Tôi ngồi im lặng, tay ôm đầu khi chiếc tàu cao tốc trên không đưa tôi đi xuyên qua Tokyo, dưới bầu trời xanh vợi, giữa những tấm biển quảng cáo bằng đèn neon, những tòa nhà cao tầng màu vàng trắng lấp lánh, giữa cái ồn ào náo nhiệt của thành phố. Tôi ngây nhìn những tòa công sở mười tầng với những cô thư ký mặc áo sơ mi tề chỉnh, đi tất da chân đang nhìn lại tôi qua cửa sổ. Đôi khi, Sử Trùng Minh đòi hỏi ở tôi quá nhiều. Đôi khi, ông ta làm tôi đau đầu. Tới Shinjuku, đoàn tàu đi ngang qua một tòa nhà cao tầng với hàng trăm màn hình tivi đưa hình ảnh một người đàn ông trong bộ vest tuxedo màu vàng đang hát trước camera. Tôi ngây người nhìn ông ta một lúc. Rồi tôi nhận ra.
Bison?
Tôi đứng dậy, đi về phía cửa sổ và nhìn lên tòa nhà. Chính là ông ta, một Bison trẻ trung và mảnh mai hơn người mà tôi đã biết, ông ta đang hát, đầu nghiêng nghiêng, tay giơ về phía camera, hình ảnh của ông ta được phát đi phát lại, hàng trăm lần, rồi các màn hình được nhân lên cho tới khi cả tòa nhà được bao bọc bởi hình ảnh của ông ta. Dưới mỗi màn hình phía bên trái đều có logo của hãng truyền hình NHK. Bản tin thời sự. Bison xuất hiện trong bản tin thời sự. Ngay khi đoàn tàu sắp đi qua khỏi tòa nhà chọc trời, khuôn mặt ông ta trên màn hình được thay thế bằng hình ảnh một chiếc xe cảnh sát đỗ ngoài một ngôi nhà ở Tokyo. Cảnh sát. Tôi tì tay vào cửa sổ, cố ngoái lại nhìn tòa nhà cao tầng đang biến mất phía sau. Hơi thở của tôi phả mờ tấm kính trước mặt. Bison? Tại sao ông lại xuất hiện trên bản tin?
Khi tôi về tới nhà thì trời đã tới nhưng cả ngôi nhà chẳng có đèn đóm gì trừ chỗ cầu thang lên xuống. Svetlana đang đứng bên ngoài nhìn chằm chằm vào cái gì đó trên mặt đất, sau lưng cửa mở toang. Cô ấy đi một đôi ủng cao, một chiếc áo khoác lông mịn màu hồng dài tới gối, tay ôm một túi quần áo bỏ đi.
“Cô có xem tin tức không?” Tôi hỏi. “Cô có xem vô tuyến không?”
“Tivi muỗi lắm.”
“Cái gì cơ?”
“Nhìn đây này.”
Đám cây leo, cây bụi bao quanh ngôi nhà bị giẫm đạp tả tơi. Có thể mụ Y Tá và tên chimpira đã đứng đây theo dõi chúng tôi qua cửa sổ. Svetlana lấy mũi ủng màu hồng gạt một đám cây bụi ra và chỉ vào một con mèo nằm chết cạnh đó, cái đầu nát bét của nó còn nguyên dấu vết của đế giày. “Suka, đúng là đồ chó cái. Chỉ là một con mèo nhỏ thôi mà. Đâu có gì nguy hiểm.” Svetlana lẩm bẩm, ném túi rác ra vệ đường rồi leo lên gác. “Đồ chó cái.”
Tôi đi theo cô ấy lên nhà, đột nhiên rùng mình. Đống bóng đèn vỡ và vài mảnh vụn từ những chiếc cửa bị đạp thủng vẫn lăn lóc trên sàn. Tôi nhìn hành lang im ắng vẻ đề phòng.
“Cô có xem tin tức không?” Tôi hỏi lại và bước vào phòng khách. “Vô tuyến vẫn xem được chứ?” Chiếc tivi bị hất đổ kềnh sang một bên, nhưng nó vẫn hoạt động khi tôi đặt nó lại ngay ngắn và thử bật lên. “Baisan vừa xuất hiện trên vô tuyến.” Tôi cúi xuống chiếc tivi và ấn nút chuyển kênh. Chỉ có hoạt hình, quảng cáo đồ uống tăng lực, những cô gái mặc bikini. Cả những con sóc hoạt hình nhảy múa. Nhưng không có tin gì về Bison. Tôi lại lướt qua tất cả các kênh một lần nữa, bắt đầu thấy sốt ruột. “Đã xảy ra chuyện gì đó. Tôi vừa thấy ông ta hai mươi phút trước đây. Thế cô không xem…” Tôi ngoái lại nhìn. Svetlana đứng im lặng, khoanh tay bên ngưỡng cửa. Tôi đứng thẳng người dậy. “Có chuyện gì vậy?”
“Chúng tôi chuyển ra ngoài.” Cô ấy chỉ tay quanh căn phòng. “Nhìn xem.”
Những chiếc túi du lịch Matusya màu xám và trắng nhét đầy hành lý nằm la liệt khắp nơi. Tôi nhìn thấy những chiếc mắc áo, mấy cuộn giấy vệ sinh và một cái quạt sưởi thò ra ngoài. Trên ghế sofa là những túi nylon chật cứng quần áo. Tôi đã không để ý tới chúng. “Tôi và Irina. Chúng tôi đã tìm thấy một câu lạc bộ khác. Ở Hiroo.”
Và rồi Irina xuất hiện trong hành lang, kéo theo một kiện quần áo dán băng dính chằng chịt. Cô ấy cũng đã mặc áo khoác và tay cầm một điếu thuốc lá Nga nặng mùi. Cô ấy thả kiện quần áo xuống và lại đứng đằng sau Svetlana, tựa cằm lên vai cô chị và nhìn tôi vẻ rầu rĩ. “Một câu lạc bộ tốt.”
Tôi chớp mắt. “Các cô đang chuyển nhà à? Các cô sẽ sống ở đâu?”
“Cái căn hộ mà chúng tôi sẽ ở, cô gọi nó là gì nhỉ? Nó ở trên tầng thượng của câu lạc bộ?” Cô ấy chụm tay lại, hôn lên đầu ngón tay của mình rồi nói tiếp. “Cao cấp.”
“Nhưng bằng cách nào?” Tôi hỏi một cách ngây ngô. “Bằng cách nào mà các cô…”
“Do khách hàng của tôi giúp. Ông ấy sẽ đưa chúng tôi tới đó bây giờ.”
“Grey, đừng nói bất kỳ điều gì với ai nhé, được chứ? Đừng nói với Mama Strawberry là chúng tôi sẽ đi đâu, đừng nói gì với bất cứ cô gái nào, được không?”
“Được.”
Một chút ngập ngừng rồi Svetlana cúi người về phía tôi, đặt tay lên vai tôi và nhìn vào mắt tôi với một vẻ khiến tôi hơi hoảng sợ. “Nghe này, Grey, cô nên nói chuyện với anh ta.” Cô ấy hất đầu về phía phòng Jason lúc này vẫn đóng im ỉm. “Chuyện nghiêm trọng đấy.”
Irina gật đầu. “Anh ta bảo chúng tôi, ‘Đừng có nhìn tôi’, nhưng chúng tôi đã nhìn thấy anh ta.”
“Đúng, chúng tôi nhìn thấy anh ta cố gắng di chuyển, cố gắng… tiếng Anh gọi là gì nhỉ, bò lê? Bằng cả bốn chi, giống như con chó ấy? Gọi là bò à?”
“Bò à? Ý cô nói là anh ta phải bò đi?” Một linh cảm xấu chợt lan khắp người tôi.
“Đúng thế. Bò. Anh ta cố gắng bò.” Cô ấy trao cho Irina một cái nhìn bất an. “Grey, nghe này.” Cô liếm môi. “Chúng tôi nghĩ rằng đúng là anh ta cần phải gặp bác sĩ. Anh ta nói anh ta không cần, nhưng… Anh ta đã gặp phải chuyện gì đó tồi tệ. Chuyện gì đó rất tồi tệ.”
Hai cô gái đã đi, một chiếc xe Nissan màu trắng, có ghế bảo hiểm dành cho trẻ em ở băng sau, tới đón họ đi, lái xe là một người đàn ông mặt mũi trông căng thẳng. Họ đi rồi, căn nhà trở nên lạnh lẽo và hoang vắng như thể nó bị khóa lại vào mùa đông. Cánh cửa phòng Jason vẫn khép chặt, ánh sáng le lói hắt ra từ phía dưới bậu cửa, nhưng tuyệt nhiên không nghe thấy tiếng động gì. Tôi đứng đó, giơ tay lên định gõ, cố nghĩ xem mình sẽ phải nói gì. Một lúc sau, tôi vẫn không biết làm thế nào nên cứ gõ đại. Lúc đầu, không thấy ai trả lời. Khi tôi gõ thêm lần nữa thì nghe thấy một tiếng nghèn nghẹt: “Gì đấy?”
Tôi kéo cửa ra. Căn phòng lạnh cóng, nguồn sáng duy nhất trong căn phòng phát ra từ màn hình màu xanh của chiếc ti vi nhỏ đặt trên cửa sổ. Trong bóng tối lờ mờ, tôi nhìn thấy trên sàn ngổn ngang những thứ linh tinh, chai lọ rỗng, quần áo bỏ đi, và cái gì đó giống như thùng rác cao bằng nhôm hay để trong bếp. Trên tivi, một cô gái người Nhật trong trang phục cổ động viên bóng chày đang nhảy qua những hòn đảo nổi trong một bể bơi, mỗi cú nhảy như thế, chiếc váy ngắn của cô ta lại tung bay phấp phới. Đó là dấu hiệu duy nhất của sự sống trong căn phòng. Ở cửa ra vào chắn ngang lối đi là chiếc bàn của Jason.
“Trèo qua đi,” anh ta nói. Giọng nói dường như phát ra từ chiếc tủ quần áo.
Tôi thò đầu vào, cố nghển cổ nhìn xem Jason ở đâu. “Anh ở đâu?”
“Trèo vào đi, vì Chúa.”
Tôi ngồi lên bàn, thu hai chân lên, xoay cả người vào phía trong rồi thả chân xuống.
“Đóng cửa vào.”
Tôi tì vào bàn với tay kéo cửa lại rồi ấn vào công tắc đèn.
“Không! Tắt đèn đi.”
Trên sàn nhà ngổn ngang những mảnh vải vụn, những chiếc khăn giấy nhuốm máu. Trong sọt rác cũng đầy những miếng giẻ sũng máu. Dưới tấm đệm máu me, tôi có thể nhìn thấy chiếc cán màu vàng của một con dao dùng để chạm khắc, một chiếc tuốcnơvit và một bộ đục. Trước mắt tôi là một kho vũ khí thực sự. Jason ở trong một hàng rào.
“Tôi bảo, tắt đèn đi. Cô muốn mụ ta nhìn thấy chúng ta ở đây à?”
Tôi làm như anh ta nói rồi cả hai chúng tôi im lặng một lúc lâu. Mãi sau tôi mới lên tiếng: “Jason, hãy để tôi tìm cho anh một bác sĩ. Tôi sẽ gọi đến Bệnh viện Quốc tế.”
“Tôi đã bảo là không mà! Tôi không muốn mấy tên bác sĩ chỉnh hình đó chạm vào tôi.”
“Tôi sẽ gọi đến đại sứ quán của anh.”
“Chả giúp được gì đâu.”
“Jason,” tôi bước một bước ngang qua sàn nhà. Tôi có thể cảm nhận được tiếng lép nhép khi nhấc chân lên khỏi sàn nhà nhớp nhúa. “Anh đang bị chảy máu.”
“Thì sao?”
“Anh chảy máu ở đâu?”
“Chảy máu ở đâu? Câu hỏi gì mà ngớ ngẩn thế?”
“Hãy cho tôi biết anh chảy máu ở đâu? Vết thương có thể rất nghiêm trọng.”
“Cô đang nói linh tinh gì thế?” Anh ta thò chân đạp vào cái cửa tủ quần áo khiến các bức tường rung rinh. “Tôi không biết là cô nghĩ gì, nhưng dù cô có nghĩ gì đi nữa thì đó cũng chỉ là sự tưởng tượng của riêng cô mà thôi.” Anh ta dừng lại thở hồng hộc. “Cô cứ tự tưởng tượng ra. Cô và những cái phát hiện ngớ ngẩn của cô. Đầu óc cô đúng là quái đản.”
“Đầu óc tôi chẳng làm sao cả,” tôi bình tĩnh nói. “Tôi cũng chẳng bịa ra chuyện gì.”
“Ôi cưng ơi, rõ ràng chính là cô đã tưởng tượng ra chuyện đó. Chúng không chạm vào tôi, nếu đó là điều cô đang nói.” Lúc này tôi đã có thể nhìn thấy Jason, đang nằm trong tủ quần áo kê sát tường. Tôi chỉ thấy lờ mờ hình dáng của anh ta. Anh ta nằm nghiêng sang một bên như để giữ ấm, chăn quấn quanh người. Cảnh tượng mới ma quái làm sao, tôi đứng đây trong ánh sáng tù mù, nghe giọng nói sin sít của anh ta phát ra từ tủ quần áo.
“Tôi thậm chí không muốn nghe cô nhắc tới chuyện đó. Cô nghĩ cô là ai chứ? Đừng có lại gần cái tủ quần áo!”
Tôi lùi lại một bước.
“Đứng đó, và đừng có nhìn tôi.” Tôi có thể nghe thấy tiếng anh ta thở một cách nặng nhọc như thể có cái gì đó nghẽn lại trong khí quản anh ta. “Giờ nghe này, cô phải tìm người tới giúp tôi.”
“Tôi sẽ đưa anh tới bác sĩ và…”
“Không!” Tôi có thể nhận ra anh ta đang cố gắng giữ cho giọng nói mạch lạc và suy nghĩ tỉnh táo. “Không được. Nghe này, có… có một số điện thoại viết trên tường. Gần công tắc đèn. Thấy chưa? Đó là số điện thoại của… của mẹ tôi. Hãy gọi cho bà ấy. Tới trạm điện thoại công cộng, chọn dịch vụ người nghe trả tiền. Bảo mẹ tôi cử ai đó tới đây giúp tôi. Bảo bà đừng cử ai ở Boston mà chọn một trong những người làm cho nhà chúng tôi ở Palm Springs. Gần hơn.”
Palm Springs? Tôi nhìn chằm chằm về phía tủ quần áo. Jason với một gia đình có các dinh cơ ở California? Những người giúp việc? Tôi vẫn luôn nghĩ anh ta như một dân du lịch balô thực sự, những người tôi vẫn thường thấy ở sân bay, quyển sách hướng dẫn du lịch Lonely Planet nhàu nát trên tay, cuộn giấy vệ sinh thò ra khỏi balô. Tôi tưởng tượng ra cảnh anh ta đi rửa bát, dạy tiếng Anh, ngủ vạ vật trên bãi biển với độc một chiếc chiếu cói và một lò sưởi bằng ga. Lúc nào tôi cũng tin rằng anh ta chẳng có gì đáng giá để mất, giống như ba đứa chúng tôi.
“Gì vậy, có cái gì cô không hiểu à? Sao cô vẫn còn đứng đây?”
Một quảng cáo bánh sôcôla Pocky xuất hiện trên màn hình. Tôi nhìn nó mấy giây rồi thở dài và quay ra phía cửa. “Thôi được, tôi sẽ đi gọi điện.”
Tôi chưa bao giờ gọi điện thoại kiểu này nên khi tổng đài tự động hỏi tên tôi, suýt nữa tôi đã nói, “Kẻ lập dị”. Cuối cùng tôi bảo tôi gọi vì chuyện của Jason. Mẹ anh ta nhấc điện thoại, chỉ lắng nghe mà không nói gì. Tôi nhắc lại hai lần các chi tiết như địa chỉ, cách tìm ra ngôi nhà, và việc anh ta đang cần bác sĩ khẩn cấp và làm ơn – tôi do dự một chút khi nói điều này, thật kỳ cục biết bao khi nói về Jason theo kiểu này – làm ơn cử ai đó từ phía Tây đến để tiết kiệm thời gian. “Còn cô, tôi có thể được biết cô là ai không?” Bà nói bằng giọng Anh dù bà đang ở Boston. “Cô có thể cho tôi biết quý danh không?”
“Tôi nói nghiêm túc đấy.” Tôi nói rồi dập máy.
Trời lúc này đã tối hẳn, và khi trở về nhà, tôi không dám bật quá nhiều đèn, không thể không băn khoăn liệu nó sẽ trông như thế nào nếu nhìn từ bên ngoài vào, sáng rực lên giữa khung cảnh tối đen xung quanh. Tôi không quen khách hàng nào có thể cho tôi vay tiền, ngủ ngoài công viên thì quá lạnh và tôi cũng không dám chắc là Mama Strawberry sẽ đồng ý ứng trước lương cho tôi, nếu có thì chắc cũng chẳng đủ để thuê khách sạn. Tôi cũng không thể nài nỉ Sử Trùng Minh giúp đỡ. Sau giờ làm, chắc tôi phải quay lại đây để ngủ. Nghĩ tới điều đó, cả người tôi lạnh toát.
Tôi nhanh chóng kiếm được một mớ dụng cụ dùng để tự vệ trong nhà kho của ngôi nhà, một cái vồ, một cái đục, một cái nồi cơm điện to đùng để ném vào mặt đối phương khi cần thiết. Tôi cầm thử cái vồ lên, nó nặng và có vẻ tiện lợi. Tôi mang chúng về phòng, để dựa vào tường rồi nhét vài thứ cần thiết vào chiếc túi du lịch, một chiếc áo len dày, tất cả những ghi chép, bản thảo về Nam Kinh, hộ chiếu và phần còn lại của số tiền mà Irina đưa cho tôi. Giống như tôi chuẩn bị hành trang sơ tán khi có báo hiệu động đất. Tôi lại gần cửa sổ, nắm lấy quai túi rồi thả nó lủng lẳng ở bên ngoài một cách nhẹ nhàng, hết sức nhẹ nhàng, cho tới khi tay tôi căng ra. Rồi tôi buông tay cho chiếc túi rơi xuống. Nó rơi xuống chiếc máy điều hòa nhiệt độ với một tiếng bụp rất nhỏ. Từ ngoài hẻm sẽ không ai nhìn thấy nó.
Khi tôi đang đứng bên cửa sổ thì trời đột nhiên đổ tuyết. Tôi nhìn lên trời, nghĩ tới Giáng sinh không còn bao xa nữa. Những bông tuyết mềm mại quay tít trong khoảng trời màu xám giữa những tòa nhà, che lấp khuôn mặt của Mickey Rourke. Giáng sinh sắp tới cũng có nghĩa là đã gần mười năm trôi qua kể từ khi đứa con gái bé bỏng của tôi qua đời. Mười năm. Kỳ diệu làm sao, thời gian có thể biến mất như người ta khép lại một chiếc đàn accordion. Một lúc sau tôi khép cửa sổ lại, lồng một chiếc túi nylon vào tay rồi đi ra ngoài trời tuyết rơi. Tôi nhón mấy ngón tay bọc trong giấy bóng nhặt con mèo lên rồi đem nó chôn dưới gốc cây hồng trong vườn.
Tôi ngồi im lặng, tay ôm đầu khi chiếc tàu cao tốc trên không đưa tôi đi xuyên qua Tokyo, dưới bầu trời xanh vợi, giữa những tấm biển quảng cáo bằng đèn neon, những tòa nhà cao tầng màu vàng trắng lấp lánh, giữa cái ồn ào náo nhiệt của thành phố. Tôi ngây nhìn những tòa công sở mười tầng với những cô thư ký mặc áo sơ mi tề chỉnh, đi tất da chân đang nhìn lại tôi qua cửa sổ. Đôi khi, Sử Trùng Minh đòi hỏi ở tôi quá nhiều. Đôi khi, ông ta làm tôi đau đầu. Tới Shinjuku, đoàn tàu đi ngang qua một tòa nhà cao tầng với hàng trăm màn hình tivi đưa hình ảnh một người đàn ông trong bộ vest tuxedo màu vàng đang hát trước camera. Tôi ngây người nhìn ông ta một lúc. Rồi tôi nhận ra.
Bison?
Tôi đứng dậy, đi về phía cửa sổ và nhìn lên tòa nhà. Chính là ông ta, một Bison trẻ trung và mảnh mai hơn người mà tôi đã biết, ông ta đang hát, đầu nghiêng nghiêng, tay giơ về phía camera, hình ảnh của ông ta được phát đi phát lại, hàng trăm lần, rồi các màn hình được nhân lên cho tới khi cả tòa nhà được bao bọc bởi hình ảnh của ông ta. Dưới mỗi màn hình phía bên trái đều có logo của hãng truyền hình NHK. Bản tin thời sự. Bison xuất hiện trong bản tin thời sự. Ngay khi đoàn tàu sắp đi qua khỏi tòa nhà chọc trời, khuôn mặt ông ta trên màn hình được thay thế bằng hình ảnh một chiếc xe cảnh sát đỗ ngoài một ngôi nhà ở Tokyo. Cảnh sát. Tôi tì tay vào cửa sổ, cố ngoái lại nhìn tòa nhà cao tầng đang biến mất phía sau. Hơi thở của tôi phả mờ tấm kính trước mặt. Bison? Tại sao ông lại xuất hiện trên bản tin?
Khi tôi về tới nhà thì trời đã tới nhưng cả ngôi nhà chẳng có đèn đóm gì trừ chỗ cầu thang lên xuống. Svetlana đang đứng bên ngoài nhìn chằm chằm vào cái gì đó trên mặt đất, sau lưng cửa mở toang. Cô ấy đi một đôi ủng cao, một chiếc áo khoác lông mịn màu hồng dài tới gối, tay ôm một túi quần áo bỏ đi.
“Cô có xem tin tức không?” Tôi hỏi. “Cô có xem vô tuyến không?”
“Tivi muỗi lắm.”
“Cái gì cơ?”
“Nhìn đây này.”
Đám cây leo, cây bụi bao quanh ngôi nhà bị giẫm đạp tả tơi. Có thể mụ Y Tá và tên chimpira đã đứng đây theo dõi chúng tôi qua cửa sổ. Svetlana lấy mũi ủng màu hồng gạt một đám cây bụi ra và chỉ vào một con mèo nằm chết cạnh đó, cái đầu nát bét của nó còn nguyên dấu vết của đế giày. “Suka, đúng là đồ chó cái. Chỉ là một con mèo nhỏ thôi mà. Đâu có gì nguy hiểm.” Svetlana lẩm bẩm, ném túi rác ra vệ đường rồi leo lên gác. “Đồ chó cái.”
Tôi đi theo cô ấy lên nhà, đột nhiên rùng mình. Đống bóng đèn vỡ và vài mảnh vụn từ những chiếc cửa bị đạp thủng vẫn lăn lóc trên sàn. Tôi nhìn hành lang im ắng vẻ đề phòng.
“Cô có xem tin tức không?” Tôi hỏi lại và bước vào phòng khách. “Vô tuyến vẫn xem được chứ?” Chiếc tivi bị hất đổ kềnh sang một bên, nhưng nó vẫn hoạt động khi tôi đặt nó lại ngay ngắn và thử bật lên. “Baisan vừa xuất hiện trên vô tuyến.” Tôi cúi xuống chiếc tivi và ấn nút chuyển kênh. Chỉ có hoạt hình, quảng cáo đồ uống tăng lực, những cô gái mặc bikini. Cả những con sóc hoạt hình nhảy múa. Nhưng không có tin gì về Bison. Tôi lại lướt qua tất cả các kênh một lần nữa, bắt đầu thấy sốt ruột. “Đã xảy ra chuyện gì đó. Tôi vừa thấy ông ta hai mươi phút trước đây. Thế cô không xem…” Tôi ngoái lại nhìn. Svetlana đứng im lặng, khoanh tay bên ngưỡng cửa. Tôi đứng thẳng người dậy. “Có chuyện gì vậy?”
“Chúng tôi chuyển ra ngoài.” Cô ấy chỉ tay quanh căn phòng. “Nhìn xem.”
Những chiếc túi du lịch Matusya màu xám và trắng nhét đầy hành lý nằm la liệt khắp nơi. Tôi nhìn thấy những chiếc mắc áo, mấy cuộn giấy vệ sinh và một cái quạt sưởi thò ra ngoài. Trên ghế sofa là những túi nylon chật cứng quần áo. Tôi đã không để ý tới chúng. “Tôi và Irina. Chúng tôi đã tìm thấy một câu lạc bộ khác. Ở Hiroo.”
Và rồi Irina xuất hiện trong hành lang, kéo theo một kiện quần áo dán băng dính chằng chịt. Cô ấy cũng đã mặc áo khoác và tay cầm một điếu thuốc lá Nga nặng mùi. Cô ấy thả kiện quần áo xuống và lại đứng đằng sau Svetlana, tựa cằm lên vai cô chị và nhìn tôi vẻ rầu rĩ. “Một câu lạc bộ tốt.”
Tôi chớp mắt. “Các cô đang chuyển nhà à? Các cô sẽ sống ở đâu?”
“Cái căn hộ mà chúng tôi sẽ ở, cô gọi nó là gì nhỉ? Nó ở trên tầng thượng của câu lạc bộ?” Cô ấy chụm tay lại, hôn lên đầu ngón tay của mình rồi nói tiếp. “Cao cấp.”
“Nhưng bằng cách nào?” Tôi hỏi một cách ngây ngô. “Bằng cách nào mà các cô…”
“Do khách hàng của tôi giúp. Ông ấy sẽ đưa chúng tôi tới đó bây giờ.”
“Grey, đừng nói bất kỳ điều gì với ai nhé, được chứ? Đừng nói với Mama Strawberry là chúng tôi sẽ đi đâu, đừng nói gì với bất cứ cô gái nào, được không?”
“Được.”
Một chút ngập ngừng rồi Svetlana cúi người về phía tôi, đặt tay lên vai tôi và nhìn vào mắt tôi với một vẻ khiến tôi hơi hoảng sợ. “Nghe này, Grey, cô nên nói chuyện với anh ta.” Cô ấy hất đầu về phía phòng Jason lúc này vẫn đóng im ỉm. “Chuyện nghiêm trọng đấy.”
Irina gật đầu. “Anh ta bảo chúng tôi, ‘Đừng có nhìn tôi’, nhưng chúng tôi đã nhìn thấy anh ta.”
“Đúng, chúng tôi nhìn thấy anh ta cố gắng di chuyển, cố gắng… tiếng Anh gọi là gì nhỉ, bò lê? Bằng cả bốn chi, giống như con chó ấy? Gọi là bò à?”
“Bò à? Ý cô nói là anh ta phải bò đi?” Một linh cảm xấu chợt lan khắp người tôi.
“Đúng thế. Bò. Anh ta cố gắng bò.” Cô ấy trao cho Irina một cái nhìn bất an. “Grey, nghe này.” Cô liếm môi. “Chúng tôi nghĩ rằng đúng là anh ta cần phải gặp bác sĩ. Anh ta nói anh ta không cần, nhưng… Anh ta đã gặp phải chuyện gì đó tồi tệ. Chuyện gì đó rất tồi tệ.”
Hai cô gái đã đi, một chiếc xe Nissan màu trắng, có ghế bảo hiểm dành cho trẻ em ở băng sau, tới đón họ đi, lái xe là một người đàn ông mặt mũi trông căng thẳng. Họ đi rồi, căn nhà trở nên lạnh lẽo và hoang vắng như thể nó bị khóa lại vào mùa đông. Cánh cửa phòng Jason vẫn khép chặt, ánh sáng le lói hắt ra từ phía dưới bậu cửa, nhưng tuyệt nhiên không nghe thấy tiếng động gì. Tôi đứng đó, giơ tay lên định gõ, cố nghĩ xem mình sẽ phải nói gì. Một lúc sau, tôi vẫn không biết làm thế nào nên cứ gõ đại. Lúc đầu, không thấy ai trả lời. Khi tôi gõ thêm lần nữa thì nghe thấy một tiếng nghèn nghẹt: “Gì đấy?”
Tôi kéo cửa ra. Căn phòng lạnh cóng, nguồn sáng duy nhất trong căn phòng phát ra từ màn hình màu xanh của chiếc ti vi nhỏ đặt trên cửa sổ. Trong bóng tối lờ mờ, tôi nhìn thấy trên sàn ngổn ngang những thứ linh tinh, chai lọ rỗng, quần áo bỏ đi, và cái gì đó giống như thùng rác cao bằng nhôm hay để trong bếp. Trên tivi, một cô gái người Nhật trong trang phục cổ động viên bóng chày đang nhảy qua những hòn đảo nổi trong một bể bơi, mỗi cú nhảy như thế, chiếc váy ngắn của cô ta lại tung bay phấp phới. Đó là dấu hiệu duy nhất của sự sống trong căn phòng. Ở cửa ra vào chắn ngang lối đi là chiếc bàn của Jason.
“Trèo qua đi,” anh ta nói. Giọng nói dường như phát ra từ chiếc tủ quần áo.
Tôi thò đầu vào, cố nghển cổ nhìn xem Jason ở đâu. “Anh ở đâu?”
“Trèo vào đi, vì Chúa.”
Tôi ngồi lên bàn, thu hai chân lên, xoay cả người vào phía trong rồi thả chân xuống.
“Đóng cửa vào.”
Tôi tì vào bàn với tay kéo cửa lại rồi ấn vào công tắc đèn.
“Không! Tắt đèn đi.”
Trên sàn nhà ngổn ngang những mảnh vải vụn, những chiếc khăn giấy nhuốm máu. Trong sọt rác cũng đầy những miếng giẻ sũng máu. Dưới tấm đệm máu me, tôi có thể nhìn thấy chiếc cán màu vàng của một con dao dùng để chạm khắc, một chiếc tuốcnơvit và một bộ đục. Trước mắt tôi là một kho vũ khí thực sự. Jason ở trong một hàng rào.
“Tôi bảo, tắt đèn đi. Cô muốn mụ ta nhìn thấy chúng ta ở đây à?”
Tôi làm như anh ta nói rồi cả hai chúng tôi im lặng một lúc lâu. Mãi sau tôi mới lên tiếng: “Jason, hãy để tôi tìm cho anh một bác sĩ. Tôi sẽ gọi đến Bệnh viện Quốc tế.”
“Tôi đã bảo là không mà! Tôi không muốn mấy tên bác sĩ chỉnh hình đó chạm vào tôi.”
“Tôi sẽ gọi đến đại sứ quán của anh.”
“Chả giúp được gì đâu.”
“Jason,” tôi bước một bước ngang qua sàn nhà. Tôi có thể cảm nhận được tiếng lép nhép khi nhấc chân lên khỏi sàn nhà nhớp nhúa. “Anh đang bị chảy máu.”
“Thì sao?”
“Anh chảy máu ở đâu?”
“Chảy máu ở đâu? Câu hỏi gì mà ngớ ngẩn thế?”
“Hãy cho tôi biết anh chảy máu ở đâu? Vết thương có thể rất nghiêm trọng.”
“Cô đang nói linh tinh gì thế?” Anh ta thò chân đạp vào cái cửa tủ quần áo khiến các bức tường rung rinh. “Tôi không biết là cô nghĩ gì, nhưng dù cô có nghĩ gì đi nữa thì đó cũng chỉ là sự tưởng tượng của riêng cô mà thôi.” Anh ta dừng lại thở hồng hộc. “Cô cứ tự tưởng tượng ra. Cô và những cái phát hiện ngớ ngẩn của cô. Đầu óc cô đúng là quái đản.”
“Đầu óc tôi chẳng làm sao cả,” tôi bình tĩnh nói. “Tôi cũng chẳng bịa ra chuyện gì.”
“Ôi cưng ơi, rõ ràng chính là cô đã tưởng tượng ra chuyện đó. Chúng không chạm vào tôi, nếu đó là điều cô đang nói.” Lúc này tôi đã có thể nhìn thấy Jason, đang nằm trong tủ quần áo kê sát tường. Tôi chỉ thấy lờ mờ hình dáng của anh ta. Anh ta nằm nghiêng sang một bên như để giữ ấm, chăn quấn quanh người. Cảnh tượng mới ma quái làm sao, tôi đứng đây trong ánh sáng tù mù, nghe giọng nói sin sít của anh ta phát ra từ tủ quần áo.
“Tôi thậm chí không muốn nghe cô nhắc tới chuyện đó. Cô nghĩ cô là ai chứ? Đừng có lại gần cái tủ quần áo!”
Tôi lùi lại một bước.
“Đứng đó, và đừng có nhìn tôi.” Tôi có thể nghe thấy tiếng anh ta thở một cách nặng nhọc như thể có cái gì đó nghẽn lại trong khí quản anh ta. “Giờ nghe này, cô phải tìm người tới giúp tôi.”
“Tôi sẽ đưa anh tới bác sĩ và…”
“Không!” Tôi có thể nhận ra anh ta đang cố gắng giữ cho giọng nói mạch lạc và suy nghĩ tỉnh táo. “Không được. Nghe này, có… có một số điện thoại viết trên tường. Gần công tắc đèn. Thấy chưa? Đó là số điện thoại của… của mẹ tôi. Hãy gọi cho bà ấy. Tới trạm điện thoại công cộng, chọn dịch vụ người nghe trả tiền. Bảo mẹ tôi cử ai đó tới đây giúp tôi. Bảo bà đừng cử ai ở Boston mà chọn một trong những người làm cho nhà chúng tôi ở Palm Springs. Gần hơn.”
Palm Springs? Tôi nhìn chằm chằm về phía tủ quần áo. Jason với một gia đình có các dinh cơ ở California? Những người giúp việc? Tôi vẫn luôn nghĩ anh ta như một dân du lịch balô thực sự, những người tôi vẫn thường thấy ở sân bay, quyển sách hướng dẫn du lịch Lonely Planet nhàu nát trên tay, cuộn giấy vệ sinh thò ra khỏi balô. Tôi tưởng tượng ra cảnh anh ta đi rửa bát, dạy tiếng Anh, ngủ vạ vật trên bãi biển với độc một chiếc chiếu cói và một lò sưởi bằng ga. Lúc nào tôi cũng tin rằng anh ta chẳng có gì đáng giá để mất, giống như ba đứa chúng tôi.
“Gì vậy, có cái gì cô không hiểu à? Sao cô vẫn còn đứng đây?”
Một quảng cáo bánh sôcôla Pocky xuất hiện trên màn hình. Tôi nhìn nó mấy giây rồi thở dài và quay ra phía cửa. “Thôi được, tôi sẽ đi gọi điện.”
Tôi chưa bao giờ gọi điện thoại kiểu này nên khi tổng đài tự động hỏi tên tôi, suýt nữa tôi đã nói, “Kẻ lập dị”. Cuối cùng tôi bảo tôi gọi vì chuyện của Jason. Mẹ anh ta nhấc điện thoại, chỉ lắng nghe mà không nói gì. Tôi nhắc lại hai lần các chi tiết như địa chỉ, cách tìm ra ngôi nhà, và việc anh ta đang cần bác sĩ khẩn cấp và làm ơn – tôi do dự một chút khi nói điều này, thật kỳ cục biết bao khi nói về Jason theo kiểu này – làm ơn cử ai đó từ phía Tây đến để tiết kiệm thời gian. “Còn cô, tôi có thể được biết cô là ai không?” Bà nói bằng giọng Anh dù bà đang ở Boston. “Cô có thể cho tôi biết quý danh không?”
“Tôi nói nghiêm túc đấy.” Tôi nói rồi dập máy.
Trời lúc này đã tối hẳn, và khi trở về nhà, tôi không dám bật quá nhiều đèn, không thể không băn khoăn liệu nó sẽ trông như thế nào nếu nhìn từ bên ngoài vào, sáng rực lên giữa khung cảnh tối đen xung quanh. Tôi không quen khách hàng nào có thể cho tôi vay tiền, ngủ ngoài công viên thì quá lạnh và tôi cũng không dám chắc là Mama Strawberry sẽ đồng ý ứng trước lương cho tôi, nếu có thì chắc cũng chẳng đủ để thuê khách sạn. Tôi cũng không thể nài nỉ Sử Trùng Minh giúp đỡ. Sau giờ làm, chắc tôi phải quay lại đây để ngủ. Nghĩ tới điều đó, cả người tôi lạnh toát.
Tôi nhanh chóng kiếm được một mớ dụng cụ dùng để tự vệ trong nhà kho của ngôi nhà, một cái vồ, một cái đục, một cái nồi cơm điện to đùng để ném vào mặt đối phương khi cần thiết. Tôi cầm thử cái vồ lên, nó nặng và có vẻ tiện lợi. Tôi mang chúng về phòng, để dựa vào tường rồi nhét vài thứ cần thiết vào chiếc túi du lịch, một chiếc áo len dày, tất cả những ghi chép, bản thảo về Nam Kinh, hộ chiếu và phần còn lại của số tiền mà Irina đưa cho tôi. Giống như tôi chuẩn bị hành trang sơ tán khi có báo hiệu động đất. Tôi lại gần cửa sổ, nắm lấy quai túi rồi thả nó lủng lẳng ở bên ngoài một cách nhẹ nhàng, hết sức nhẹ nhàng, cho tới khi tay tôi căng ra. Rồi tôi buông tay cho chiếc túi rơi xuống. Nó rơi xuống chiếc máy điều hòa nhiệt độ với một tiếng bụp rất nhỏ. Từ ngoài hẻm sẽ không ai nhìn thấy nó.
Khi tôi đang đứng bên cửa sổ thì trời đột nhiên đổ tuyết. Tôi nhìn lên trời, nghĩ tới Giáng sinh không còn bao xa nữa. Những bông tuyết mềm mại quay tít trong khoảng trời màu xám giữa những tòa nhà, che lấp khuôn mặt của Mickey Rourke. Giáng sinh sắp tới cũng có nghĩa là đã gần mười năm trôi qua kể từ khi đứa con gái bé bỏng của tôi qua đời. Mười năm. Kỳ diệu làm sao, thời gian có thể biến mất như người ta khép lại một chiếc đàn accordion. Một lúc sau tôi khép cửa sổ lại, lồng một chiếc túi nylon vào tay rồi đi ra ngoài trời tuyết rơi. Tôi nhón mấy ngón tay bọc trong giấy bóng nhặt con mèo lên rồi đem nó chôn dưới gốc cây hồng trong vườn.