Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Ba Người Lính Ngự Lâm

Chương 49 : Định mệnh

Tác giả: Alexander Dumas
Chọn tập

Trong khi đó Milady điên cuồng giận dữ, gầm lên trên boong tàu như một con sư tử cái bị đưa xuống tàu, đã định lao xuống biển để trở vào bờ, bởi nàng không thể chịu nổi ý nghĩ bị D’Artagnan làm nhục, bị Athos đe dọa và phải rời nước Pháp và không trả thù được họ. Chả mấy chốc, ý nghĩ ấy hành hạ nàng đến mức mặc cho những gì khủng khiếp có thể đến với mình, nàng đã van nài viên thuyền trưởng ném nàng lên bờ nhưng thuyền trưởng đang lo trốn thoát khỏi tình thế giả mạo đặt giữa những hạm tàu Pháp và Anh, như con dơi giữa đàn chuột và bầy chim(1), đang hết sức vội vã sang tới nước Anh, một mực từ chối không tuân theo cái thói thất thường của đàn bà, mà chỉ hứa với người nữ hành khách, vốn được Giáo chủ đặc biệt gừi gắm, là nếu biển thuận và quân Pháp cho phép sẽ để bà ta cặp bến ở Brơtanhơ hoặc cảng Loriăng hoặc Brétx. Nhưng trong khi chờ đợi, gió lại ngược, biển động mạnh, phải cắt gió đi vát bờ.

Chín ngày sau khi ra khỏi Sarâng, Milady mặt tím lại vì buồn bực và điên giận, chỉ thấy hiện ra vùng bờ biển xanh nhạt của vùng Finítxte.

Nàng tính toán để đi xuyên qua cái góc này của nước Pháp để trở về bên Giáo chủ, ít nhất phải mất ba ngày, thêm một ngày lên bờ thành bốn, thêm bốn ngày này vào chín ngày kia thành mười ba ngày mất toi, mười ba ngày trong khi đó biết bao sự biến quan trọng có thể diễn ra ở London, nàng nghĩ chắc chắn Giáo chủ sẽ giận dữ thấy nàng quay về và hậu quả là ông sẽ sẵn sàng nghe những lời khiếu nại chống nàng hơn là những cáo buộc nàng chống lại kẻ khác. Vậy nên nàng để mặc cho tàu đi qua Loriăng và Brétx không khẩn nài viên thuyền trưởng nữa, còn về phần ông ta, ông ta cũng dè chừng chẳng muốn đánh thức nàng Milady tiếp tục hành trình của mình. Cũng đúng ngày hôm Planchet xuống tàu ở cảng Portsmouth trở về nước Pháp, thì vị nữ phái viên của Đức ông cặp cảng đó một cách thành công.

Toàn thành phố xôn xao vì một hoạt động lạ thường, bốn hạm tàu lớn mới đóng xong vừa được hạ thủy. Người ta thấy ông Buckingham đứng trên cầu tàu, choáng lộn, lòe loẹt, đầy vàng, kim cương, đá quý theo thói quen, mũ dạ trang điểm một chiếc lông trắng cong vut xuống tận vai, xung quanh là bộ tham mưu hầu như cũng choáng lộn như ông.

Đó là một trong những ngày đông đẹp trời và hiếm có mà nước Anh chợt nhớ ra mình cũng có một mặt trời. Vị tinh tú đó đã nhạt đi tuy vẫn còn rực rỡ đang lặn xuống chân trời, nhuộm tía cả bầu trời lẫn mặt biển bằng những vạt lửa và ném lên trên các đỉnh tháp và những ngôi nhà già nua của thành phố những tia nắng vàng, cuối cùng làm các ô cửa kính lấp lánh như ánh lửa một đám cháy. Milady hít thở không khí biển càng gần đất liền càng tươi mát và thơm hơn, vừa ngắm nhìn sức mạnh của những phương tiện chiến tranh ấy mà nàng được trao trách nhiệm phải phá hủy, toàn bộ sức mạnh của cái đạo quân mà nàng phải chiến đấu bằng một mình nàng – một mình người đàn bà là nàng cùng với mấy túi vàng, nàng thầm tự sánh mình với Judita, người đàn bà Do Thái khủng khiếp, khi lọt sang chiến tuyến quân Atxyri, chỉ gẩy tay một cái đã làm tan tành tất cả thành mây khói.

Tàu vào vụng, nhưng khi người ta sắp thả neo thì một tàu khu trục nhỏ, súng ống khủng khiếp, sáp gần chiếc tàu buôn, nhân danh tuần tra duyên hải, thả xuống biển một chiếc xuồng tiến lại cầu thang tàu buôn. Xuồng có một sĩ quan, một viên cai và tám tay chèo. Chỉ một mình sĩ quan lên tàu buôn, và được tiếp đón trọng thể theo đồng phục cấp bậc sĩ quan.

Viên sĩ quan trao đổi vài phút với chủ tàu buôn, đọc cho người này nghe vài tờ giấy ông ta mang theo và theo lệnh của thuyền trưởng tàu buôn, tất cả thủy thủ đoàn của tàu, thủy thủ và hành khách được gọi lên trên boong tàu.

Khi việc điểm danh đã được tiến hành, viên sĩ quan lớn tiếng hỏi về địa điểm khởi hành, lộ trình, ghé bờ ở đâu, mọi câu hỏi thuyền trưởng đều trả lời trôi chảy, không chút khó khăn. Lúc đó, viên sĩ quan mới đi kiểm tra tất cả mọi người, người nọ sau người kia và dừng lại trước mặt Milady, nhìn nàng rất kỹ, nhưng không hề nói với nàng một lời nào.

Rồi ông ta quay về chỗ thuyền trưởng, nói thêm với ông này vài câu, và từ lúc đó con tàu như thể thuộc quyền chỉ huy của ông ta, ông ta ra lệnh, đoàn thủy thủ thi hành ngay. Thế là con tàu lại lên đường luôn có chiếc tàu khu trục hộ tống chạy song song, nòng sáu khẩu đại bác nhằm vào sườn tàu buôn uy hiếp, trong khi đó chiếc xuồng bơi theo rạch nước của chiếc chiến hạm như một chấm nhỏ bên một khối khổng lồ.

Trong khi viên sĩ quan chăm chú quan sát Milady, thì về phía mình, Milady cũng nhìn lại như ăn tươi nuốt sống người kia. Nhưng người đàn bà có đôi mắt lửa, vốn quen đọc thấu trong tim những kẻ mà nàng có nhu cầu đoán ra những bí mật, lần này chỉ thấy bộ mặt vẫn trơ trơ, không khám phá ra được bất cứ điều gì mà nàng cần dò xét. Người sĩ quan đã dừng lại trước mặt nàng và vẫn đang lặng lẽ nghiên cứu về nàng rất cẩn thận có thể chỉ độ hai nhăm hai sáu tuổi, với đôi mắt xanh tươi hơi sâu, cái miệng nhỏ và rất đẹp, không hề nhúc nhích trong những đường nét rất chuẩn xác, cái cằm nhô ra nhiều biểu lộ một ý chí mạnh mẽ, mà nếu ở trong giới người Anh hạ lưu thường cllỉ biểu hiện sự ương bướng, vầng trán hơi ngả về phía sau thích hợp với trán các nhà thơ, những người cuồng nhiệt và các binh sĩ, bị bộ tóc cắt ngắn và thưa hơi che đi, màu hạt dẻ sẫm giống như màu bộ râu cằm phía dưới mặt.

Lúc tàu cặp bến thì trời đã tối. Sương mù làm bóng tối dày đặc thêm tối và tạo thành xung quanh những đèn hiệu và đèn chiếu kè biển những vành tròn tương tự như vành tròn bao quanh mặt trăng khi trời muốn mưa. Không khí người ta hít thở, buồn, ẩm và lạnh.

Milady, người đàn bà mạnh mẽ đến thế cũng không tránh khỏi thấy rùng mình.

Viên sĩ quan yêu cầu Milady cho biết đâu là những bọc gói của nàng rồi cho chuyển hành lý của nàng xuống xuồng và khi mọi việc đã xong, ông ta vừa mời nàng xuống xuồng vừa chìa tay dắt nàng Milady nhìn người đàn ông và ngập ngừng rồi hỏi:

– Thưa ông, ông là ai mà lại chiếu cố chăm sóc quá đặc biệt đến tôi như vậy?

– Ồ, thưa bà, nhìn bộ quân phục tôi mặc – bà phải thấy chứ, tôi là sĩ quan hải quân Anh – người đàn ông trẻ tuổi trả lời.

– Nhưng rút cục, có phải sĩ quan quân Anh có lệ ra lệnh cho đồng bào của mình khi họ cặp bến đất Anh và lịch sự đến mức áp tải họ vào bờ?

– Vâng, thưa bà, đây là thông lệ, không phải do lịch sự mà do cảnh giác nên trong thời chiến, những người ngoại quốc đều được dẫn đến một khách sạn đã chỉ định, cốt để họ được đặt dưới sự giám sát của Nhà nước cho tới khi có được những thông tin đầy đủ về họ.

Những lời lẽ đó được nói ra một cách lịch thiệp chuẩn xác nhất, và với một sự bình thản hoàn hảo nhất. Nhưng nó lại không khiến cho Milady được yên tâm chút nào.

– Nhưng tôi đâu có phải người nước ngoài, thưa ông – Milady nói bằng một giọng đặc Anh chưa hề được nghe thấy từ Portsmouth đến Manchetser – Tôi là phu nhân Clerics, và cái thể thức này…

– Thể thức này là chung thôi, thưa bà, bà có định phá lệ cũng vô ích thôi.

– Thưa ông, vậy tôi sẽ theo ông.

Cầm tay viên sĩ quan, nàng bắt đầu xuống thang và phía dưới là chiếc xuồng đang đợi. Viên sĩ quan đi theo nàng. Một áo choàng lớn được rải ở phía buồng lái, viên sĩ quan bảo nàng ngồi trên cái áo choàng đó rồi ngồi cạnh nàng và bảo thủy thủ:

– Bơi đi!

Tám mái chèo cùng buông tõm xuống biển và nhất loạt chèo chiếc xuồng như bay trên mặt nước.

Trong vòng năm phút xuồng đã cặp bờ.

Viên sĩ quan nhảy lên kè và đưa tay cho Milady. Một chiếc xe đang đợi sẵn.

– Xe này là dành cho chúng ta? – Milady hỏi.

– Vâng, thưa bà – Viên sĩ quan trả lời.

– Khách sạn có xa lắm không?

– Ở đầu kia thành phố thôi.

– Ta đi thôi – Milady nói.

Rồi nàng cả quyết bước lên xe.

Viên sĩ quan theo dõi cho đến khi những gói đồ được buộc cẩn thận phía sau thùng xe và khi mọi việc đã xong, ông ta lên ngồi bên Milady và đóng cửa xe lại.

Lập tức, chẳng cần phải để ra lệnh và cũng chẳng cần phải bảo đi về địa chỉ nào, gã đánh xe cho ngựa phi nước đại đi sâu vào các phố trong thành phố.

Một sự đón tiếp lạ lùng như vậy hẳn phải làm cho Milady suy nghĩ rất nhiều, cho nên thấy viên sĩ quan không hề tỏ ra sẵn sàng bắt chuyện, nàng tựa khuỷu vào một góc xe, lần lượt xem lại mọi giả thiết nảy ra trong đầu.

Tuy nhiên, được độ mươi phút, nàng lấy làm ngạc nhiên vì đường xa đến thế, liền ngả người về phía cửa xe để xem người ta đưa mình đi đâu, thì không thấy nhà cửa nữa, chỉ có cây cối hiện ra trong bóng đêm như những con ma lớn đen ngòm, con nọ chạy sau con kia.

Milady rùng mình và nói:

– Nhưng chúng ta không còn trong thành phố nữa, thưa ông.

Viên sĩ quan vẫn ngồi im.

– Tôi không đi xa thêm nữa đâu, nếu ông không nói ông dẫn tôi đi đâu, tôi báo trước cho ông đấy.

Lời đe dọa ấy vẫn chẳng nhận được câu trả lời nào.

– Ôi! Thế này thì quá lắm! – Milady kêu lên – Cứu với! Cứu với!

– Không một tiếng đáp lại. Chiếc xe tiếp tục lăn bánh nhanh và viên sĩ quan vẫn tựa như pho tượng.

Milady nhìn viên sĩ quan với một nét mặt đặc biệt khủng khiếp và hiếm khi không có hiệu quả. Cơn giận làm đôi mắt nàng long lanh trong bóng tối.

Milady định mở cửa xe và lao ra.

– Coi chừng đấy, thưa bà ~ người đàn ông trẻ lạnh lùng nói – bà nhảy ra là tự giết mình đấy.

Milady lại ngồi xuống, tức sùi bọt mép. Viên sĩ quan ngả người đến lượt mình cũng nhìn Milady tỏ vẻ ngạc nhiên thấy khuôn mặt vừa rồi còn đẹp đến thế, vì sôi lên giận dữ đã trở nên hầu như xấu xí. Người đàn bà gian manh ấy hiểu rằng nếu để người ta nhìn sâu trong tâm hồn mình như thế là tự hại mình, liền tươi tỉnh lại nói bằng một giọng thương tâm:

– Có Chúa trời chứng giám! Thưa ông, xin ông, xin hãy nói cho biết tôi phải gán việc tôi bị đối xử bằng bạo lực như thế này cho ông, cho Chính phủ của ông hay cho một kẻ thù nào?

– Không ai dùng bạo lực với bằng, thưa bà, và việc xảy ra cho bà chỉ là kết quả của biện pháp hoàn toàn đơn giản mà chúng tôi buộc phải áp dụng đối với tất cả mọi người cặp bến ở nước Anh.

– Thưa ông, thì ra ông không biết tôi?

– Đây là lần đầu tiên tôi hân hạnh được gặp bà.

– Và ông có thể cam đoan ông không có chuyện gì hiềm khích với tôi chứ?

– Không có gì, tôi xin thề với bà.

Giọng nói của người đàn ông trẻ vừa hết sức trong trẻo, bình thản lại dịu dàng nữa khiến Milady yên tâm.

Cuối cùng, sau gần một giờ, xe mới dừng lại trước hàng rào lưới sắt, đi vào một con đường trống vắng dẫn đến một tòa lâu đài bề ngoài nghiêm trang, nặng nề và heo hút. Lúc đó, bánh xe lăn trên cát mịn nên Milady nghe thấy tiếng sóng gầm của biển vỗ vào bờ đá lởm chởm.

Chiếc xe đi dưới hai vòm cổng, cuối cùng dừng lại trong một cái sân vuông và tối, cửa xe vừa mở, người đàn ông trẻ tuổi đã nhảy ngay xuống theo, khá bình tĩnh.

Milady nhìn xung quanh rồi dồn mắt nhìn viên sĩ quan trẻ với nụ cười duyên dáng nhất và nói:

– Vậy, tôi vẫn cứ là một tù nhân, nhưng chắc sẽ không lâu đâu, tôi tin chắc như thế – Rồi nàng thêm – Thưa ông, lương tâm tôi và sự lịch sự của ông đảm bảo với tôi như thế.

Dù tán tụng và ve vãn như vậy, viên sĩ quan vẫn không trả lời, mà chỉ rút từ đai lưng ra một chiếc còi bằng bạc mà những viên cai vẫn dùng trên tàu chiến, thổi lên ba hồi theo ba giai điệu khác nhau. Thế là mấy người hiện ra tháo lũ ngựa đang thở phì phì và đưa xe vào một cái nhà kho.

Viên sĩ quan vẫn thái độ lịch sự điềm đạm mời tù nhân của mình vào trong nhà. Người đàn bà vẫn với bộ mặt tươi cười, vịn tay viên sĩ quan, đi vào cùng với ông ta qua một chiếc cửa thấp thắt giữa, vòm cửa chỉ được chiếu sáng từ sâu mãi bên trong, dẫn tới một cầu thang bằng đá xoắn theo một trụ đá, đi lên, rồi dừng lại trước một chiếc cửa nặng nề. Sau khi người kia tra chìa khóa mang theo vào ổ, cánh cửa nặng nề quay trên bản lề để lộ ra lối vào một căn phòng dành cho Milady.

Thoáng nhìn qua, người nữ tù nhân đã nắm được hết các chi tiết nhỏ nhất của căn nhà.

Đó là một căn buồng mà nội thất vừa quá sạch đối với một nhà tù và cũng quá sạch đối với một chỗ ở của một con người sống tự do. Tuy nhiên những song sắt của sổ và những chốt ngoài của cửa ra, lại thiên về một nhà tù.

Trong giây lát, toàn bộ nghị lực của con người từng được tôi luyện trong những mạch nguồn mạnh mẽ nhất tiêu tan hết.

Nàng buông mình xuống ghế tựa, khoanh tay, cúi đầu chờ đợi từng phút một để thấy một thẩm phán đi vào thẩm vấn nàng.

Nhưng chẳng có ai vào mà chỉ có vài ba lính thủy mang rương hòm tới, xếp vào một góc rồi lại rút lui không nói một lời.

Viên sĩ quan điều khiển mọi chi tiết với vẻ bình thản mà Milady thấy vẫn nguyên như trước, chẳng nói một lời mà chỉ lấy tay ra hiệu hoặc thổi còi cho bọn lính tuân theo.

Có thể nói giữa con người này và những kẻ dưới quyền, ngôn ngữ nói không tồn tại hoặc trở nên vô ích…

Cuối cùng Milady không chịu nổi thêm nữa, liền phá vỡ sự im lặng và kêu lên:

– Có trời cao chứng kiến, thưa ông. Tất cả những gì diễn ra thế này là thế nào? Nói toạc móng heo xem có chuyện gì nào. Tôi có đủ can đảm đối mặt với mọi hiểm nguy mà tôi thấy trước, mọi bất hạnh mà tôi thấu hiểu. Tôi đang ở đâu và ở đây làm gì? Tôi có còn được tự do không, tại sao lại có những song sắt và những cái cửa ấy? Tôi có phải tù nhân không và tôi mắc tội gì?

– Bà ở đây trong một căn phòng được dành cho bà. Tôi được lệnh phải giữ bà từ ngoài biển và dẫn bà đến tòa lâu đài này. Và tôi tin tôi đã hoàn thành nhiệm vụ với tất cả sự nghiêm túc của một quân nhân và phong độ của một nhà quý tộc. Giờ đây đã kết thúc, ít ra là cho đến lúc này, trách nhiệm tôi phải làm tròn đối với bà, phần còn lại liên quan đến một người khác.

– Thế cái người khác đó là ai vậy? – Milady hỏi – Ông không thể nói tên người ấy ra với tôi ư?

– Đúng lúc đó, có tiếng đinh thúc ngựa ầm ầm phía cầu thang.

– Có mấy tiếng người rồi lại im ngay, và tiếng bước chân một mình ai đó lại gần chiếc cửa.

– Cái người đó đến đây rồi, thưa bà – Vừa nói viên sĩ quan vừa chỉ ra lối đi, vừa đứng dẹp sang một bên với thái độ kính trọng và phục tùng.

Đồng thời cửa mở, một người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa.

Người này không đội mũ, đeo gươm, tay đang vò một chiếc khăn tay.

Milady tin mình nhận ra bóng người đó trong bóng tối. Nàng chống bàn tay lên thành ghế tựa, vươn đầu ra như để đón trước cái điều đã chắc chắn rồi.

– Người lạ từ từ tiến lại và khi ông ta tiến sâu vào vùng ánh sáng từ chiếc đèn chiếu ra, Milady bất giác lùi lại.

Rồi khi không còn chút nghi ngờ gì nữa, nàng kêu lên đầy vẻ kinh hoàng:

– Kìa sao? Em tôi? Chú đấy ư?

– Vâng, thưa quý bà! – Huân tước Winter làm điệu bộ chào nửa phong nhã, nửa hài hước.

– Tôi đây! Nhưng sao, tòa lâu đài này?

– Là của tôi.

– Căn phòng này?

– Là của bà!

– Tôi là tù nhân của ông ư?

– Gần như vậy.

– Nhưng đó là một sự lấy thịt đè người ghê tởm?

– Đừng có ngoa ngoắt. Ta hãy ngồi xuống chuyện trò với nhau bình tĩnh đã, như thế thích hợp giữa ông em và bà chị hơn.

Rồi quay về phía cửa, thấy viên sĩ quan đang đứng đợi những mệnh lệnh cuối cùng, ông ta nói:

– Tốt lắm! Xin cám ơn ông. Bây giờ để mặc chúng tôi, ông Felten.

Chú thích:(1) Ngụ ngôn Êdốp: Dơi đến với chuột bị chuột đuổi vì cho dơi thuộc loài chim, đến với chim bị chim đánh vì cho dơi thuộc loài chuột

Trong khi đó Milady điên cuồng giận dữ, gầm lên trên boong tàu như một con sư tử cái bị đưa xuống tàu, đã định lao xuống biển để trở vào bờ, bởi nàng không thể chịu nổi ý nghĩ bị D’Artagnan làm nhục, bị Athos đe dọa và phải rời nước Pháp và không trả thù được họ. Chả mấy chốc, ý nghĩ ấy hành hạ nàng đến mức mặc cho những gì khủng khiếp có thể đến với mình, nàng đã van nài viên thuyền trưởng ném nàng lên bờ nhưng thuyền trưởng đang lo trốn thoát khỏi tình thế giả mạo đặt giữa những hạm tàu Pháp và Anh, như con dơi giữa đàn chuột và bầy chim(1), đang hết sức vội vã sang tới nước Anh, một mực từ chối không tuân theo cái thói thất thường của đàn bà, mà chỉ hứa với người nữ hành khách, vốn được Giáo chủ đặc biệt gừi gắm, là nếu biển thuận và quân Pháp cho phép sẽ để bà ta cặp bến ở Brơtanhơ hoặc cảng Loriăng hoặc Brétx. Nhưng trong khi chờ đợi, gió lại ngược, biển động mạnh, phải cắt gió đi vát bờ.

Chín ngày sau khi ra khỏi Sarâng, Milady mặt tím lại vì buồn bực và điên giận, chỉ thấy hiện ra vùng bờ biển xanh nhạt của vùng Finítxte.

Nàng tính toán để đi xuyên qua cái góc này của nước Pháp để trở về bên Giáo chủ, ít nhất phải mất ba ngày, thêm một ngày lên bờ thành bốn, thêm bốn ngày này vào chín ngày kia thành mười ba ngày mất toi, mười ba ngày trong khi đó biết bao sự biến quan trọng có thể diễn ra ở London, nàng nghĩ chắc chắn Giáo chủ sẽ giận dữ thấy nàng quay về và hậu quả là ông sẽ sẵn sàng nghe những lời khiếu nại chống nàng hơn là những cáo buộc nàng chống lại kẻ khác. Vậy nên nàng để mặc cho tàu đi qua Loriăng và Brétx không khẩn nài viên thuyền trưởng nữa, còn về phần ông ta, ông ta cũng dè chừng chẳng muốn đánh thức nàng Milady tiếp tục hành trình của mình. Cũng đúng ngày hôm Planchet xuống tàu ở cảng Portsmouth trở về nước Pháp, thì vị nữ phái viên của Đức ông cặp cảng đó một cách thành công.

Toàn thành phố xôn xao vì một hoạt động lạ thường, bốn hạm tàu lớn mới đóng xong vừa được hạ thủy. Người ta thấy ông Buckingham đứng trên cầu tàu, choáng lộn, lòe loẹt, đầy vàng, kim cương, đá quý theo thói quen, mũ dạ trang điểm một chiếc lông trắng cong vut xuống tận vai, xung quanh là bộ tham mưu hầu như cũng choáng lộn như ông.

Đó là một trong những ngày đông đẹp trời và hiếm có mà nước Anh chợt nhớ ra mình cũng có một mặt trời. Vị tinh tú đó đã nhạt đi tuy vẫn còn rực rỡ đang lặn xuống chân trời, nhuộm tía cả bầu trời lẫn mặt biển bằng những vạt lửa và ném lên trên các đỉnh tháp và những ngôi nhà già nua của thành phố những tia nắng vàng, cuối cùng làm các ô cửa kính lấp lánh như ánh lửa một đám cháy. Milady hít thở không khí biển càng gần đất liền càng tươi mát và thơm hơn, vừa ngắm nhìn sức mạnh của những phương tiện chiến tranh ấy mà nàng được trao trách nhiệm phải phá hủy, toàn bộ sức mạnh của cái đạo quân mà nàng phải chiến đấu bằng một mình nàng – một mình người đàn bà là nàng cùng với mấy túi vàng, nàng thầm tự sánh mình với Judita, người đàn bà Do Thái khủng khiếp, khi lọt sang chiến tuyến quân Atxyri, chỉ gẩy tay một cái đã làm tan tành tất cả thành mây khói.

Tàu vào vụng, nhưng khi người ta sắp thả neo thì một tàu khu trục nhỏ, súng ống khủng khiếp, sáp gần chiếc tàu buôn, nhân danh tuần tra duyên hải, thả xuống biển một chiếc xuồng tiến lại cầu thang tàu buôn. Xuồng có một sĩ quan, một viên cai và tám tay chèo. Chỉ một mình sĩ quan lên tàu buôn, và được tiếp đón trọng thể theo đồng phục cấp bậc sĩ quan.

Viên sĩ quan trao đổi vài phút với chủ tàu buôn, đọc cho người này nghe vài tờ giấy ông ta mang theo và theo lệnh của thuyền trưởng tàu buôn, tất cả thủy thủ đoàn của tàu, thủy thủ và hành khách được gọi lên trên boong tàu.

Khi việc điểm danh đã được tiến hành, viên sĩ quan lớn tiếng hỏi về địa điểm khởi hành, lộ trình, ghé bờ ở đâu, mọi câu hỏi thuyền trưởng đều trả lời trôi chảy, không chút khó khăn. Lúc đó, viên sĩ quan mới đi kiểm tra tất cả mọi người, người nọ sau người kia và dừng lại trước mặt Milady, nhìn nàng rất kỹ, nhưng không hề nói với nàng một lời nào.

Rồi ông ta quay về chỗ thuyền trưởng, nói thêm với ông này vài câu, và từ lúc đó con tàu như thể thuộc quyền chỉ huy của ông ta, ông ta ra lệnh, đoàn thủy thủ thi hành ngay. Thế là con tàu lại lên đường luôn có chiếc tàu khu trục hộ tống chạy song song, nòng sáu khẩu đại bác nhằm vào sườn tàu buôn uy hiếp, trong khi đó chiếc xuồng bơi theo rạch nước của chiếc chiến hạm như một chấm nhỏ bên một khối khổng lồ.

Trong khi viên sĩ quan chăm chú quan sát Milady, thì về phía mình, Milady cũng nhìn lại như ăn tươi nuốt sống người kia. Nhưng người đàn bà có đôi mắt lửa, vốn quen đọc thấu trong tim những kẻ mà nàng có nhu cầu đoán ra những bí mật, lần này chỉ thấy bộ mặt vẫn trơ trơ, không khám phá ra được bất cứ điều gì mà nàng cần dò xét. Người sĩ quan đã dừng lại trước mặt nàng và vẫn đang lặng lẽ nghiên cứu về nàng rất cẩn thận có thể chỉ độ hai nhăm hai sáu tuổi, với đôi mắt xanh tươi hơi sâu, cái miệng nhỏ và rất đẹp, không hề nhúc nhích trong những đường nét rất chuẩn xác, cái cằm nhô ra nhiều biểu lộ một ý chí mạnh mẽ, mà nếu ở trong giới người Anh hạ lưu thường cllỉ biểu hiện sự ương bướng, vầng trán hơi ngả về phía sau thích hợp với trán các nhà thơ, những người cuồng nhiệt và các binh sĩ, bị bộ tóc cắt ngắn và thưa hơi che đi, màu hạt dẻ sẫm giống như màu bộ râu cằm phía dưới mặt.

Lúc tàu cặp bến thì trời đã tối. Sương mù làm bóng tối dày đặc thêm tối và tạo thành xung quanh những đèn hiệu và đèn chiếu kè biển những vành tròn tương tự như vành tròn bao quanh mặt trăng khi trời muốn mưa. Không khí người ta hít thở, buồn, ẩm và lạnh.

Milady, người đàn bà mạnh mẽ đến thế cũng không tránh khỏi thấy rùng mình.

Viên sĩ quan yêu cầu Milady cho biết đâu là những bọc gói của nàng rồi cho chuyển hành lý của nàng xuống xuồng và khi mọi việc đã xong, ông ta vừa mời nàng xuống xuồng vừa chìa tay dắt nàng Milady nhìn người đàn ông và ngập ngừng rồi hỏi:

– Thưa ông, ông là ai mà lại chiếu cố chăm sóc quá đặc biệt đến tôi như vậy?

– Ồ, thưa bà, nhìn bộ quân phục tôi mặc – bà phải thấy chứ, tôi là sĩ quan hải quân Anh – người đàn ông trẻ tuổi trả lời.

– Nhưng rút cục, có phải sĩ quan quân Anh có lệ ra lệnh cho đồng bào của mình khi họ cặp bến đất Anh và lịch sự đến mức áp tải họ vào bờ?

– Vâng, thưa bà, đây là thông lệ, không phải do lịch sự mà do cảnh giác nên trong thời chiến, những người ngoại quốc đều được dẫn đến một khách sạn đã chỉ định, cốt để họ được đặt dưới sự giám sát của Nhà nước cho tới khi có được những thông tin đầy đủ về họ.

Những lời lẽ đó được nói ra một cách lịch thiệp chuẩn xác nhất, và với một sự bình thản hoàn hảo nhất. Nhưng nó lại không khiến cho Milady được yên tâm chút nào.

– Nhưng tôi đâu có phải người nước ngoài, thưa ông – Milady nói bằng một giọng đặc Anh chưa hề được nghe thấy từ Portsmouth đến Manchetser – Tôi là phu nhân Clerics, và cái thể thức này…

– Thể thức này là chung thôi, thưa bà, bà có định phá lệ cũng vô ích thôi.

– Thưa ông, vậy tôi sẽ theo ông.

Cầm tay viên sĩ quan, nàng bắt đầu xuống thang và phía dưới là chiếc xuồng đang đợi. Viên sĩ quan đi theo nàng. Một áo choàng lớn được rải ở phía buồng lái, viên sĩ quan bảo nàng ngồi trên cái áo choàng đó rồi ngồi cạnh nàng và bảo thủy thủ:

– Bơi đi!

Tám mái chèo cùng buông tõm xuống biển và nhất loạt chèo chiếc xuồng như bay trên mặt nước.

Trong vòng năm phút xuồng đã cặp bờ.

Viên sĩ quan nhảy lên kè và đưa tay cho Milady. Một chiếc xe đang đợi sẵn.

– Xe này là dành cho chúng ta? – Milady hỏi.

– Vâng, thưa bà – Viên sĩ quan trả lời.

– Khách sạn có xa lắm không?

– Ở đầu kia thành phố thôi.

– Ta đi thôi – Milady nói.

Rồi nàng cả quyết bước lên xe.

Viên sĩ quan theo dõi cho đến khi những gói đồ được buộc cẩn thận phía sau thùng xe và khi mọi việc đã xong, ông ta lên ngồi bên Milady và đóng cửa xe lại.

Lập tức, chẳng cần phải để ra lệnh và cũng chẳng cần phải bảo đi về địa chỉ nào, gã đánh xe cho ngựa phi nước đại đi sâu vào các phố trong thành phố.

Một sự đón tiếp lạ lùng như vậy hẳn phải làm cho Milady suy nghĩ rất nhiều, cho nên thấy viên sĩ quan không hề tỏ ra sẵn sàng bắt chuyện, nàng tựa khuỷu vào một góc xe, lần lượt xem lại mọi giả thiết nảy ra trong đầu.

Tuy nhiên, được độ mươi phút, nàng lấy làm ngạc nhiên vì đường xa đến thế, liền ngả người về phía cửa xe để xem người ta đưa mình đi đâu, thì không thấy nhà cửa nữa, chỉ có cây cối hiện ra trong bóng đêm như những con ma lớn đen ngòm, con nọ chạy sau con kia.

Milady rùng mình và nói:

– Nhưng chúng ta không còn trong thành phố nữa, thưa ông.

Viên sĩ quan vẫn ngồi im.

– Tôi không đi xa thêm nữa đâu, nếu ông không nói ông dẫn tôi đi đâu, tôi báo trước cho ông đấy.

Lời đe dọa ấy vẫn chẳng nhận được câu trả lời nào.

– Ôi! Thế này thì quá lắm! – Milady kêu lên – Cứu với! Cứu với!

– Không một tiếng đáp lại. Chiếc xe tiếp tục lăn bánh nhanh và viên sĩ quan vẫn tựa như pho tượng.

Milady nhìn viên sĩ quan với một nét mặt đặc biệt khủng khiếp và hiếm khi không có hiệu quả. Cơn giận làm đôi mắt nàng long lanh trong bóng tối.

Milady định mở cửa xe và lao ra.

– Coi chừng đấy, thưa bà ~ người đàn ông trẻ lạnh lùng nói – bà nhảy ra là tự giết mình đấy.

Milady lại ngồi xuống, tức sùi bọt mép. Viên sĩ quan ngả người đến lượt mình cũng nhìn Milady tỏ vẻ ngạc nhiên thấy khuôn mặt vừa rồi còn đẹp đến thế, vì sôi lên giận dữ đã trở nên hầu như xấu xí. Người đàn bà gian manh ấy hiểu rằng nếu để người ta nhìn sâu trong tâm hồn mình như thế là tự hại mình, liền tươi tỉnh lại nói bằng một giọng thương tâm:

– Có Chúa trời chứng giám! Thưa ông, xin ông, xin hãy nói cho biết tôi phải gán việc tôi bị đối xử bằng bạo lực như thế này cho ông, cho Chính phủ của ông hay cho một kẻ thù nào?

– Không ai dùng bạo lực với bằng, thưa bà, và việc xảy ra cho bà chỉ là kết quả của biện pháp hoàn toàn đơn giản mà chúng tôi buộc phải áp dụng đối với tất cả mọi người cặp bến ở nước Anh.

– Thưa ông, thì ra ông không biết tôi?

– Đây là lần đầu tiên tôi hân hạnh được gặp bà.

– Và ông có thể cam đoan ông không có chuyện gì hiềm khích với tôi chứ?

– Không có gì, tôi xin thề với bà.

Giọng nói của người đàn ông trẻ vừa hết sức trong trẻo, bình thản lại dịu dàng nữa khiến Milady yên tâm.

Cuối cùng, sau gần một giờ, xe mới dừng lại trước hàng rào lưới sắt, đi vào một con đường trống vắng dẫn đến một tòa lâu đài bề ngoài nghiêm trang, nặng nề và heo hút. Lúc đó, bánh xe lăn trên cát mịn nên Milady nghe thấy tiếng sóng gầm của biển vỗ vào bờ đá lởm chởm.

Chiếc xe đi dưới hai vòm cổng, cuối cùng dừng lại trong một cái sân vuông và tối, cửa xe vừa mở, người đàn ông trẻ tuổi đã nhảy ngay xuống theo, khá bình tĩnh.

Milady nhìn xung quanh rồi dồn mắt nhìn viên sĩ quan trẻ với nụ cười duyên dáng nhất và nói:

– Vậy, tôi vẫn cứ là một tù nhân, nhưng chắc sẽ không lâu đâu, tôi tin chắc như thế – Rồi nàng thêm – Thưa ông, lương tâm tôi và sự lịch sự của ông đảm bảo với tôi như thế.

Dù tán tụng và ve vãn như vậy, viên sĩ quan vẫn không trả lời, mà chỉ rút từ đai lưng ra một chiếc còi bằng bạc mà những viên cai vẫn dùng trên tàu chiến, thổi lên ba hồi theo ba giai điệu khác nhau. Thế là mấy người hiện ra tháo lũ ngựa đang thở phì phì và đưa xe vào một cái nhà kho.

Viên sĩ quan vẫn thái độ lịch sự điềm đạm mời tù nhân của mình vào trong nhà. Người đàn bà vẫn với bộ mặt tươi cười, vịn tay viên sĩ quan, đi vào cùng với ông ta qua một chiếc cửa thấp thắt giữa, vòm cửa chỉ được chiếu sáng từ sâu mãi bên trong, dẫn tới một cầu thang bằng đá xoắn theo một trụ đá, đi lên, rồi dừng lại trước một chiếc cửa nặng nề. Sau khi người kia tra chìa khóa mang theo vào ổ, cánh cửa nặng nề quay trên bản lề để lộ ra lối vào một căn phòng dành cho Milady.

Thoáng nhìn qua, người nữ tù nhân đã nắm được hết các chi tiết nhỏ nhất của căn nhà.

Đó là một căn buồng mà nội thất vừa quá sạch đối với một nhà tù và cũng quá sạch đối với một chỗ ở của một con người sống tự do. Tuy nhiên những song sắt của sổ và những chốt ngoài của cửa ra, lại thiên về một nhà tù.

Trong giây lát, toàn bộ nghị lực của con người từng được tôi luyện trong những mạch nguồn mạnh mẽ nhất tiêu tan hết.

Nàng buông mình xuống ghế tựa, khoanh tay, cúi đầu chờ đợi từng phút một để thấy một thẩm phán đi vào thẩm vấn nàng.

Nhưng chẳng có ai vào mà chỉ có vài ba lính thủy mang rương hòm tới, xếp vào một góc rồi lại rút lui không nói một lời.

Viên sĩ quan điều khiển mọi chi tiết với vẻ bình thản mà Milady thấy vẫn nguyên như trước, chẳng nói một lời mà chỉ lấy tay ra hiệu hoặc thổi còi cho bọn lính tuân theo.

Có thể nói giữa con người này và những kẻ dưới quyền, ngôn ngữ nói không tồn tại hoặc trở nên vô ích…

Cuối cùng Milady không chịu nổi thêm nữa, liền phá vỡ sự im lặng và kêu lên:

– Có trời cao chứng kiến, thưa ông. Tất cả những gì diễn ra thế này là thế nào? Nói toạc móng heo xem có chuyện gì nào. Tôi có đủ can đảm đối mặt với mọi hiểm nguy mà tôi thấy trước, mọi bất hạnh mà tôi thấu hiểu. Tôi đang ở đâu và ở đây làm gì? Tôi có còn được tự do không, tại sao lại có những song sắt và những cái cửa ấy? Tôi có phải tù nhân không và tôi mắc tội gì?

– Bà ở đây trong một căn phòng được dành cho bà. Tôi được lệnh phải giữ bà từ ngoài biển và dẫn bà đến tòa lâu đài này. Và tôi tin tôi đã hoàn thành nhiệm vụ với tất cả sự nghiêm túc của một quân nhân và phong độ của một nhà quý tộc. Giờ đây đã kết thúc, ít ra là cho đến lúc này, trách nhiệm tôi phải làm tròn đối với bà, phần còn lại liên quan đến một người khác.

– Thế cái người khác đó là ai vậy? – Milady hỏi – Ông không thể nói tên người ấy ra với tôi ư?

– Đúng lúc đó, có tiếng đinh thúc ngựa ầm ầm phía cầu thang.

– Có mấy tiếng người rồi lại im ngay, và tiếng bước chân một mình ai đó lại gần chiếc cửa.

– Cái người đó đến đây rồi, thưa bà – Vừa nói viên sĩ quan vừa chỉ ra lối đi, vừa đứng dẹp sang một bên với thái độ kính trọng và phục tùng.

Đồng thời cửa mở, một người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa.

Người này không đội mũ, đeo gươm, tay đang vò một chiếc khăn tay.

Milady tin mình nhận ra bóng người đó trong bóng tối. Nàng chống bàn tay lên thành ghế tựa, vươn đầu ra như để đón trước cái điều đã chắc chắn rồi.

– Người lạ từ từ tiến lại và khi ông ta tiến sâu vào vùng ánh sáng từ chiếc đèn chiếu ra, Milady bất giác lùi lại.

Rồi khi không còn chút nghi ngờ gì nữa, nàng kêu lên đầy vẻ kinh hoàng:

– Kìa sao? Em tôi? Chú đấy ư?

– Vâng, thưa quý bà! – Huân tước Winter làm điệu bộ chào nửa phong nhã, nửa hài hước.

– Tôi đây! Nhưng sao, tòa lâu đài này?

– Là của tôi.

– Căn phòng này?

– Là của bà!

– Tôi là tù nhân của ông ư?

– Gần như vậy.

– Nhưng đó là một sự lấy thịt đè người ghê tởm?

– Đừng có ngoa ngoắt. Ta hãy ngồi xuống chuyện trò với nhau bình tĩnh đã, như thế thích hợp giữa ông em và bà chị hơn.

Rồi quay về phía cửa, thấy viên sĩ quan đang đứng đợi những mệnh lệnh cuối cùng, ông ta nói:

– Tốt lắm! Xin cám ơn ông. Bây giờ để mặc chúng tôi, ông Felten.

Chú thích:(1) Ngụ ngôn Êdốp: Dơi đến với chuột bị chuột đuổi vì cho dơi thuộc loài chim, đến với chim bị chim đánh vì cho dơi thuộc loài chuột

Chọn tập
Bình luận