Đêm ấy là một đêm giông tố và u ám, những đám mây lớn cuồn cuợn trên trời, che hết ánh sáng các vì sao, đến nửa đêm trăng mới mọc.
Đôi khi, qua ánh chớp lóe lên phía chân trời, cũng thấy rõ được con đường trải ra trắng xóa và đơn độc. Chớp tắt, tất cả lại tối om.
Thỉnh thoảng Athos lại phải nhắc nhở D’Artagnan luôn luôn đi đầu đoàn là phải giữ vững cự ly, nhưng một lúc sau, chàng lại bỏ xa cả đoàn. Chàng chỉ có một ý nghĩ duy nhất là tiến lên phía trước và cứ tiến phứa lên.
Họ lặng lẽ đi xuyên qua làng Fetxtube, nơi tên đầy tớ bị thương phải lưu lại, rồi đi dọc cánh rừng Ritsơbua. Planchet vẫn dẫn đường cho đoàn người đến Hecliê thì rẽ trái.
Nhiều lúc, khi thì Huân tước De Winter, khi thì Porthos, khi thì Aramis định thử bắt chuyện với người mặc áo choàng đỏ nhưng mỗi khi hỏi, người này chỉ nghiêng mình không trả lời. Mọi người bấy giờ đều hiểu rằng chắc phải có một lý do nào đó, nên người là mặt này mới giữ yên lặng như thế, nên cũng thôi không hỏi nữa.
Hơn nữa, cơn giông lớn dần, chớp nhoáng nhoàng nối tiếp nhau, sấm bắt đầu gầm thét, và gió rít trên lông chim và đầu tóc các kỵ sĩ báo hiệu phong ba.
Đoàn người ngựa vẫn phi nước kiệu.
Ra khỏi Frômen một quãng, cơn giông bùng nổ. Mọi người phanh áo choàng ra. Còn phải đi ba dặm đường nữa. Họ đi dưới trời mưa như thác đổ.
D’Artagnan đã bỏ mũ ra và cũng chẳng mặc áo khoác.
Chàng thấy thích thú mặc cho nước chảy ròng ròng trên vầng trán nóng bỏng và trên cơ thể đang rùng rùng lên cơn sốt của mình.
Lúc tốp người đã vượt khỏi Gôtxkan và sắp tới bưu trạm, một người đàn ông, trú dưới một gốc cây, lẫn trong bóng tôl, tách ra, tiến ra giữa đường giơ ngón tay đặt lên môi.
Athos nhận ra Grimaud
– Có chuyện gì vậy? – D’Artagnan kêu lên – mụ ta đã rời khỏi Acmăngchie rồi ư?
Grimaud gật đầu khẳng định điều đó.
D’Artagnan nghiến răng.
– Im nào, D’Artagnan! – Athos nói – chính tôi đã chịu trách nhiệm tất cả cơ mà, vậy phải để tôi hỏi Grimaud chứ. Nó đi đâu?
Grimaud chỉ tay về hướng sông Litx.
– Xa đây không? – Athos hỏi.
Grimaud giơ ra cho chủ mình ngón tay trỏ đã gấp.
– Một mình à?
Grimaud gật đầu.
– Các vị Athos nói – nó đang ở một mình cách đây nửa dặm, ở phía đông.
– Tốt lắm – D’Artagnan nói – dẫn bọn ta đi, Grimaud.
Grimaud vượt qua đường, dẫn đoàn người ngựa đi.
Đi được khoảng năm trăm bước, thì gặp một con suối, họ lội qua dễ dàng.
Qua ánh chớp khác lóe lên, Grimaud dang tay ra chỉ và qua ánh chớp xanh lè, người ta thấy rõ một ngôi nhà đơn độc bên bờ sông, cách bến đò ngang chừng trăm bước.
Một cửa sổ có ánh đèn.
Athos nói:
– Chúng ta đến nơi rồi.
– Đúng lúc đó, một người nằm dưới một cái hố đứng dậy. Đó là Mousqueton, gã chỉ cái cửa sổ có ánh sáng và nói:
– Mụ ở đó.
– Bazin đâu? – Athos hỏi.
– Trong khi tôi canh gác cửa sổ, hắn ta gác ở cổng.
– Tốt lắm – Athos nói – các anh tất cả đều là những người giúp việc trung thành.
Athos nhảy từ trên lưng ngựa xuống, đưa dây cương, cho Grimaud tiến đến phía cửa sổ sau khi đã ra hiệu cho mọi người vòng ra phía cổng.
Ngôi nhà nhỏ được bao quanh bằng một hàng rào cây xanh cao già nửa mét. Athos bước qua hàng rào đến tận cửa sổ không có ván chắn gió nhưng có rèm lửng che kín.
Chàng trèo lên bờ đá chân tường để mắt có thể nhìn qua bên trên tấm rèm.
Dưới ánh đèn, chàng nhìn thấy một người đàn bà khoác một áo choàng không tay màu tối, ngồi trên một chiếc ghế đẩu bên đống lửa sưởi đang tàn, khuỷu tay tựa lên một chiếc bàn tồi tàn và đang ôm đầu trong đôi tay trắng mịn như ngà voi.
– Không thể trông rõ mặt, nhưng một nụ cười thảm khốc lướt trên môi Athos, không thể nhầm vào đâu được nữa, đó chính là con đàn bà chàng đang tìm kiếm.
– Đúng lúc ấy, một con ngựa hí lên. Milady ngẩng đầu lên, nhìn thấy khuôn mặt xanh xao của Athos dán vào ô kính liền thét lên.
Athos hiểu mụ đã nhận ra mình, liền lấy đầu gối và tay đẩy bật cửa sổ, các ô kính vỡ ra.
Và Athos như một hồn ma báo oán, nhảy vào trong phòng.
Milady chạy ra cửa và mở ra. Nhưng còn xanh hơn và dữ tợn hơn Athos, D’Artagnan đã ở ngay ngưỡng cửa.
Milady thét lên và lùi lại. D’Artagnan sợ rằng mụ còn có cách nào đó để trốn thoát, liền rút ngay súng ngắn ở đai lưng ra, nhưng Athos giơ tay ngăn lại.
– Cứ để yên súng đấy, D’Artagnan. con đàn bà này cần phải được xét xử chứ không phải bị ám sát. Cứ đợi đó một lát thôi, D’Artagnan, rồi cậu sẽ được hài lòng. Nào các vị, xin mời vào cả đây D’Artagnan tuân lệnh bởi Athos nói bằng một giọng long trọng và với dáng điệu uy quyền của một vị phán quan do chính Thượng đế phái xuống.
– Thế rồi, sau D’Artagnan, Porthos, Aramis, Huân tước De Winter và người mặc áo choàng đỏ vào theo.
Bốn người hầu canh giữ ngoài cổng và cửa sổ.
Milady ngã xuống chiếc ghế tựa, hai tay dang ra như để cầu xin giải trừ sự hiện diện khủng khiếp này. Nhận ra người em chồng, mụ thét lên một tiếng kêu hãi hùng.
– Ông muốn gì? – Milady kêu lên.
Athos nói:
– Chúng ta đòi Sáclốt Bêchxơn, lúc đầu được mang tên nữ Bá tước de la Fe, rồi tiếp đó là phu nhân De Winter, nữ Nam tước vùng Sepfin có mặt.
– Là tôi, là tôi đây! – Milady hoảng sợ tới cực điểm, lẩm bẩm – Ông muốn gì tôi?
Athos nói:
– Chúng ta muốn xét xử mụ theo đúng những tội ác mụ làm. Mụ sẽ được tự do bào chữa, hãy minh oan cho mụ nếu mụ có thể. Thưa ông D’Artagnan, xin ông buộc tội trước tiên.
D’Artagnan tién lên nói:
– Trước Đức Chúa và trước con người nói chung, tôi buộc tội con đàn bà này đã đầu độc nàng Constance Bonacieux đêm qua.
Chàng quay lại phía Porthos và Aramis.
– Chúng tôi xác nhận – cả hai chàng ngự lâm quân cùng nói.
D’Artagnan tiếp tục:
– Trước Đức Chúa và trước con người, tôi buộc tội con đàn bà này đã định đầu độc chính tôi, bằng rượu vang mụ gửi cho tôi từ Vilơroa với một bức thư giả mạo, như là vang của các bạn tôi. Chúa đã cứu thoát tôi, nhưng một người đã chết thay tôi, người ấy tên là Bridơmông.
– Chúng tôi xác nhận – Porthos và Aramis lại cùng nói.
– Trước Đức Chúa và trước con người, tôi buộc tội con đàn bà này đã xui tôi giết Nam tước de Wardes và vì không có ai ở đó để xác nhận việc cáo buộc này là sự thực, tôi xin tự xác nhận. Tôi đã nói xong.
Và D’Artagnan chuyển qua cạnh phòng, gần Porthos và Aramis.
– Đến lượt ông, Huân tước? – Athos nói.
Đến lượt Nam tước bước lại gần, ông nói:
– Trước Đức chúa và con người, tôi buộc tội con đàn bà này đã cho người ám sát Quận công De Buckingham.
– Quận công De Buckingham bị ám sát rồi ư? – Tất cả mọi người tham dự đều kêu lên.
– Vâng – Huân tước nói – bị ám sát rồi! Theo bức thư mà ông đã báo cho tôi, tôi đã cho bắt giữ con mụ này và tôi đã giao cho một người giúp việc trung thực canh giữ mụ. Mụ đã làm cho anh ta sa ngã, đã đặt dao găm vào tay anh ta để giết Quận công. Và lúc này có lẽ, Felten, tên anh ta, đã bị chặt đầu để trả giá cho tội ác điên rồ của hắn.
Tất cả các phán quan đều rùng mình về việc phát giác những tội ác mà mọi người chưa biết này.
– Chưa phải tất cả! – Huân tước De Winter nói tiếp – anh trai ta, người đã để lại tài sản thừa kế cho mụ đã chết trong vòng ba tiếng đồng hồ vì một căn bệnh kỳ lạ, để lại những vết bầm tím trên khắp cơ thể. Mụ chị dâu kia, chồng mụ đã chết như thế nào?
– Khủng khiếp quá! – Cả Porthos lẫn Aramis đều kêu lên.
– Kẻ giết Buckingham, giết Felten, giết anh trai ta, ta đòi công lý xử tội ngươi, và ta tuyên bố, nếu người ta không làm điều ấy cho ta, ta sẽ tự làm lấy.
Và Huân tước De Winter đến xếp hàng bên D’Artagnan, dành chỗ cho người buộc tội khác.
Milady gục đầu trong hai bàn tay và cố nhớ lại những ý nghĩ hỗn độn của mụ bởi một cơn choáng váng dữ dội.
– Đến lượt tôi – Athos, nói người run lên như một con sư tử run lên trước con rắn độc – Đến lượt tôi. Trước đây tôi đã cưới mụ đàn bà đó khi nó còn là một thiếu nữ, tôi đã cưới nó bất chấp tất cả mọi người trong gia đình, tôi cho nó của cải, cho nó danh phận của tôi, và một hôm tôi chợt thấy mụ đàn bà đó bị đóng dấu chín về tội ô nhục, mụ đàn bà đó bị đóng dấu bông hoa huệ bên vai trái.
– Ồ! – Milady đứng ngay dậy – tôi thách tìm lại được cái tòa án đã tuyên phạt tôi tội hình nhục nhã ấy. Tôi cũng thách tìm lại được người đã thi hành tội ấy.
– Im đi – một giọng người cất lên – về việc này, thì đã có ta trả lời.
Và người mặc áo choàng đỏ đến lượt mình lại gần.
– Người này là người nào, người này là người nào? – Milady kêu lên, như người tắc thở bởi nỗi kinh hoàng và tóc xổ tung ra, và dựng đứng lên như thể những con vật sống trên bộ mặt xám ngoét.
Mọi con mắt đều đổ dồn vào con người đó, bởi trừ Athos, với tất cả, đó còn là một người lạ.
Mà Athos cũng còn sững sờ như mọi người khác vì chàng cũng không hiểu làm sao mà con người này lại dính dáng đến tấn thảm kịch khủng khiếp đang ở đoạn sắp kết thúc này.
Từ tốn và trịnh trọng bước đến gần, chỉ còn cách Milady cái bàn, người lạ mặt bỏ mặt nạ ra.
Milady nhìn người này một lúc, nỗi kinh hoàng càng tăng thêm, cái khuôn mặt tái nhợt râu tóc đen ngòm, cái gì cũng khiếp, chỉ duy nhất ngoại trừ vẻ bình thản lạnh lùng. Rồi thình lình mụ kêu lên:
– Ồ không không – Mụ đứng dậy và lùi tận sát tường – – Không, không, đây là ma quỷ hiện hình! Đây không phải hắn! Cứu tôi? Cứu tôi! – Mụ kêu tiếp giọng khản đi và quay mặt vào tường, như thể mở nổi một lối thoát bằng hai tay mụ.
Mọi nhân chứng trong cảnh đó đều kêu lên:
– Nhưng ông là ai vậy?
– Xin cứ hỏi mụ đàn bà này – Người đàn ông mặc áo choàng đỏ nói – bởi vì các ông thấy rõ là mụ ta đã nhận ra tôi?
– Tên đao phủ ở Lilơ, đao phủ ở Lilơ.
Milady sợ đến phát điên, vừa kêu lên vừa phải bấu chặt hai tay vào tường cho khỏi ngã.
Mọi người giãn ra, chỉ còn mỗi người mặc áo choàng đỏ đứng ở giữa phòng.
Con khốn nạn quỳ sụp xuống kêu lên:
– Ôi, xin tha chết! Xin tha chết!
Người lạ mặt để cho mọi thứ ổn định lại mới nói tiếp:
– Tôi đã nói với các ông mà, thế nào mụ cũng nhận ra tôi!
– Đúng tôi là đao phủ của thành Lilơ. Sau đây là chuyện của tôi.
Mọi con mắt đều đổ dồn vào con người đó, hau háu chờ nghe ông ta nói.
“Thiếu phụ này ngày xưa là một cô gái cũng đẹp như mụ ta hiện nay. Mụ là nữ tu sĩ ở tu viện dòng thánh Bênêđích ở Tămplôma. Một giáo sĩ trẻ lòng dạ hồn nhiên và sùng đạo phục vụ tại tu viện này. Mụ tính chuyện quyến rũ ông ta và đã thành công. Mụ đã cám dỗ một bậc thánh.
Cả hai thề nguyền mãi mãi bên nhau, không bao giờ thay đổi. Mối quan hệ của họ không thể kéo dài mà không tổn hại đến cả hai người. Mụ thuyết phục được ông ta rời bỏ xứ sở, Nhưng để rời bỏ xứ sở, để cùng nhau trốn đi, để đến được một miền khác trên đất Pháp, để có thể sống yên ổn, để không ai biết tới, thì cần phải có tiền, mà lại chẳng ai có. Vị linh mục liền lấy cắp các bình gốm thờ đem bán nhưng họ vừa cùng nhau chuẩn bị ra đi thì cả hai đều bị bắt.
Tám ngày sau, mụ đã quyền rũ được con trai viên cai ngục và trốn thoát. Vị linh mục trẻ bị kết án mười năm gông xiềng và bị đóng dấu chín. Tôi là đao phủ thành Lilơ, như mụ ta đã nói.
Tôi phải đóng dấu phạm nhân và thưa các vị, phạm nhân chính là em trai tôi.
Thế là tôi thề rằng con đàn bà đã làm nó chết, còn tệ hơn là kẻ đồng lõa của nó, vì lẽ mụ đã đẩy nó đến chỗ phạm tội thì ít nhất mụ cũng phải chia sẻ sự trừng phạt. Tôi ngờ nơi mụ trốn, và truy đuổi, rồi tóm được mụ, tôi gô cổ mụ lại và cũng in dấu sắt nung vào mụ như đã in vào em trai tôi.
Hôm sau tôi trở lại Lilơ, em trai tôi cũng lại trốn mất, người ta buộc tội tôi thông đồng và xử tôi bị tù thay chừng nào em tôi vẫn ngoài vòng pháp luật. Thằng em trai khốn khổ của tôi không biết việc xét xử đó, nó lại gặp được mụ đàn bà ấy, rồi cùng nhau trốn ở Bery và ở đó nó được nhận chân mục sư nhỏ.
Mụ đàn bà được coi là em gái nó.
Vị lãnh chúa trong vùng có ngôi nhà thờ của mục sư đó thấy cô em gái giả vờ đó, đem lòng si mê, đến mức ngỏ lời cầu hôn.
Thế là mụ bỏ phéng ngay kẻ mụ đã làm hại để chạy theo kẻ mụ phải làm hại và trở thành nữ Bá tước de la Fe”.
Mọi con mắt lại đổ dồn về Athos, mà cái tên đó mới đích thực là tên chàng. Chàng gật đầu tỏ ý mọi điều người đao phủ nói đều đúng cả.
– Thế rồi – người này nói tiếp – thất vọng, điên dại, thằng em trai khốn khổ của tôi quyết định rũ bỏ cuộc đời mà mụ ta đã lấy đi tất cả danh dự, hạnh phúc, trở lại Lilơ mới hiểu ra tôi đã bị án quyết tù thay, nên nó đã ra đầu thú và ngay tối ấy đã treo cổ dưới lỗ thông hơi của xà lim.
Tóm lại, cũng là công bằng đối với chúng thôi. Những người đã kết án tôi đã giữ lời hứa. Tử thi được xác nhận là họ trả tự do cho tôi ngay.
Đó là tội ác tôi buộc tội mụ, và đó là nguyên nhân mụ bị đóng dấu nung.
Athos nói:
– Ông D’Artagnan, ông đòi xử mụ đàn bà này hình phạt gì?
– Tử hình! – D’Artagnan đáp.
Athos tiếp tục:
– Huân tước De Winter, ông đòi xử mụ đàn bà này hình phạt gì?
– Tử hình! – De Winter lặp lại.
– Các vị Porthos và Aramis – Athos hỏi tiếp – Các vị là các thẩm phán, các vị xử mụ đàn bà này hình phạt gì?
– Tội tử hình – cả hai đều trả lời bằng một giọng khàn khàn.
Milady rú lên một tiếng ghê rợn và lê gối đến trước mấy người xét xử.
Athos giơ thẳng cánh tay chỉ vào mặt mụ và nói:
– Sáclốt Bêchxơn, nữ Bá tước de la Fe, Milady de Winter, tội ác của mụ đã làm mệt mỏi người trên trần thế. Chúa ở trên trời. Nếu mụ biết vài lời cầu nguyện, thì hãy cầu đi, bởi mụ đã bị kết án tử hình và mụ sắp chết rồi.
Nghe nói vậy, thấy không còn chút hy vọng nào nữa, mụ đứng thẳng người lên định nói, nhưng không còn đủ sức. Mụ thấy có một bàn tay mạnh mẽ và không đội trời chung tóm lấy tóc mụ, lôi mụ đi không thể nào cưỡng lại như định mệnh lôi một con người. Mụ cũng chẳng thèm chống cự lại nữa và ra khỏi túp lều tranh.
Huân tước De Winter, D’Artagnan, Athos Porthos và Aramis ra theo phía sau. Những người hầu cũng đi theo chủ và căn phòng lại đơn độc với chiếc cửa sổ vỡ, cổng mở và ngọn đèn bốc khói đang hắt hiu cháy trên mặt bàn.
Đêm ấy là một đêm giông tố và u ám, những đám mây lớn cuồn cuợn trên trời, che hết ánh sáng các vì sao, đến nửa đêm trăng mới mọc.
Đôi khi, qua ánh chớp lóe lên phía chân trời, cũng thấy rõ được con đường trải ra trắng xóa và đơn độc. Chớp tắt, tất cả lại tối om.
Thỉnh thoảng Athos lại phải nhắc nhở D’Artagnan luôn luôn đi đầu đoàn là phải giữ vững cự ly, nhưng một lúc sau, chàng lại bỏ xa cả đoàn. Chàng chỉ có một ý nghĩ duy nhất là tiến lên phía trước và cứ tiến phứa lên.
Họ lặng lẽ đi xuyên qua làng Fetxtube, nơi tên đầy tớ bị thương phải lưu lại, rồi đi dọc cánh rừng Ritsơbua. Planchet vẫn dẫn đường cho đoàn người đến Hecliê thì rẽ trái.
Nhiều lúc, khi thì Huân tước De Winter, khi thì Porthos, khi thì Aramis định thử bắt chuyện với người mặc áo choàng đỏ nhưng mỗi khi hỏi, người này chỉ nghiêng mình không trả lời. Mọi người bấy giờ đều hiểu rằng chắc phải có một lý do nào đó, nên người là mặt này mới giữ yên lặng như thế, nên cũng thôi không hỏi nữa.
Hơn nữa, cơn giông lớn dần, chớp nhoáng nhoàng nối tiếp nhau, sấm bắt đầu gầm thét, và gió rít trên lông chim và đầu tóc các kỵ sĩ báo hiệu phong ba.
Đoàn người ngựa vẫn phi nước kiệu.
Ra khỏi Frômen một quãng, cơn giông bùng nổ. Mọi người phanh áo choàng ra. Còn phải đi ba dặm đường nữa. Họ đi dưới trời mưa như thác đổ.
D’Artagnan đã bỏ mũ ra và cũng chẳng mặc áo khoác.
Chàng thấy thích thú mặc cho nước chảy ròng ròng trên vầng trán nóng bỏng và trên cơ thể đang rùng rùng lên cơn sốt của mình.
Lúc tốp người đã vượt khỏi Gôtxkan và sắp tới bưu trạm, một người đàn ông, trú dưới một gốc cây, lẫn trong bóng tôl, tách ra, tiến ra giữa đường giơ ngón tay đặt lên môi.
Athos nhận ra Grimaud
– Có chuyện gì vậy? – D’Artagnan kêu lên – mụ ta đã rời khỏi Acmăngchie rồi ư?
Grimaud gật đầu khẳng định điều đó.
D’Artagnan nghiến răng.
– Im nào, D’Artagnan! – Athos nói – chính tôi đã chịu trách nhiệm tất cả cơ mà, vậy phải để tôi hỏi Grimaud chứ. Nó đi đâu?
Grimaud chỉ tay về hướng sông Litx.
– Xa đây không? – Athos hỏi.
Grimaud giơ ra cho chủ mình ngón tay trỏ đã gấp.
– Một mình à?
Grimaud gật đầu.
– Các vị Athos nói – nó đang ở một mình cách đây nửa dặm, ở phía đông.
– Tốt lắm – D’Artagnan nói – dẫn bọn ta đi, Grimaud.
Grimaud vượt qua đường, dẫn đoàn người ngựa đi.
Đi được khoảng năm trăm bước, thì gặp một con suối, họ lội qua dễ dàng.
Qua ánh chớp khác lóe lên, Grimaud dang tay ra chỉ và qua ánh chớp xanh lè, người ta thấy rõ một ngôi nhà đơn độc bên bờ sông, cách bến đò ngang chừng trăm bước.
Một cửa sổ có ánh đèn.
Athos nói:
– Chúng ta đến nơi rồi.
– Đúng lúc đó, một người nằm dưới một cái hố đứng dậy. Đó là Mousqueton, gã chỉ cái cửa sổ có ánh sáng và nói:
– Mụ ở đó.
– Bazin đâu? – Athos hỏi.
– Trong khi tôi canh gác cửa sổ, hắn ta gác ở cổng.
– Tốt lắm – Athos nói – các anh tất cả đều là những người giúp việc trung thành.
Athos nhảy từ trên lưng ngựa xuống, đưa dây cương, cho Grimaud tiến đến phía cửa sổ sau khi đã ra hiệu cho mọi người vòng ra phía cổng.
Ngôi nhà nhỏ được bao quanh bằng một hàng rào cây xanh cao già nửa mét. Athos bước qua hàng rào đến tận cửa sổ không có ván chắn gió nhưng có rèm lửng che kín.
Chàng trèo lên bờ đá chân tường để mắt có thể nhìn qua bên trên tấm rèm.
Dưới ánh đèn, chàng nhìn thấy một người đàn bà khoác một áo choàng không tay màu tối, ngồi trên một chiếc ghế đẩu bên đống lửa sưởi đang tàn, khuỷu tay tựa lên một chiếc bàn tồi tàn và đang ôm đầu trong đôi tay trắng mịn như ngà voi.
– Không thể trông rõ mặt, nhưng một nụ cười thảm khốc lướt trên môi Athos, không thể nhầm vào đâu được nữa, đó chính là con đàn bà chàng đang tìm kiếm.
– Đúng lúc ấy, một con ngựa hí lên. Milady ngẩng đầu lên, nhìn thấy khuôn mặt xanh xao của Athos dán vào ô kính liền thét lên.
Athos hiểu mụ đã nhận ra mình, liền lấy đầu gối và tay đẩy bật cửa sổ, các ô kính vỡ ra.
Và Athos như một hồn ma báo oán, nhảy vào trong phòng.
Milady chạy ra cửa và mở ra. Nhưng còn xanh hơn và dữ tợn hơn Athos, D’Artagnan đã ở ngay ngưỡng cửa.
Milady thét lên và lùi lại. D’Artagnan sợ rằng mụ còn có cách nào đó để trốn thoát, liền rút ngay súng ngắn ở đai lưng ra, nhưng Athos giơ tay ngăn lại.
– Cứ để yên súng đấy, D’Artagnan. con đàn bà này cần phải được xét xử chứ không phải bị ám sát. Cứ đợi đó một lát thôi, D’Artagnan, rồi cậu sẽ được hài lòng. Nào các vị, xin mời vào cả đây D’Artagnan tuân lệnh bởi Athos nói bằng một giọng long trọng và với dáng điệu uy quyền của một vị phán quan do chính Thượng đế phái xuống.
– Thế rồi, sau D’Artagnan, Porthos, Aramis, Huân tước De Winter và người mặc áo choàng đỏ vào theo.
Bốn người hầu canh giữ ngoài cổng và cửa sổ.
Milady ngã xuống chiếc ghế tựa, hai tay dang ra như để cầu xin giải trừ sự hiện diện khủng khiếp này. Nhận ra người em chồng, mụ thét lên một tiếng kêu hãi hùng.
– Ông muốn gì? – Milady kêu lên.
Athos nói:
– Chúng ta đòi Sáclốt Bêchxơn, lúc đầu được mang tên nữ Bá tước de la Fe, rồi tiếp đó là phu nhân De Winter, nữ Nam tước vùng Sepfin có mặt.
– Là tôi, là tôi đây! – Milady hoảng sợ tới cực điểm, lẩm bẩm – Ông muốn gì tôi?
Athos nói:
– Chúng ta muốn xét xử mụ theo đúng những tội ác mụ làm. Mụ sẽ được tự do bào chữa, hãy minh oan cho mụ nếu mụ có thể. Thưa ông D’Artagnan, xin ông buộc tội trước tiên.
D’Artagnan tién lên nói:
– Trước Đức Chúa và trước con người nói chung, tôi buộc tội con đàn bà này đã đầu độc nàng Constance Bonacieux đêm qua.
Chàng quay lại phía Porthos và Aramis.
– Chúng tôi xác nhận – cả hai chàng ngự lâm quân cùng nói.
D’Artagnan tiếp tục:
– Trước Đức Chúa và trước con người, tôi buộc tội con đàn bà này đã định đầu độc chính tôi, bằng rượu vang mụ gửi cho tôi từ Vilơroa với một bức thư giả mạo, như là vang của các bạn tôi. Chúa đã cứu thoát tôi, nhưng một người đã chết thay tôi, người ấy tên là Bridơmông.
– Chúng tôi xác nhận – Porthos và Aramis lại cùng nói.
– Trước Đức Chúa và trước con người, tôi buộc tội con đàn bà này đã xui tôi giết Nam tước de Wardes và vì không có ai ở đó để xác nhận việc cáo buộc này là sự thực, tôi xin tự xác nhận. Tôi đã nói xong.
Và D’Artagnan chuyển qua cạnh phòng, gần Porthos và Aramis.
– Đến lượt ông, Huân tước? – Athos nói.
Đến lượt Nam tước bước lại gần, ông nói:
– Trước Đức chúa và con người, tôi buộc tội con đàn bà này đã cho người ám sát Quận công De Buckingham.
– Quận công De Buckingham bị ám sát rồi ư? – Tất cả mọi người tham dự đều kêu lên.
– Vâng – Huân tước nói – bị ám sát rồi! Theo bức thư mà ông đã báo cho tôi, tôi đã cho bắt giữ con mụ này và tôi đã giao cho một người giúp việc trung thực canh giữ mụ. Mụ đã làm cho anh ta sa ngã, đã đặt dao găm vào tay anh ta để giết Quận công. Và lúc này có lẽ, Felten, tên anh ta, đã bị chặt đầu để trả giá cho tội ác điên rồ của hắn.
Tất cả các phán quan đều rùng mình về việc phát giác những tội ác mà mọi người chưa biết này.
– Chưa phải tất cả! – Huân tước De Winter nói tiếp – anh trai ta, người đã để lại tài sản thừa kế cho mụ đã chết trong vòng ba tiếng đồng hồ vì một căn bệnh kỳ lạ, để lại những vết bầm tím trên khắp cơ thể. Mụ chị dâu kia, chồng mụ đã chết như thế nào?
– Khủng khiếp quá! – Cả Porthos lẫn Aramis đều kêu lên.
– Kẻ giết Buckingham, giết Felten, giết anh trai ta, ta đòi công lý xử tội ngươi, và ta tuyên bố, nếu người ta không làm điều ấy cho ta, ta sẽ tự làm lấy.
Và Huân tước De Winter đến xếp hàng bên D’Artagnan, dành chỗ cho người buộc tội khác.
Milady gục đầu trong hai bàn tay và cố nhớ lại những ý nghĩ hỗn độn của mụ bởi một cơn choáng váng dữ dội.
– Đến lượt tôi – Athos, nói người run lên như một con sư tử run lên trước con rắn độc – Đến lượt tôi. Trước đây tôi đã cưới mụ đàn bà đó khi nó còn là một thiếu nữ, tôi đã cưới nó bất chấp tất cả mọi người trong gia đình, tôi cho nó của cải, cho nó danh phận của tôi, và một hôm tôi chợt thấy mụ đàn bà đó bị đóng dấu chín về tội ô nhục, mụ đàn bà đó bị đóng dấu bông hoa huệ bên vai trái.
– Ồ! – Milady đứng ngay dậy – tôi thách tìm lại được cái tòa án đã tuyên phạt tôi tội hình nhục nhã ấy. Tôi cũng thách tìm lại được người đã thi hành tội ấy.
– Im đi – một giọng người cất lên – về việc này, thì đã có ta trả lời.
Và người mặc áo choàng đỏ đến lượt mình lại gần.
– Người này là người nào, người này là người nào? – Milady kêu lên, như người tắc thở bởi nỗi kinh hoàng và tóc xổ tung ra, và dựng đứng lên như thể những con vật sống trên bộ mặt xám ngoét.
Mọi con mắt đều đổ dồn vào con người đó, bởi trừ Athos, với tất cả, đó còn là một người lạ.
Mà Athos cũng còn sững sờ như mọi người khác vì chàng cũng không hiểu làm sao mà con người này lại dính dáng đến tấn thảm kịch khủng khiếp đang ở đoạn sắp kết thúc này.
Từ tốn và trịnh trọng bước đến gần, chỉ còn cách Milady cái bàn, người lạ mặt bỏ mặt nạ ra.
Milady nhìn người này một lúc, nỗi kinh hoàng càng tăng thêm, cái khuôn mặt tái nhợt râu tóc đen ngòm, cái gì cũng khiếp, chỉ duy nhất ngoại trừ vẻ bình thản lạnh lùng. Rồi thình lình mụ kêu lên:
– Ồ không không – Mụ đứng dậy và lùi tận sát tường – – Không, không, đây là ma quỷ hiện hình! Đây không phải hắn! Cứu tôi? Cứu tôi! – Mụ kêu tiếp giọng khản đi và quay mặt vào tường, như thể mở nổi một lối thoát bằng hai tay mụ.
Mọi nhân chứng trong cảnh đó đều kêu lên:
– Nhưng ông là ai vậy?
– Xin cứ hỏi mụ đàn bà này – Người đàn ông mặc áo choàng đỏ nói – bởi vì các ông thấy rõ là mụ ta đã nhận ra tôi?
– Tên đao phủ ở Lilơ, đao phủ ở Lilơ.
Milady sợ đến phát điên, vừa kêu lên vừa phải bấu chặt hai tay vào tường cho khỏi ngã.
Mọi người giãn ra, chỉ còn mỗi người mặc áo choàng đỏ đứng ở giữa phòng.
Con khốn nạn quỳ sụp xuống kêu lên:
– Ôi, xin tha chết! Xin tha chết!
Người lạ mặt để cho mọi thứ ổn định lại mới nói tiếp:
– Tôi đã nói với các ông mà, thế nào mụ cũng nhận ra tôi!
– Đúng tôi là đao phủ của thành Lilơ. Sau đây là chuyện của tôi.
Mọi con mắt đều đổ dồn vào con người đó, hau háu chờ nghe ông ta nói.
“Thiếu phụ này ngày xưa là một cô gái cũng đẹp như mụ ta hiện nay. Mụ là nữ tu sĩ ở tu viện dòng thánh Bênêđích ở Tămplôma. Một giáo sĩ trẻ lòng dạ hồn nhiên và sùng đạo phục vụ tại tu viện này. Mụ tính chuyện quyến rũ ông ta và đã thành công. Mụ đã cám dỗ một bậc thánh.
Cả hai thề nguyền mãi mãi bên nhau, không bao giờ thay đổi. Mối quan hệ của họ không thể kéo dài mà không tổn hại đến cả hai người. Mụ thuyết phục được ông ta rời bỏ xứ sở, Nhưng để rời bỏ xứ sở, để cùng nhau trốn đi, để đến được một miền khác trên đất Pháp, để có thể sống yên ổn, để không ai biết tới, thì cần phải có tiền, mà lại chẳng ai có. Vị linh mục liền lấy cắp các bình gốm thờ đem bán nhưng họ vừa cùng nhau chuẩn bị ra đi thì cả hai đều bị bắt.
Tám ngày sau, mụ đã quyền rũ được con trai viên cai ngục và trốn thoát. Vị linh mục trẻ bị kết án mười năm gông xiềng và bị đóng dấu chín. Tôi là đao phủ thành Lilơ, như mụ ta đã nói.
Tôi phải đóng dấu phạm nhân và thưa các vị, phạm nhân chính là em trai tôi.
Thế là tôi thề rằng con đàn bà đã làm nó chết, còn tệ hơn là kẻ đồng lõa của nó, vì lẽ mụ đã đẩy nó đến chỗ phạm tội thì ít nhất mụ cũng phải chia sẻ sự trừng phạt. Tôi ngờ nơi mụ trốn, và truy đuổi, rồi tóm được mụ, tôi gô cổ mụ lại và cũng in dấu sắt nung vào mụ như đã in vào em trai tôi.
Hôm sau tôi trở lại Lilơ, em trai tôi cũng lại trốn mất, người ta buộc tội tôi thông đồng và xử tôi bị tù thay chừng nào em tôi vẫn ngoài vòng pháp luật. Thằng em trai khốn khổ của tôi không biết việc xét xử đó, nó lại gặp được mụ đàn bà ấy, rồi cùng nhau trốn ở Bery và ở đó nó được nhận chân mục sư nhỏ.
Mụ đàn bà được coi là em gái nó.
Vị lãnh chúa trong vùng có ngôi nhà thờ của mục sư đó thấy cô em gái giả vờ đó, đem lòng si mê, đến mức ngỏ lời cầu hôn.
Thế là mụ bỏ phéng ngay kẻ mụ đã làm hại để chạy theo kẻ mụ phải làm hại và trở thành nữ Bá tước de la Fe”.
Mọi con mắt lại đổ dồn về Athos, mà cái tên đó mới đích thực là tên chàng. Chàng gật đầu tỏ ý mọi điều người đao phủ nói đều đúng cả.
– Thế rồi – người này nói tiếp – thất vọng, điên dại, thằng em trai khốn khổ của tôi quyết định rũ bỏ cuộc đời mà mụ ta đã lấy đi tất cả danh dự, hạnh phúc, trở lại Lilơ mới hiểu ra tôi đã bị án quyết tù thay, nên nó đã ra đầu thú và ngay tối ấy đã treo cổ dưới lỗ thông hơi của xà lim.
Tóm lại, cũng là công bằng đối với chúng thôi. Những người đã kết án tôi đã giữ lời hứa. Tử thi được xác nhận là họ trả tự do cho tôi ngay.
Đó là tội ác tôi buộc tội mụ, và đó là nguyên nhân mụ bị đóng dấu nung.
Athos nói:
– Ông D’Artagnan, ông đòi xử mụ đàn bà này hình phạt gì?
– Tử hình! – D’Artagnan đáp.
Athos tiếp tục:
– Huân tước De Winter, ông đòi xử mụ đàn bà này hình phạt gì?
– Tử hình! – De Winter lặp lại.
– Các vị Porthos và Aramis – Athos hỏi tiếp – Các vị là các thẩm phán, các vị xử mụ đàn bà này hình phạt gì?
– Tội tử hình – cả hai đều trả lời bằng một giọng khàn khàn.
Milady rú lên một tiếng ghê rợn và lê gối đến trước mấy người xét xử.
Athos giơ thẳng cánh tay chỉ vào mặt mụ và nói:
– Sáclốt Bêchxơn, nữ Bá tước de la Fe, Milady de Winter, tội ác của mụ đã làm mệt mỏi người trên trần thế. Chúa ở trên trời. Nếu mụ biết vài lời cầu nguyện, thì hãy cầu đi, bởi mụ đã bị kết án tử hình và mụ sắp chết rồi.
Nghe nói vậy, thấy không còn chút hy vọng nào nữa, mụ đứng thẳng người lên định nói, nhưng không còn đủ sức. Mụ thấy có một bàn tay mạnh mẽ và không đội trời chung tóm lấy tóc mụ, lôi mụ đi không thể nào cưỡng lại như định mệnh lôi một con người. Mụ cũng chẳng thèm chống cự lại nữa và ra khỏi túp lều tranh.
Huân tước De Winter, D’Artagnan, Athos Porthos và Aramis ra theo phía sau. Những người hầu cũng đi theo chủ và căn phòng lại đơn độc với chiếc cửa sổ vỡ, cổng mở và ngọn đèn bốc khói đang hắt hiu cháy trên mặt bàn.