu.

Các du khách thúc đinh vào bụng ngựa, lũ ngựa được kích thích mạnh, lấy lại được sức. Họ đến Amiêng vào lúc nửa đêm và xuống ngựa ở quán trọ Huệ vàng.

Chủ quán có vẻ là một người lương thiện nhất trên đời. Lão ta tay mang cây đèn nến, tay kia ngả mũ bông chào đón khách. Hắn muốn để hai vị khách, mỗi người ngủ một căn phòng duyên dáng, nhưng chán nỗi mỗi phòng lại ở mỗi đầu quán trọ.

D’ Artagnan và Athos từ chối. Chủ quán nài mãi. Lừ khách vẫn một mực như thế. Đành phải tùy lữ khách vậy.

Họ vừa xếp đặt chỗ ngủ và chặn cửa phía trong xong thì có tiếng gõ cửa sổ trông ra sân, họ hỏi xem ai thì nhận ra tiếng nói của những người hầu, và mở ra.

Quả nhiên đó là Planchet và Grimaud. Planchet nói:

– Một mình Grimaud thôi cũng đủ để canh ngựa, và nếu các ông muốn, tôi sẽ nằm chắn cửa, như thế các ông sẽ yên trí không ai lọt vào chỗ các ông được.

– Thế anh ngủ trên cái gì? – D’ Artagnan hỏi.

Planchet trả lời:

– Giường tôi đây. – Và anh ta chỉ một bó rơm.

– Vậy vào đi! – D’ Artagnan nói – Anh có lý đấy, cái bộ mặt lão chủ quán làm ta không ưa, trông thớ lợ quá.

Athos nói:

– Cả tôi nữa cũng thấy thế.

Planchet trèo qua cửa sổ, nằm chắn ngang cửa, còn Grimaud thì chui vào chồng ngựa đảm bảo năm giờ sáng anh ta và ngựa đã sẵn sàng.

Đêm khá yên tĩnh. Khoảng hai giờ sáng, có kẻ định mở cửa thật. Nhưng Planchet giật mình chồm dậy, và kêu lên: “Ai đó?”. Kẻ kia trả lời mình nhầm và bỏ đi.

Lúc bốn giờ sáng, có tiếng ầm ầm ở chuồng ngựa. Grimaud muốn đánh thức bọn trai coi ngựa, và bọn chúng đã đánh hắn.

Khi mấy người mở cửa sổ, thì thấy gã hầu tội nghiệp nằm bất tỉnh, đầu bị một đòn cán chĩa đánh vỡ.

Planchet đi xuống sân và định gióng lại yên cương cho ngựa.

Chân ngựa đều bị tụ máu. Chỉ còn mỗi con của Mousqueton chạy không chủ trong năm sáu tiếng đồng hồ đêm trước có lẽ có thể tiếp tục lên đường. Nhưng do một sự nhầm lẫn không thể chấp nhận được, kẻ có vẻ là thú y giải phẫu mà người ta sai đi tìm để trích máu cho con ngựa của chủ quán, lại trích ngay con ngựa của Mousqueton.

Việc đó khiến mọi người trở nên lo lắng. Tất cả những tai họa kế tiếp nhau có thể do rủi ro, nhưng cũng rất có thể là kết quả của một âm mưu. Athos và D’ Artagnan ra ngoài, trong khi đó Planchet hỏi thăm xem xung quanh đây, có ba con ngựa nào muốn bán không? Ở ngoài cửa có hai con ngựa yên cương sẵn sàng, sung sức và lực lưỡng. Đúng là nắng hạn gặp mưa rào. Gã hỏi chủ ngựa đâu, người ta trả lời, họ cũng qua đêm ở đây và lúc này đang tính tiền trả chủ quán.

Athos đi xuống để trả tiền trọ. Còn D’ Artagnan và Planchet đứng ở cửa trông ra phố. Chủ quán ở trong một cái phòng thấp và sâu mãi vào trong. Người ta yêu cầu Athos vào trong.

Athos không nghi ngờ gì lấy ra hai đồng vàng để trả. Chủ quán chỉ có một mình và đang ngồi trước bàn làm việc mà một trong số ngăn kéo đã hé mở. Hắn cầm đồng tiền Athos đưa cho, lật đi lật lại từ tay này sang tay khác và bất ngờ kêu toáng lên là tiền giả, hắn tuyên bố sẽ bắt giữ bọn chàng như những kẻ làm tiền giả.

– Quân chó má! – Athos vừa nói vừa tiến lại – Tao sẽ cắt tai mày.

Cùng lúc đó, bốn người trang bị đến tận răng, qua cửa bèn xông vào và nhảy bổ lên Athos.

– Tôi bị bắt – Athos đồn hết sức kêu thật to – chạy đi thôi, D’ Artagnan phóng ngựa đi, phóng ngựa mau!

Rồi chàng nhả liền hai phát súng ngắn.

D’ Artagnan vì Planchet không để nhắc lại đến lần thứ hai, tháo luôn hai con ngựa chờ ở cửa, nhảy lên, thúc đinh vào bụng ngựa, phóng như bay.

D’ Artagnan vừa phi vừa hỏi Planchet:

– Mày có biết Athos bây giờ ra sao không?

– Ồ thưa ông – Planchet nói – tôi trông thấy hai tên ngã vì trúng hai phát đạn, và qua cửa kính, tôi thấy hình như ông đang đọ gươm với những tên khác.

– Hoan hô Athos! – D’ Artagnan lẩm nhẩm. Lại nghĩ đến việc mình phải bỏ rơi anh ấy – Ồ, mà có lẽ cũng lại như thế đang đợi ta cách đây mấy bước thôi. Planchet tiến lên, mày tốt lắm! Tiến lên!

– Thưa ông, tôi đã nói với ông rồi – Planchet trả lời. Dân Pica, khi dùng mới biết mà. Hơn nữa, tôi đang trên mảnh đất quê hương, tôi càng phấn khích.

– Và cả hai phi ngựa hết tốc lực, một mạch đến Saint Ômê. Ở Saint Ômê, họ xuống cho ngựa thở, cánh tay vẫn ngoắc dây cương, đề phòng bất trắc và ngồm ngoàm đứng ăn đôi chút ngay giữa phố và rồi lại khởi hành.

Cách cửa ô của Cale chừng trăm bước, ngựa của D’ Artagnan quỵ ngã, không có cách nào làm cho nó đứng lên được, máu trào ra mũi và hai mắt, còn lại con ngựa của Planchet, nhưng nó cũng dừng lại, không có cách nào làm nó lại đi nữa.

Cũng may chỉ còn cách thành phố trăm bước, họ bỏ ngựa lại trên đường và chạy về phía cảng. Planchet ra hiệu cho chủ mình chú ý đến một nhà quý tộc cùng với người hầu đi trước bọn họ chừng năm mươi bước.

Họ rảo bước đến gần. Gã quý tộc có vẻ đang rất bận rộn, đôi ủng của gã phủ đầy bụi đường và gã đang hỏi thăm xem có thể qua nước Anh ngay lúc này được không.

Người chủ một chiếc thuyền buồm chuẩn bị căng buồm trả lời:

– Chả có gì dễ hơn việc đó. Nhưng sáng nay có lệnh không được để người nào không được phép khẩn cấp của Giáo chủ đi qua.

– Tôi có giấy phép đó – Gã quý tộc vừa nói vừa rút mảnh giấy trong túi ra – Giấy phép đây!

– Ông hãy đem đến trấn thủ cảng xác nhận – chủ thuyền nói – và đưa cho tôi giấy ưu tiên.

– Tôi phải tìm ông trấn thủ ở đâu?

– Ở dã thự của ông ấy.

– Dã thự ấy ở đâu?

– Cách thành phố một phần tư dặm. Kia kìa, từ đây ông cũng nhìn thấy, cái mái lợp đá đen ở chân cái gò nhỏ ấy.

– Tốt lắm! – Gã quý tộc nói.

Và cùng với người hầu, gã đi theo con đường dẫn đến dã thự của viên trấn thủ.

D’ Artagnan và Planchet đi theo gã quý tộc với khoảng cách năm trăm bước.

Ra khỏi thành phố, D’ Artagnan rảo bước đuổi kịp gã, vừa lúc gã đi vào một cánh rừng nhỏ.

– Thưa ông – D’ Artagnan nói – Ông có vẻ rất vội vã?

– Người ta không thể vội hơn thế, thưa ông.

– Tôi lấy làm tiếc – D’ Artagnan nói – vì tôi cũng rất vội, nên tôi muốn nhờ ông giúp tôi một việc.

– Việc gì?

– Để tôi đi trước.

– Không được – gã quý tộc nói – tôi đã đi sáu mươi dặm và mất bốn mươi tư giờ và trưa mai tôi đã phải ở London.

– Tôi cũng đi cùng con đường ấy trong bốn mươi giờ và mười giờ sáng mai tôi phải ở London.

– Thưa ông tiếc thật. Nhưng tôi đến trước, và tôi sẽ không qua sau đâu.

– Rất tiếc thưa ông. Nhưng tôi đến sau, và tôi sẽ qua trước.

– Công việc của nhà Vua! – Gã quý tộc nói.

– Công việc của chính tôi! – D’ Artagnan nói.

– Tôi thấy hình như ông định cố tình gây sự với tôi.

– Mẹ kiếp! Thế ông muốn nó là thế nào?

– Ông muốn gì?

– Ông muốn biết điều đó ư?

– Hẳn rồi.

– Vậy thì thế này! Tôi muốn cái lệnh ông đang mang theo, bởi vì tôi không có nó, và tôi lại cần có một cái.

– Tôi cho là ông đang đùa.

– Tôi chả bao giờ đùa.

– Để tôi đi!

– Ông không đi được đâu.

– Anh bạn trẻ tử tế của ta ạ, ta sẽ bắn vỡ đầu anh, Lubanh đâu, súng ngắn của ta.

– Planchet! – D’ Artagnan nói – hãy lo tên hầu, còn ta lo thằng chủ.

Planchet hăng hái lập chiến công đầu, nhảy bổ lên Lubanh, và vì khỏe và dũng mãnh, hắn quật Lubanh ngã ngửa ra và tì gối lên ngực rồi nói với D’ Artagnan:

– Ông chủ, ông lo việc của ông đi, còn tôi, tôi đã làm xong việc của tôi rồi.

Thấy vậy, gã quý tộc rút gươm nhảy bổ vào D’ Artagnan, nhưng gã gặp phải một đối thủ khó nuốt.

Trong khoảng ba giây đồng hồ D’ Artagnan đã cho hắn ba nhát gươm, mỗi nhát chàng lại nói:

– Một nhát vì Athos! Một nhát vì Porthos! Một nhát vì Aramis.

Đến nhát thứ ba, gã quý tộc đổ vật xuống như một đống thịt.

D’ Artagnan tưởng hắn chết, hoặc ít nhất cũng bị ngất, lại gần hắn để chiếm lấy cái lệnh, nhưng đúng lúc chàng vươn cánh tay ra để lục tìm, tên bị thương vẫn chưa rời tay gươm liền xỉa luôn một mũi vào ngực chàng và nói:

– Một cho ngươi!

– Và một cho ta! Nhát cuối là nhát tốt nhất! – D’ Artagnan hét lên giận dữ, đâm nhát thứ tư xuyên qua bụng hắn cắm mũi gươm xuống đất.

Lần này gã quý tộc nhắm mắt lại và lịm đi. D’ Artagnan lục trong cái túi mà chàng thấy gã đút tờ lệnh đi đường vào đấy rồi cầm lấy. Giấy mang tên Bá tước De Wardes.

Rồi đưa mắt nhìn lần cuối con người trẻ tuổi đẹp trai suýt soát hai nhăm tuổi, bỏ mặc hắn nằm đấy không còn cảm giác, có lẽ đã chết, chàng buông một tiếng thở dài, buồn thay cho cái định mệnh trớ trêu xui khiến con người hủy hoại lẫn nhau vì lợi ích của những kẻ xa lạ với mình và thường không biết cả đến việc mình đang tồn tại nữa.

Nhưng chàng bị bứt ra khỏi những ý nghĩ ấy bởi những tiếng gào thét hết sức mình kêu cầu cứu của Lubanh.

Planchet lấy tay chẹn họng hắn, và dùng hết sức siết chặt lại rồi nói:

– Thưa ông, chừng nào tôi còn chẹn thế này, nó sẽ không kêu nữa, tôi tin chắc như vậy. Nhưng tôi chỉ vừa buông tay ra là nó lại rống lên ngay. Tôi nhận ra nó là người Noócmăng, và dân Noócmăng thì bướng lắm.

Thật vậy, bị chẹn đến thế, Lubanh vẫn cố để lọt ra tiếng kêu.

– Đợi đã! – D’ Artagnan nói.

Cầm chiếc khăn tay, chàng nhét vào miệng hắn và bảo Planchet:

– Bây giờ, trói nó vào một gốc cây.

Công việc được thực hiện cẩn thận, rồi họ kéo Bá tước De Wardes đến gần tên đầy tớ. Và vì đêm bắt đầu buông, kẻ bị trói và kẻ bị tử thương cả hai đều ở sâu mấy bước ở trong rừng, đương nhiên họ phải ở lại đó đến ngày hôm sau.

– Và bây giờ – D’ Artagnan nói – ta đến nhà trấn thủ.

– Nhưng tôi thấy hình như ông cũng bị thương? – Planchet nói.

– Không sao cả, ta hãy lo chuyện gấp nhất đã, rồi hãy nói đến vết thương của ta sau, vả chăng hình như cũng không nguy hiểm lắm đối với ta.

– Và cả hai rảo bước tới dã thự của viên trấn thủ đáng kính.

Người ta thông báo có Bá tước De Wardes.

D’ Artagnan được dẫn vào.

– Ông có lệnh do Giáo chủ ký? – Viên trấn thủ hỏi.

– Vâng, thưa ông – D’ Artagnan trả lời – lệnh đây.

– Ờ, ờ, thế này là hợp thức và bảo đảm lắm rồi – viên trấn thủ nói.

– Đơn giản thôi – D’ Artagnan trả lời – tôi là một trong những người thân tín của Giáo chủ mà.

– Hình như Đức ông muốn ngăn ai đó đến nước Anh.

– Phải, một thằng cha D’ Artagnan nào đó, một tên quý tộc người Bearn xuất phát từ Paris cùng với ba tên bạn với ý đồ đến tận London.

– Ông có biết đích thân hắn không? – Viên trấn thủ hỏi.

– Ai cơ?

– Cái tên D’ Artagnan ấy.

– Quá rõ.

– Vậy cho tôi biết đặc điểm của hắn đi.

– Không gì dễ hơn.

Và D’ Artagnan tả từng nét, từng nét đặc điểm của Wardes.

– Hắn có ai đi cùng không? – Viên trấn thủ hỏi.

– Có, một tên hầu là Lubanh.

– Người ta sẽ canh chừng bọn chúng, và nếu tóm được chúng, Đức ông có thể yên tâm, chúng sẽ được giải về Paris, và được áp giải cẩn thận.

D’ Artagnan nói:

– Thưa ông, nếu làm được chuyện đó, ông sẽ có công lớn với Giáo chủ.

– Khi quay về, ông lại gặp lại Giáo chủ chứ, thưa Bá tước?

– Chắc chắn thế rồi.

– Xin Bá tước nói giùm với Giáo chủ, tôi xin hết lòng phụng sự ngài.

– Tôi sẽ không quên đâu.

Vui mừng vì được bảo đảm như thế, viên trấn thủ xác nhận vào tờ giấy thông hành và trao lại cho D’ Artagnan.

D’ Artagnan không để mất thì giờ vào những việc chúc tụng vô ích, chàng chào viên trấn thủ, cám ơn và ra đi.

Khi đã ra ngoài, chàng và Planchet đi theo đường vòng để tránh khu rừng và vào thành phốbằng một cửa ô khác.

Con thuyền luôn sẵn sàng ra đi, chủ thuyền đang đợi trên boong thuyền. Thấy D’ Artagnan ông ta hỏi:

– Thế nào?

– Đây là giấy thông hành đã được xác nhận.

– Còn nhà quý tộc kia?

– Ông ta không đi hôm nay – D’ Artagnan nói – nhưng ông yên tâm, tôi sẽ trả tiền đi cho cả hai suất.

– Nếu thế thì đi thôi – chủ thuyền nói.

– Ta đi thôi! – D’ Artagnan lắp lại.

Rồi chàng và Planchet nhảy xuống chiếc xuồng nhỏ. Năm phút sau họ đã cặp mạn thuyền.

Ra biển được nửa dặm, D’ Artagnan thấy một vùng sáng lóe lên và một tiếng nổ. Thì ra đó là tiếng đại bác báo hiệu đóng cửa hải cảng.

Đã đến lúc chăm sóc vết thương của mình, may sao đúng như D’ Artagnan nghĩ, nó không nguy hiểm lắm, mũi gươm gặp phải một xương sườn và trượt dọc theo chiếc xương đó, thêm nữa, áo lót dính ngay vào vết thương và chỉ chảy mất mấy giọt máu.

D’ Artagnan mệt lả. Họ trải cho chàng một tấm nệm trên boong thuyền, chàng lăn ra và ngủ thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau, chàng thấy mình chỉ cách bờ biển nước Anh ba bốn dặm. Suốt đêm gió yếu nên đi được ít.

Khoảng mười giờ, thuyền thả neo ở cảng Đuvrơ.

– Mười giờ rưỡi, ta đã ở đây rồi!

Nhưng thế chưa đủ, còn phải đến London. Ở nước Anh, bưu trạm phục vụ khá tốt. D’ Artagnan và Planchet mỗi người cưỡi một con ngựa nhỏ, một phu trạm chạy trước dẫn đường họ.

Bốn giờ sau, họ đã tới cửa ô kinh thành.

D’ Artagnan không quen biết London, không biết một câu tiếng Anh, nhưng chàng viết lên một mẩu giấy cái tên Buckingham và ai ai cùng chỉ dinh Quận công cho chàng.

Quận công đi săn ở Uynxo với nhà Vua.

D’ Artagnan hỏi người hầu thân tín của Quận công, thường đi theo ông trong mọi cuộc du hành, nói tiếng Pháp thông thạo.

Chàng bảo anh ta rằng mình đến London vì một việc sinh tử, và anh ta phải nói ngay cho chủ mình tức khắc.

Giọng nói đáng tin của D’ Artagnan đã thuyết phục được Patrítxơ. Patrítxơ là tên người thừa hành của Thủ tướng. Anh ta đóng yên cương hai con ngựa, tự đảm nhiệm việc dẫn đường chàng cận vệ trẻ. Còn Planchet, người ta phải đỡ hắn từ trên lưng ngựa xuống, chàng trai đáng thương đã kiệt sức, ngồi cứng đờ như cây chò, không như D’ Artagnan vững như thép.

Mọi người đã đến lâu đài, hỏi thăm thì biết nhà Vua và Buckingham đi săn chim ở đầm lầy cách đây hai ba dặm.

Hai người đến nơi chỉ dẫn mất hai mươi phút. Patrítxơ nghe thấy ngay tiếng chủ mình đang gọi chim ưng. Patrítxơ hỏi chàng:

– Tôi phải thông báo ai muốn gặp Huân tước Quận công đây?

– Cứ nói chàng trai trẻ một buổi tối đã kiếm cớ gây sự với ngài ở cầu Mới trước mặt nhà thờ Samaritain là được rồi.

– Lối giới thiệu lạ đời nhỉ!

– Anh sẽ thấy nó gấp mấy lối khác ấy chứ.

Patrítxơ phi ngựa nước đại đến gặp Quận công và thông báo với ông đúng lời lẽ D’ Artagnan đã nói là có một sứ giả đang đợi ông.

Buckingham nhận ra D’ Artagnan ngay và ngờ rằng có chuyện gì đó xảy ra ở Pháp nên phải cho chàng mang tin đến, ông chỉ kịp hỏi người đưa tin đang ở đâu và từ xa đã nhận ra bộ đồng phục cận vệ, ông cho ngựa phi nước đại đến thẳng chỗ D’ Artagnan. Patrítxơ cẩn thận đứng tránh ra.

– Hoàng hậu không gặp phải chuyện chẳng lành nào chứ? – Buckingham hỏi bằng tất cả nỗi nhớ mong và tình yêu của mình.

– Tôi không nghĩ như vậy. Tuy nhiên, tôi tin bà đang gặp một mối nguy lớn mà chỉ có Đức ngài mới có thể giải thoát.

– Ta ư? – Buckingham hỏi – Thế nào nào? Ta sẽ rất sung sướng được có ích cho bà trong một việc nào đó! Nói đi nào! Nói đi?

– Ngài hãy xem bức thư này! – D’ Artagnan nói.

– Bức thư này ư! Của ai gửi cho ta?

– Tôi nghĩ đó là của Hoàng hậu.

– Của Hoàng hậu! – Buckingham vừa nói vừa tái nhợt đi khủng khiếp, D’ Artagnan tưởng ông ta sắp ngất.

Và ông ta bẻ xi niêm phong.

– Vết rách này là cái gì? – Ông ta vừa nói vừa chỉ cho D’ Artagnan một chỗ thư bị xuyên thủng.

– À, à, – D’ Artagnan nói – Tôi không để ý cái đó. Đó là vết mũi gươm của Bá tước De Wardes, rất đẹp khi đâm vào ngực tôi đấy!

– Ông bị thương à? – Buckingham vừa bẻ xi vừa hỏi.

– Ồ không sao? Một vết xước thôi.

– Trời, ta vừa đọc cái gì đây? – Công tước kêu lên – Patrítxơ hãy ở lại đây rồi xem nhà Vua ở đâu, đi theo và tâu với Hoàng thượng là ta cúi đầu van xin Ngài hãy tha thứ cho ta vì ta có việc tối quan trọng phải có mặt ở London – còn ông đi theo ta.

– Và cả hai cùng phi nước đại về kinh thành.

Chọn tập
Bình luận