Lê sực nghĩ ra một ý. Anh vội vàng tung chăn, vùng dậy. Anh rửa mặt mũi, mặc quần áo, vừa huýt sáo rầm nhà, vừa xếp lại những chồng báo bầy la liệt trên ván gác. Anh cuộn bản thảo cuốn tiểu thuyết PHÁ SẢN vừa viết xong được hai hôm.
Anh vui vẻ đứng nhìn xung quanh. Căn gác ấy không còn bày đồ đạc gì để phải dọn thêm nữa. Anh cúi xuống, cuộn chiếc chiếu nằm giải ở mặt sàn, rồi cắp cuốn văn vào nách.
Bỗng tiếng giày rầm rộ ở cầu thang làm Lê nhìn ra.
Chưa thấy người, anh đã nghe tiếng hỏi:
– Lê đã dậy chưa, mày?
Nhận ra tiếng Vũ, Lê mừng rỡ, đáp:
– Tao sắp đi đây.
Vũ đẩy cửa vào. Theo thói quen, không ai bắt tay ai. Vũ thấy bạn áo quần chỉnh tề, thì ngạc nhiên, hất hàm hỏi:
– Đi đâu?
– Tao đi Hà Đông, ăn tết với thằng Trần.
Vũ còng lưng, cười bò ra, nói:
– Thế thì đen tao. Tao định đến đây ăn tết với mày. Vì tao chẳng còn đồng xu nhỏ?
Lê vênh váo, đập tay vào túi:
– Tao còn những một hào. Thế thì tao là nhà văn có giá trị hơn mày.
Vũ giơ cánh tay phải, cúi gập lưng, chào một cách cưng kính:
– Phục ngài lắm? Chừng thằng Trần viết giấy mời ngài vào với nó? Nó có tiền nhuận bút của bài viết cho số báo tết hay vừa lấy tiền bản quyển cuốn kịch ĐOẠ ĐẦY.
Lê lắc đầu:
– Nó kiết hay có tiền, cái đó tao không cần biết. Nhưng tao đoán ít ra túi nó cũng có từ hào mốt trở lê, nghĩa giàu hơn tao.
Vũ ngăn:
– Nhưng tao định đến đây ghẹ mày cái tết, mày nghĩ sao? Tao chẳng còn lấy một trinh Bảo Đại. Cái món tiền bán đứt cuốn thơ MƠ MÀNG, tao lấy tháng trước chúng mày xâu xé hết nhẵn cả rồi.
– Thế thì về Hà Đông với tao.
– Nhưng mày mượn cái bồ, nhét tao vào, giả vờ làm bồ hàng, chứ chả lẽ mày đi xe, tao đi bộ à?
– Không cần, hãy chịu khó cuốc xuống Thái Hà, rồi hãy diện xe điện.
***
Đôi bạn hăm hở đi. Trời quang tạnh. Gió lạnh rít qua tai. Rét như cắt. Phố xá ngày ba mươi tết, ngổn ngang về người với xe. Chiếc cao-su lù lù hoa cúc vàng, và ngất nghểu cành đào phớt, chạy ì ạch về phía ga.
Ông nhà quê, nách cắp bánh pháo, câu đối, đầu ngón tay lủng lẳng củ thuỷ tiên hàm tiếu, dừng chân lại, ngắm cái khăn xếp bày trong tủ kính. Các bà ở chợ về, ôm thúng đậu hoà lan, bong bóng, tay còn xách con gà thiến nặng trĩu. Những cậu nhỏ, quần xắn đến bẹn, dội uôm uôm từng thùng nước vào ván cửa để cọ, bất chấp cả người đi trên hè. Một vài thằng nhãi, nén hương cầm tay, nắm pháo trong túi, thi thoảng lại đốt đánh đẹt làm anh phu xe giật nảy mình.
Lê và Vũ xoạc thật dài cẳng, nện gót giày xuống vỉa hè cồm cộp, đi như lính ra trận. Bỗng Vũ vê hai ngón tay, hỏi:
– Mày còn thuốc lá không?
Lê mỉm mép:
– Tao cũng sắp hỏi mày câu ấy.
Tiếng cười tung ra, làm ngoái cổ cả những cô tiểu thư xinh nhất và lười nhất trần đời, thẳng tay cầm một tập những sách tết và báo tết.
– Này, Vũ, chúng nó sắm tết như chửi vào mặt chúng mình vậy.
– Kệ.
(Bị xoá một đoạn bởi Ty kiểm duyệt của bọn thống trị Pháp)
– Tao hận nghề lắm, lúc nào cũng nghèo xơ nghèo xác. Trông bọn văn sĩ, thăng nào cũng gầy như con mắm. Thế mà độc giả, nhất là các cô kia, họ tưởng mình ghê gớm như thần như thánh!
– Chẳng hơn những thằng làm nghề khác à? Có ai thèm đếm xỉa đến chúng nó.
– Mà bạn bè đứa nào cũng một tuồng như mình. Động hở ra đồng nào là xúm nhau lại phá cho kỳ hết.
– Còn hơn những thằng nhà giàu, bọn mình có ai thèm bạn với đấy? Mày phải tự kiêu ở chỗ nghèo. Cái nghèo của nhà văn là cái nghèo thanh cao, cái nghèo đáng trọng, cái nghèo phải ghi vào lịch sử văn học của thế giới. Chúng ta nghèo, vì có bao nhiêu ở trong tim trong óc, chúng ta trút cả ra để làm giàu cho tim óc thiên hạ.
Lê nắm tay bạn, thụi rõ mạnh vào vai:
– Tao chúa ghét những loài thi sĩ như mày. Chỉ biết sống mơ mộng. Mày phải nhớ rằng hiện giờ này, mày không dính một trinh trong túi, ba mươi tết, mày mò đến nhà tao, định ăn phò tao cái tết, rồi mày với tao phải lần đến nhà thằng Trần. Có đúng thế không?
– Nhưng văn học sử ngày sau, người ta nói đến tên nhà tiểu thuyết Lê, nhà thi sĩ Vũ, nhà kịch sĩ Trần, vân vân… Chúng ta sẽ bất tử.
(Bị xoá một đoạn bởi Ty kiểm duyệt của bọn thống trị Pháp)
– Mày nói câu ấy, tỏ ra mày khá thông minh. Nghĩa là sau khi chết, nhà văn còn bất tử, và chỉ bấy giờ nhà văn mới bình tĩnh được sống vẻ vang hơn vua chúa vì nhà văn không phải lo cơm áo nữa!
***
Chẳng mấy chốc, hai anh em đã đứng ở trước cửa chùa Đồng Quang, chờ xe điện vào Hà Đông.
Để mặc Lê và Vũ xem cuốn kịch của mình mới viết xong, Trần nhìn làn khói thuốc lá cuồn cuộn, yên lặng nghĩ ngợi. Bỗng anh vỗ tay cười, và tuyên bố:
– Không cần, tao nghĩ ra rồi. Đồng bạc của tao để làm tiền hành lý, chúng ta kéo đến nhà thằng Nguyễn. Mấy năm nay, nó in nhiều sịch, thế nào cũng rộng tiền hơn chúng ta.
Lê đứng phắt dậy:
– Ừ phải đấy, có cái kho tiền ấy mà tao quên béng đi mất. Nó vừa bán sức cho nhà nước, vừa bán văn cho nhà xuất bản, thì làm gì nó không giàu.
Vũ ngậm ngùi, lắc đầu:
– Tao không muốn đến nhà thằng Nguyễn, vì cuộc bút chiến giữa nó với tao chưa kết thúc. Sợ cuộc gặp gỡ mất vui.
Lê cười:
– Thế ra mày thông minh hơn tao thật? Mày phải hiểu mày với thằng Nguyễn, mà cả làng văn chúng ta nữa, nhiều khi chính kiến, tư tưởng không gặp nhau, nhưng gặp nhau ở chỗ nghèo kiết. Mày không nhớ năm ngoái, thằng Trần với tao bút chiến trên báo, chắc người ngoài tưởng hai đứa có thể ìm dao đâm chém nhau được, nhưng chính trong thời kỳ cãi nhau kịch liệt ấy nó với tao vẫn ở chung với nhau một nhà?
Trần sung sướng, đáp:
– Phải, chúng ta chỉ hơn người có chỗ ấy. Việc văn đi việc văn, mà tình bạn vẫn là tình bạn, không bao giờ chúng ta thù hằn nhau nhỏ nhen. Nhưng mời các ông nhổ rễ lên thôi chứ. Các ông triết lý với nhau mãi, thì lỡ mất tàu.
Ba anh em đứng dậy. Lê nhìn Trần, hỏi:
– Mày cũng đi đầu truồng như chúng tao thôi à?
Trần mỉm cười, vuốt tóc, rồi gật.
– Vừa kinh tế, vừa đúng mốt, tội gì không theo thời!
***
Ba nhà văn đến bến ô-tô. Lúc ấy, xe đã chật như nêm cối. Lê bị xếp lên lòng một ông cụ. Vũ bé nhỏ, ghé một tí vào cái thành đệm. Trần, chủ tịch cuộc trả tiền, bằng lòng đứng lỏng lẻo ở bục ngoài. Không ai thèm nhìn lại cảnh xán lạn vui tươi của Hà Thành hoa lê đương tấp nập vì tết.
Chiếc xe nhô lên, thụp xuống trên đường trái đá đã về già tung ra những tiếng còi khàn khàn, nhưng tiếng máy phành phạch và những tiếng kêu oai oái. Bụi như mây. Mùi dầu xăng khét lẹt.
Đi độ nửa giờ, xe đỗ lại. Ba anh em xuống, giũ quần áo rồi rẽ về phía làng.
Những cây tầm xuân dại đầy hoa, nhuộm trắng hai bê đường cỏ xanh rì. Ruộng tồng màu, xen vẻ xanh tươi của rau diếp tây với vẻ xanh mốc của rau cải bắp.
Luống khoai lang tím làm nổi bật dãy cải hoa vàng.
Cảnh tết ở nhà quê kín đáo hơn thành phố. Những cây nêu dựng lên la hệt, loè xoè cụm lông gà, phấp phới ngọn cờ đỏ, và lanh lảnh chùm cá khánh. Người ta sửa soạn tết bằng những mảnh giấy đỏ mới, dán ở cột hiên, những bàn cờ, cánh cung, hình vuông tròn, vẽ la liệt bằng vôi bột trắng xoá trên sân gạch màu gan gà.
Chợt nghĩ ra, Lê nói:
– Chả biết Nguyễn nó có về không. Tao chỉ sợ nó ăn tết ở ngoài ấy, thì rồi ai khênh chúng mình về Hà Nội?
– Thế nào nó chả về. Và ít ra nó cũng nhiều tiền hơn bọn mình. Vả nó chả chịu an trí ở ngoài đảo ấy đâu.
– Đành vậy, nhưng nó có đủ thì giờ mà về được đến nhà ăn tết hay không?
Vũ cau mày:
– Được đến đâu hay đến đó. Chúng mình đi đâu mà chết đói được. Nó không có nhà, đã có anh em nó tiếp chúng tao. Vả nếu không gặp ai, chúng mình cứ vào bừa một nhà nào đó, chẳng lẽ người ta nỡ hắt hủi ba nhà đại văn hào à?
Lê khen:
– Mày khá đấy. Chắc là nếu không ặp nó, mày sẽ cõng anh em tao về Hà Nội.
Ba anh em đắc chí, phá ra những chuỗi cười giòn tan.
***
Lúc ấy, Nguyễn đang ngồi xổm trên hè. Chừng buồn quá không biết làm gì để giải trí cả. Bỗng thấy ba bạn ở cổng bước vào. Nguyễn mừng như bắt được của, vội chạy ra đón. Anh đứng khuỳnh tay như ông tướng, hất hàm, hỏi:
– Ai đưa cái chú đến nhà anh?
Vũ nói:
– Cái nghèo của nhà văn nó đưa các cụ lớn đến, chứ ai? Các cụ lớn đã ra nghị định đến báo cô tên tiểu thuyết Nguyễn cái tết. Không ai có thể trái lệnh!
Lê ngắt lời:
– Chúng tao hết cả tiền, không biết ăn tết bằng cái gì được, mới rủ nhau đến sát mày một mẻ.
Nguyễn cau mặt:
– Tao tưởng chúng bay đến chơi với tao, thì tao mới tiếp. Chứ chúng bay đến chơi với cái bánh chưng nhà tao thì tao tống cổ bây giờ. Chúng bay kém quá. Chúng bay còn nghĩ đến Tết, không trách chúng bay khổ một đời. Tao đây lúc nào viết xong cuốn sách, ấy là cái tết của tao đấy. Thành thử mỗi năm, tao hưởng ba bốn cái tết. Còn như cái năm nó hết, thì mặc kệ nó, can gì đến mình mà mình cũng nhắng nhít lên?
– Nhưng thấy thiên hạ họ náo nức về tết, tự nhiên trong mình nó cứ thế nào ấy.
– Tao ước gì người ta cứ vứt hết lịch đi, không ai biết ngày nào tháng nào nữa. Để cho những bọn ngu như chúng bay khỏi làm tao bực mình.
– Thế thì mày nói rõ ngay rằng mày cũng đếch có đồng tiền nào để ăn tết, nghĩa là mày không hơn gì chúng tao, có dễ hiểu hơn không?
Nguyễn đánh vào vai Lê, gật gù khen:
– Thằng này bao giờ cũng ranh mãnh nhất.
Nguyễn rủ các bạn vào trong nhà, mở ngăn kéo ra, lấy hai bức thư:
– Tao còn nguy hơn chúng mày. Chúng mày tuy kiết, nhưng không nợ. Tao bị nợ mới tai ác chứ. Đây, hai thằng chủ nợ nó gửi thư cho tao.
– Chúng tao tưởng một có lương của nhà nước, lại có những tác phẩm xuất bản luôn luôn, thì mát mặt hơn chúng tao mới phải.
– Đành vậy, nhưng nếu tao không làm văn sĩ, có lẽ tao giàu to rồi, không biết chừng. Đằng này, tuy có tiền nọ tiền kia, mà tao cứ lúng túng thế nào ấy. Thì ra tao mới nghiệm ra rằng đã là cái kiếp nhà văn, chả đứa nào thoát được sự long đong. Đến tao mà còn sống xo sống giụi như thế này, nữa là chúng bay. Phâi đã là văn sĩ, tất phải kiết, nếu không kiết, sao gọi là văn sĩ?
– Nhưng hai đứa nó thúc nợ mày? Coi không khéo tám hôm nữa, hẹn hết, chúng tao lại tiễn mày vào hoả lò nhé.
Nguyễn lắc đầu:
– Không sợ. Chúng nó doạ nếu trong tám hôm, tao không trả được nợ, chúng nó sẽ kiện. Nhưng tao cứng hơn, đã trả lời thách lại rằng trong mười lăm hôm, đứa nào không kiện tao, thì tao trả tử tế, nhược bằng kiện, thì tao sẽ ỳ ra cho mà biết tay. Nghĩa là, có anh hùng gì đâu tao làm kế hoãn binh, để thì giờ cho vợ tao đi xoay chỗ khấc.
Trần giơ nắm tay doạ vào mặt Nguyễn:
– Mày dại như con cầy? Nhận được thư thằng chủ nợ, sao mày không xé mẹ nó đi, còn đọc làm đếch gì cho phải bận tâm? Một là nó chửi mày, hai là nó doạ bỏ tù mày, chứ có đời nào nó lạy van mày để xin xi xoá nợ cho mày đâu?
Bốn anh em lại rũ ra mà cười. Lê nói:
– Cho nên lắm lúc nghĩ đến nghề cầm bút, tao đâm ra cáu kỉnh. Vì lợi ích chung, mình phải nạo đầu nạo óc. Thế mà mình cứ bị người ta nghi kỵ, khinh miệt, chèn ép. Người ta muốn mình nghèo kiết suốt đời để chán mà bỏ nghề.
Nguyên cau mặt:
– Thế thì mày phải cáu với bọn mà mày gọi là người ta ấy. Còn với nghề, mày phải yêu quí, tự hào. Nghề của mình là nghề cao thượng nhất, vì nó thật thà nhất. Bởi vì giá trị của mình ở mức nào, thì nó thể hiện ngay tới mức ấy bằng giấy trắng mực đen. Ai muốn nâng nó lên, hay muốn dìm nó xuống, đời cũng không nghe. Mình không như những đứa làm bất cứ nghề gì khác ở xã hội này. Ở xã hội này, họ không cần giỏi nghề bằng giỏi khen rắm quan thơm, và giỏi nói dối với nói phét. Để họ được ăn không ăn hỏng danh lợi quan ban cho họ.
Bỗng Trần cười khanh khách:
– Ừ nhỉ. May mà làng văn mình chưa có quan. Chứ tao tưởng tượng giá làng văn mà nảy sinh ra hạng cụ lớn hạng quan lớn, thì tất phải đẻ ra lũ nha lại, tổng lý, lính tráng, thì sẽ có vô thiên lủng những cái quái thai mót cười! Này thơ ca tán tụng, nào phê bình nịnh hót. Rồi những truyện ngắn, truyện dài trào phúng tha hồ mà chua chát…
Không để bạn nói hết câu, Vũ đập vào vai Nguyễn:
– Đúng là mày còn nhiều tướng tinh nghèo kiết, Nguyễn ạ. Thôi, nhưng mà không bàn luận suông cho mất thì giờ. Tao hỏi mày một câu ngắn thôi. Có phải tết này mày cũng nhịn như chúng tao phải không?
Nguyễn cười mỉm, gật đầu:
– Ý thế. Nhưng tao còn đủ tiền nuôi chúng bay trong những ngày tao còn được nghỉ ở nhà.
– Chúng tao định ở đây đến mồng bốn.
– Được chẳng định thế, thì đến hôm ấy, tao cũng tống cổ. Vì mồng năm, tao phải cuốn gói lên đường.
– Nhưng mày cho chúng tao ăn tết bằng gì?
– Thì tao đã bảo, tao chẳng có gì cả. Tao chỉ sẵn giường sẵn chăn, cho chúng bay ăn tết bằng những giấc ngủ ngon lành.
Lê gật:
– Thế cũng đủ an nhàn rồi.
– Và nói những chuyện văn chương.
– Thế thì càng vui. Bởi vì chúng ta là những nhà đại văn hào, chúng ta không cần gì hết.
***
Sáng mồng một đầu năm. Từ mờ sáng đến lúc tám chín giờ dần dần, nhà nào cũng lẹt đẹt một bánh pháo ngắn để đón xuân. Duy nhà Nguyễn, vẫn cửa đóng then cài im ỉm.
Vợ Nguyễn đi lo xoay món nợ khẩn chưa về. Mà bốn vị đại văn hào, vì đêm trước thức khuya, nên vẫn còn ngủ say như chết.
Trong bóng tối của gian nhà, hai bộ ghế ngựa mới kê giáp nhau, bốn thân hình nằm lù lù như bốn cái mả.
Cạnh đó, là cái bàn, trên để những bản thảo, hoặc sách đã in. Đia chén ngổn ngang, cáu những ngấn chè đặc.
Bỗng tràng pháo điện quang của bên hàng xóm nổ, bắn những tiếng xé màng tai, làm Trần tỉnh giấc. Trần cựa. Rồi lại nằm im. Nhưng lẹt đẹt một lượt nữa, anh không thể ngủ thêm được. Anh ngáp, khục tay, ngẩng dậy nhìn các khe cửa, rồi với ở trên bàn, lấy bản thảo cuốn NGƯỜI ĐÀN BÀ.
Trần mở sách, ghé ra ánh sáng khe cửa để đọc. Thấy Nguyễn cựa, anh lay vai hỏi:
– Không ngủ nữa à? Này, thật đấy, mày nói phải đấy, nước Nam mình không hiếm gì nhân tài đâu. Duy chỉ vì cái nghèo làm hại, không cho cái tài nó nảy nở ra được.
Và còn những sức đè nén khác làm thui đi nữa.
(Bị xoá một đoạn bởi Ty kiểm duyệt của bọn thống trị Pháp)
Lê mơ màng, nghe các bạn nói chuyện thì chêm vào:
– Phải, đại khái như tao, một thức giả kiêm “ngủ giả” đại tài thế mà chúng mày cứ bô bô bên cạnh tai, khiến cho tài của tao không thể phát triển được.
Nguyễn đạp chân vào lưng Lê, nói:
– Dậy mà nghe tiếng pháo họ ăn tết, vui đáo để!
Trần vung hai cánh tay lên không, đáp:
– Ừ nhỉ, hôm nay mồng một. Ở Hà Nội tha hồ vui.
Bọn trưởng già thi nhau cái sang trọng, họ ăn uống chơi bời thật hả hê. Lúc này, quần áo nhan nhản ở phố, ngoài đường ô-tô như mắc cửi.
Một tràng pháo lại nổ liên thanh. Vũ nói:
– Sướng thật, vui thật, cảnh tết thật nên thơ.
Ngoài đường làng, người thì mặc quần áo mời, đội khăn mới, đi giày mới, người thì nhai trầu bỏm bẻm, thuốc lá phì phèo, sột soạt đi lễ tết nhà nhau. Các cô con gái thì yếm đỏ, thắt lưng tím, áo nâu non đổi vai lên chùa hái lộc. Họ gặp nhau, chúc nhau bằng những câu rất hoang phí.
Vũ cảm khái, nói:
– Cả nước Nam, mà có lẽ cả nước Tàu nữa, nghĩa là một góc địa cầu, đương vui vẻ về tết. Duy có bốn anh em mình phải nằm khàn, đắp chăn xù xù, chưa thèm dậy.
– Bởi vì chúng mình là những nhà đại văn hào. Chúng mình góp tâm trí chúng mình vào ho cái tết của họ được thêm vui. Thế là chúng ta cũng ăn tết, cái tết tinh thần.
– À, đánh thức thằng Lê đi, nó ngủ nhiều khiến mình phát ghen. Lại không đến chín mười giờ rồi à? Cá một phần địa cầu người ta tấp nập, mà nó còn như thằng chán đời.
Nguyễn lay Lê:
– Dậy, mồng một tết rồi! Mười giờ rồi? Dậy mà ăn cái tết tinh thần với đời!
Bị động mạnh, Lê cựa. Anh nhăn nhó cái mặt ngái ngủ, ngóc cổ lên, nhìn nhà cửa, nhìn bạn bè, nhìn xung quanh. Rồi không biết nghĩ thế nào, anh lại nằm xuống, kéo chăn kín gáy, đáp:
– ăn cái tết tinh thần là ăn cái cóc khô gì, chúng mày?
2-1940
Lê sực nghĩ ra một ý. Anh vội vàng tung chăn, vùng dậy. Anh rửa mặt mũi, mặc quần áo, vừa huýt sáo rầm nhà, vừa xếp lại những chồng báo bầy la liệt trên ván gác. Anh cuộn bản thảo cuốn tiểu thuyết PHÁ SẢN vừa viết xong được hai hôm.
Anh vui vẻ đứng nhìn xung quanh. Căn gác ấy không còn bày đồ đạc gì để phải dọn thêm nữa. Anh cúi xuống, cuộn chiếc chiếu nằm giải ở mặt sàn, rồi cắp cuốn văn vào nách.
Bỗng tiếng giày rầm rộ ở cầu thang làm Lê nhìn ra.
Chưa thấy người, anh đã nghe tiếng hỏi:
– Lê đã dậy chưa, mày?
Nhận ra tiếng Vũ, Lê mừng rỡ, đáp:
– Tao sắp đi đây.
Vũ đẩy cửa vào. Theo thói quen, không ai bắt tay ai. Vũ thấy bạn áo quần chỉnh tề, thì ngạc nhiên, hất hàm hỏi:
– Đi đâu?
– Tao đi Hà Đông, ăn tết với thằng Trần.
Vũ còng lưng, cười bò ra, nói:
– Thế thì đen tao. Tao định đến đây ăn tết với mày. Vì tao chẳng còn đồng xu nhỏ?
Lê vênh váo, đập tay vào túi:
– Tao còn những một hào. Thế thì tao là nhà văn có giá trị hơn mày.
Vũ giơ cánh tay phải, cúi gập lưng, chào một cách cưng kính:
– Phục ngài lắm? Chừng thằng Trần viết giấy mời ngài vào với nó? Nó có tiền nhuận bút của bài viết cho số báo tết hay vừa lấy tiền bản quyển cuốn kịch ĐOẠ ĐẦY.
Lê lắc đầu:
– Nó kiết hay có tiền, cái đó tao không cần biết. Nhưng tao đoán ít ra túi nó cũng có từ hào mốt trở lê, nghĩa giàu hơn tao.
Vũ ngăn:
– Nhưng tao định đến đây ghẹ mày cái tết, mày nghĩ sao? Tao chẳng còn lấy một trinh Bảo Đại. Cái món tiền bán đứt cuốn thơ MƠ MÀNG, tao lấy tháng trước chúng mày xâu xé hết nhẵn cả rồi.
– Thế thì về Hà Đông với tao.
– Nhưng mày mượn cái bồ, nhét tao vào, giả vờ làm bồ hàng, chứ chả lẽ mày đi xe, tao đi bộ à?
– Không cần, hãy chịu khó cuốc xuống Thái Hà, rồi hãy diện xe điện.
***
Đôi bạn hăm hở đi. Trời quang tạnh. Gió lạnh rít qua tai. Rét như cắt. Phố xá ngày ba mươi tết, ngổn ngang về người với xe. Chiếc cao-su lù lù hoa cúc vàng, và ngất nghểu cành đào phớt, chạy ì ạch về phía ga.
Ông nhà quê, nách cắp bánh pháo, câu đối, đầu ngón tay lủng lẳng củ thuỷ tiên hàm tiếu, dừng chân lại, ngắm cái khăn xếp bày trong tủ kính. Các bà ở chợ về, ôm thúng đậu hoà lan, bong bóng, tay còn xách con gà thiến nặng trĩu. Những cậu nhỏ, quần xắn đến bẹn, dội uôm uôm từng thùng nước vào ván cửa để cọ, bất chấp cả người đi trên hè. Một vài thằng nhãi, nén hương cầm tay, nắm pháo trong túi, thi thoảng lại đốt đánh đẹt làm anh phu xe giật nảy mình.
Lê và Vũ xoạc thật dài cẳng, nện gót giày xuống vỉa hè cồm cộp, đi như lính ra trận. Bỗng Vũ vê hai ngón tay, hỏi:
– Mày còn thuốc lá không?
Lê mỉm mép:
– Tao cũng sắp hỏi mày câu ấy.
Tiếng cười tung ra, làm ngoái cổ cả những cô tiểu thư xinh nhất và lười nhất trần đời, thẳng tay cầm một tập những sách tết và báo tết.
– Này, Vũ, chúng nó sắm tết như chửi vào mặt chúng mình vậy.
– Kệ.
(Bị xoá một đoạn bởi Ty kiểm duyệt của bọn thống trị Pháp)
– Tao hận nghề lắm, lúc nào cũng nghèo xơ nghèo xác. Trông bọn văn sĩ, thăng nào cũng gầy như con mắm. Thế mà độc giả, nhất là các cô kia, họ tưởng mình ghê gớm như thần như thánh!
– Chẳng hơn những thằng làm nghề khác à? Có ai thèm đếm xỉa đến chúng nó.
– Mà bạn bè đứa nào cũng một tuồng như mình. Động hở ra đồng nào là xúm nhau lại phá cho kỳ hết.
– Còn hơn những thằng nhà giàu, bọn mình có ai thèm bạn với đấy? Mày phải tự kiêu ở chỗ nghèo. Cái nghèo của nhà văn là cái nghèo thanh cao, cái nghèo đáng trọng, cái nghèo phải ghi vào lịch sử văn học của thế giới. Chúng ta nghèo, vì có bao nhiêu ở trong tim trong óc, chúng ta trút cả ra để làm giàu cho tim óc thiên hạ.
Lê nắm tay bạn, thụi rõ mạnh vào vai:
– Tao chúa ghét những loài thi sĩ như mày. Chỉ biết sống mơ mộng. Mày phải nhớ rằng hiện giờ này, mày không dính một trinh trong túi, ba mươi tết, mày mò đến nhà tao, định ăn phò tao cái tết, rồi mày với tao phải lần đến nhà thằng Trần. Có đúng thế không?
– Nhưng văn học sử ngày sau, người ta nói đến tên nhà tiểu thuyết Lê, nhà thi sĩ Vũ, nhà kịch sĩ Trần, vân vân… Chúng ta sẽ bất tử.
(Bị xoá một đoạn bởi Ty kiểm duyệt của bọn thống trị Pháp)
– Mày nói câu ấy, tỏ ra mày khá thông minh. Nghĩa là sau khi chết, nhà văn còn bất tử, và chỉ bấy giờ nhà văn mới bình tĩnh được sống vẻ vang hơn vua chúa vì nhà văn không phải lo cơm áo nữa!
***
Chẳng mấy chốc, hai anh em đã đứng ở trước cửa chùa Đồng Quang, chờ xe điện vào Hà Đông.
Để mặc Lê và Vũ xem cuốn kịch của mình mới viết xong, Trần nhìn làn khói thuốc lá cuồn cuộn, yên lặng nghĩ ngợi. Bỗng anh vỗ tay cười, và tuyên bố:
– Không cần, tao nghĩ ra rồi. Đồng bạc của tao để làm tiền hành lý, chúng ta kéo đến nhà thằng Nguyễn. Mấy năm nay, nó in nhiều sịch, thế nào cũng rộng tiền hơn chúng ta.
Lê đứng phắt dậy:
– Ừ phải đấy, có cái kho tiền ấy mà tao quên béng đi mất. Nó vừa bán sức cho nhà nước, vừa bán văn cho nhà xuất bản, thì làm gì nó không giàu.
Vũ ngậm ngùi, lắc đầu:
– Tao không muốn đến nhà thằng Nguyễn, vì cuộc bút chiến giữa nó với tao chưa kết thúc. Sợ cuộc gặp gỡ mất vui.
Lê cười:
– Thế ra mày thông minh hơn tao thật? Mày phải hiểu mày với thằng Nguyễn, mà cả làng văn chúng ta nữa, nhiều khi chính kiến, tư tưởng không gặp nhau, nhưng gặp nhau ở chỗ nghèo kiết. Mày không nhớ năm ngoái, thằng Trần với tao bút chiến trên báo, chắc người ngoài tưởng hai đứa có thể ìm dao đâm chém nhau được, nhưng chính trong thời kỳ cãi nhau kịch liệt ấy nó với tao vẫn ở chung với nhau một nhà?
Trần sung sướng, đáp:
– Phải, chúng ta chỉ hơn người có chỗ ấy. Việc văn đi việc văn, mà tình bạn vẫn là tình bạn, không bao giờ chúng ta thù hằn nhau nhỏ nhen. Nhưng mời các ông nhổ rễ lên thôi chứ. Các ông triết lý với nhau mãi, thì lỡ mất tàu.
Ba anh em đứng dậy. Lê nhìn Trần, hỏi:
– Mày cũng đi đầu truồng như chúng tao thôi à?
Trần mỉm cười, vuốt tóc, rồi gật.
– Vừa kinh tế, vừa đúng mốt, tội gì không theo thời!
***
Ba nhà văn đến bến ô-tô. Lúc ấy, xe đã chật như nêm cối. Lê bị xếp lên lòng một ông cụ. Vũ bé nhỏ, ghé một tí vào cái thành đệm. Trần, chủ tịch cuộc trả tiền, bằng lòng đứng lỏng lẻo ở bục ngoài. Không ai thèm nhìn lại cảnh xán lạn vui tươi của Hà Thành hoa lê đương tấp nập vì tết.
Chiếc xe nhô lên, thụp xuống trên đường trái đá đã về già tung ra những tiếng còi khàn khàn, nhưng tiếng máy phành phạch và những tiếng kêu oai oái. Bụi như mây. Mùi dầu xăng khét lẹt.
Đi độ nửa giờ, xe đỗ lại. Ba anh em xuống, giũ quần áo rồi rẽ về phía làng.
Những cây tầm xuân dại đầy hoa, nhuộm trắng hai bê đường cỏ xanh rì. Ruộng tồng màu, xen vẻ xanh tươi của rau diếp tây với vẻ xanh mốc của rau cải bắp.
Luống khoai lang tím làm nổi bật dãy cải hoa vàng.
Cảnh tết ở nhà quê kín đáo hơn thành phố. Những cây nêu dựng lên la hệt, loè xoè cụm lông gà, phấp phới ngọn cờ đỏ, và lanh lảnh chùm cá khánh. Người ta sửa soạn tết bằng những mảnh giấy đỏ mới, dán ở cột hiên, những bàn cờ, cánh cung, hình vuông tròn, vẽ la liệt bằng vôi bột trắng xoá trên sân gạch màu gan gà.
Chợt nghĩ ra, Lê nói:
– Chả biết Nguyễn nó có về không. Tao chỉ sợ nó ăn tết ở ngoài ấy, thì rồi ai khênh chúng mình về Hà Nội?
– Thế nào nó chả về. Và ít ra nó cũng nhiều tiền hơn bọn mình. Vả nó chả chịu an trí ở ngoài đảo ấy đâu.
– Đành vậy, nhưng nó có đủ thì giờ mà về được đến nhà ăn tết hay không?
Vũ cau mày:
– Được đến đâu hay đến đó. Chúng mình đi đâu mà chết đói được. Nó không có nhà, đã có anh em nó tiếp chúng tao. Vả nếu không gặp ai, chúng mình cứ vào bừa một nhà nào đó, chẳng lẽ người ta nỡ hắt hủi ba nhà đại văn hào à?
Lê khen:
– Mày khá đấy. Chắc là nếu không ặp nó, mày sẽ cõng anh em tao về Hà Nội.
Ba anh em đắc chí, phá ra những chuỗi cười giòn tan.
***
Lúc ấy, Nguyễn đang ngồi xổm trên hè. Chừng buồn quá không biết làm gì để giải trí cả. Bỗng thấy ba bạn ở cổng bước vào. Nguyễn mừng như bắt được của, vội chạy ra đón. Anh đứng khuỳnh tay như ông tướng, hất hàm, hỏi:
– Ai đưa cái chú đến nhà anh?
Vũ nói:
– Cái nghèo của nhà văn nó đưa các cụ lớn đến, chứ ai? Các cụ lớn đã ra nghị định đến báo cô tên tiểu thuyết Nguyễn cái tết. Không ai có thể trái lệnh!
Lê ngắt lời:
– Chúng tao hết cả tiền, không biết ăn tết bằng cái gì được, mới rủ nhau đến sát mày một mẻ.
Nguyễn cau mặt:
– Tao tưởng chúng bay đến chơi với tao, thì tao mới tiếp. Chứ chúng bay đến chơi với cái bánh chưng nhà tao thì tao tống cổ bây giờ. Chúng bay kém quá. Chúng bay còn nghĩ đến Tết, không trách chúng bay khổ một đời. Tao đây lúc nào viết xong cuốn sách, ấy là cái tết của tao đấy. Thành thử mỗi năm, tao hưởng ba bốn cái tết. Còn như cái năm nó hết, thì mặc kệ nó, can gì đến mình mà mình cũng nhắng nhít lên?
– Nhưng thấy thiên hạ họ náo nức về tết, tự nhiên trong mình nó cứ thế nào ấy.
– Tao ước gì người ta cứ vứt hết lịch đi, không ai biết ngày nào tháng nào nữa. Để cho những bọn ngu như chúng bay khỏi làm tao bực mình.
– Thế thì mày nói rõ ngay rằng mày cũng đếch có đồng tiền nào để ăn tết, nghĩa là mày không hơn gì chúng tao, có dễ hiểu hơn không?
Nguyễn đánh vào vai Lê, gật gù khen:
– Thằng này bao giờ cũng ranh mãnh nhất.
Nguyễn rủ các bạn vào trong nhà, mở ngăn kéo ra, lấy hai bức thư:
– Tao còn nguy hơn chúng mày. Chúng mày tuy kiết, nhưng không nợ. Tao bị nợ mới tai ác chứ. Đây, hai thằng chủ nợ nó gửi thư cho tao.
– Chúng tao tưởng một có lương của nhà nước, lại có những tác phẩm xuất bản luôn luôn, thì mát mặt hơn chúng tao mới phải.
– Đành vậy, nhưng nếu tao không làm văn sĩ, có lẽ tao giàu to rồi, không biết chừng. Đằng này, tuy có tiền nọ tiền kia, mà tao cứ lúng túng thế nào ấy. Thì ra tao mới nghiệm ra rằng đã là cái kiếp nhà văn, chả đứa nào thoát được sự long đong. Đến tao mà còn sống xo sống giụi như thế này, nữa là chúng bay. Phâi đã là văn sĩ, tất phải kiết, nếu không kiết, sao gọi là văn sĩ?
– Nhưng hai đứa nó thúc nợ mày? Coi không khéo tám hôm nữa, hẹn hết, chúng tao lại tiễn mày vào hoả lò nhé.
Nguyễn lắc đầu:
– Không sợ. Chúng nó doạ nếu trong tám hôm, tao không trả được nợ, chúng nó sẽ kiện. Nhưng tao cứng hơn, đã trả lời thách lại rằng trong mười lăm hôm, đứa nào không kiện tao, thì tao trả tử tế, nhược bằng kiện, thì tao sẽ ỳ ra cho mà biết tay. Nghĩa là, có anh hùng gì đâu tao làm kế hoãn binh, để thì giờ cho vợ tao đi xoay chỗ khấc.
Trần giơ nắm tay doạ vào mặt Nguyễn:
– Mày dại như con cầy? Nhận được thư thằng chủ nợ, sao mày không xé mẹ nó đi, còn đọc làm đếch gì cho phải bận tâm? Một là nó chửi mày, hai là nó doạ bỏ tù mày, chứ có đời nào nó lạy van mày để xin xi xoá nợ cho mày đâu?
Bốn anh em lại rũ ra mà cười. Lê nói:
– Cho nên lắm lúc nghĩ đến nghề cầm bút, tao đâm ra cáu kỉnh. Vì lợi ích chung, mình phải nạo đầu nạo óc. Thế mà mình cứ bị người ta nghi kỵ, khinh miệt, chèn ép. Người ta muốn mình nghèo kiết suốt đời để chán mà bỏ nghề.
Nguyên cau mặt:
– Thế thì mày phải cáu với bọn mà mày gọi là người ta ấy. Còn với nghề, mày phải yêu quí, tự hào. Nghề của mình là nghề cao thượng nhất, vì nó thật thà nhất. Bởi vì giá trị của mình ở mức nào, thì nó thể hiện ngay tới mức ấy bằng giấy trắng mực đen. Ai muốn nâng nó lên, hay muốn dìm nó xuống, đời cũng không nghe. Mình không như những đứa làm bất cứ nghề gì khác ở xã hội này. Ở xã hội này, họ không cần giỏi nghề bằng giỏi khen rắm quan thơm, và giỏi nói dối với nói phét. Để họ được ăn không ăn hỏng danh lợi quan ban cho họ.
Bỗng Trần cười khanh khách:
– Ừ nhỉ. May mà làng văn mình chưa có quan. Chứ tao tưởng tượng giá làng văn mà nảy sinh ra hạng cụ lớn hạng quan lớn, thì tất phải đẻ ra lũ nha lại, tổng lý, lính tráng, thì sẽ có vô thiên lủng những cái quái thai mót cười! Này thơ ca tán tụng, nào phê bình nịnh hót. Rồi những truyện ngắn, truyện dài trào phúng tha hồ mà chua chát…
Không để bạn nói hết câu, Vũ đập vào vai Nguyễn:
– Đúng là mày còn nhiều tướng tinh nghèo kiết, Nguyễn ạ. Thôi, nhưng mà không bàn luận suông cho mất thì giờ. Tao hỏi mày một câu ngắn thôi. Có phải tết này mày cũng nhịn như chúng tao phải không?
Nguyễn cười mỉm, gật đầu:
– Ý thế. Nhưng tao còn đủ tiền nuôi chúng bay trong những ngày tao còn được nghỉ ở nhà.
– Chúng tao định ở đây đến mồng bốn.
– Được chẳng định thế, thì đến hôm ấy, tao cũng tống cổ. Vì mồng năm, tao phải cuốn gói lên đường.
– Nhưng mày cho chúng tao ăn tết bằng gì?
– Thì tao đã bảo, tao chẳng có gì cả. Tao chỉ sẵn giường sẵn chăn, cho chúng bay ăn tết bằng những giấc ngủ ngon lành.
Lê gật:
– Thế cũng đủ an nhàn rồi.
– Và nói những chuyện văn chương.
– Thế thì càng vui. Bởi vì chúng ta là những nhà đại văn hào, chúng ta không cần gì hết.
***
Sáng mồng một đầu năm. Từ mờ sáng đến lúc tám chín giờ dần dần, nhà nào cũng lẹt đẹt một bánh pháo ngắn để đón xuân. Duy nhà Nguyễn, vẫn cửa đóng then cài im ỉm.
Vợ Nguyễn đi lo xoay món nợ khẩn chưa về. Mà bốn vị đại văn hào, vì đêm trước thức khuya, nên vẫn còn ngủ say như chết.
Trong bóng tối của gian nhà, hai bộ ghế ngựa mới kê giáp nhau, bốn thân hình nằm lù lù như bốn cái mả.
Cạnh đó, là cái bàn, trên để những bản thảo, hoặc sách đã in. Đia chén ngổn ngang, cáu những ngấn chè đặc.
Bỗng tràng pháo điện quang của bên hàng xóm nổ, bắn những tiếng xé màng tai, làm Trần tỉnh giấc. Trần cựa. Rồi lại nằm im. Nhưng lẹt đẹt một lượt nữa, anh không thể ngủ thêm được. Anh ngáp, khục tay, ngẩng dậy nhìn các khe cửa, rồi với ở trên bàn, lấy bản thảo cuốn NGƯỜI ĐÀN BÀ.
Trần mở sách, ghé ra ánh sáng khe cửa để đọc. Thấy Nguyễn cựa, anh lay vai hỏi:
– Không ngủ nữa à? Này, thật đấy, mày nói phải đấy, nước Nam mình không hiếm gì nhân tài đâu. Duy chỉ vì cái nghèo làm hại, không cho cái tài nó nảy nở ra được.
Và còn những sức đè nén khác làm thui đi nữa.
(Bị xoá một đoạn bởi Ty kiểm duyệt của bọn thống trị Pháp)
Lê mơ màng, nghe các bạn nói chuyện thì chêm vào:
– Phải, đại khái như tao, một thức giả kiêm “ngủ giả” đại tài thế mà chúng mày cứ bô bô bên cạnh tai, khiến cho tài của tao không thể phát triển được.
Nguyễn đạp chân vào lưng Lê, nói:
– Dậy mà nghe tiếng pháo họ ăn tết, vui đáo để!
Trần vung hai cánh tay lên không, đáp:
– Ừ nhỉ, hôm nay mồng một. Ở Hà Nội tha hồ vui.
Bọn trưởng già thi nhau cái sang trọng, họ ăn uống chơi bời thật hả hê. Lúc này, quần áo nhan nhản ở phố, ngoài đường ô-tô như mắc cửi.
Một tràng pháo lại nổ liên thanh. Vũ nói:
– Sướng thật, vui thật, cảnh tết thật nên thơ.
Ngoài đường làng, người thì mặc quần áo mời, đội khăn mới, đi giày mới, người thì nhai trầu bỏm bẻm, thuốc lá phì phèo, sột soạt đi lễ tết nhà nhau. Các cô con gái thì yếm đỏ, thắt lưng tím, áo nâu non đổi vai lên chùa hái lộc. Họ gặp nhau, chúc nhau bằng những câu rất hoang phí.
Vũ cảm khái, nói:
– Cả nước Nam, mà có lẽ cả nước Tàu nữa, nghĩa là một góc địa cầu, đương vui vẻ về tết. Duy có bốn anh em mình phải nằm khàn, đắp chăn xù xù, chưa thèm dậy.
– Bởi vì chúng mình là những nhà đại văn hào. Chúng mình góp tâm trí chúng mình vào ho cái tết của họ được thêm vui. Thế là chúng ta cũng ăn tết, cái tết tinh thần.
– À, đánh thức thằng Lê đi, nó ngủ nhiều khiến mình phát ghen. Lại không đến chín mười giờ rồi à? Cá một phần địa cầu người ta tấp nập, mà nó còn như thằng chán đời.
Nguyễn lay Lê:
– Dậy, mồng một tết rồi! Mười giờ rồi? Dậy mà ăn cái tết tinh thần với đời!
Bị động mạnh, Lê cựa. Anh nhăn nhó cái mặt ngái ngủ, ngóc cổ lên, nhìn nhà cửa, nhìn bạn bè, nhìn xung quanh. Rồi không biết nghĩ thế nào, anh lại nằm xuống, kéo chăn kín gáy, đáp:
– ăn cái tết tinh thần là ăn cái cóc khô gì, chúng mày?
2-1940