Xung quanh tôi, căn phòng bắt đầu hiện ra lờ mờ trong bóng tối. Tôi vẫn đang ngồi im trên tấm đệm, tim đập thình thịch, dỏng tai lên nghe những âm thanh từ phía bên ngoài. Nhưng mỗi lần tôi tưởng mình sắp phát hiện ra đó là âm thanh gì thì sấm chớp lại át đi mất. Ngồi im trong căn phòng tranh tối tranh sáng này, ngắm nhìn bóng của những chiếc lá cây bị gió thổi bay phần phật ngoài cửa sổ khiến tôi bắt đầu tưởng tượng ra đủ thứ: tôi có ảo giác về ngôi nhà này giống như một chiếc bè gỗ đang trôi nổi bập bềnh trên những ngọn sóng, trong bóng đêm vô tận, và bên ngoài cả thành phố đã biến mất, đã nổ tung trong một cuộc tấn công bằng bom nguyên tử.
Âm thanh đó lại vang lên. Là tiếng gì vậy? Tôi nhìn ra phía cửa. Tôi nghĩ ngay lập tức đến mấy con mèo trong vườn. Tôi đã nhìn thấy lũ mèo con vài lần, bám vào tấm lưới chống muỗi giống như lũ khỉ và kêu chí chóe như lũ chim non. Có thể một con mèo con đã lạc vào một căn phòng nào đó và đang bò như ếch trên tấm lưới chống muỗi. Hoặc có thể đó là…
“Jason?” Tôi hỏi khẽ, ngồi thẳng dậy, khắp người như có kiến bò.
Lần này nó đã trở nên rõ hơn, một âm thanh kỳ lạ giống như tiếng tru, xuyên khắp căn nhà. Tôi chống tay xuống đất và bò lại gần phía cửa ra vào, mở hé nó ra một chút, cẩn thận để không gây ra tiếng động. Tôi nhìn ra phía ngoài. Mấy tấm cửa chớp đã được kéo ra, còn cửa sổ đối diện với phòng Jason mở toang như thể cuộc tranh cãi của chúng tôi mới chỉ xảy ra cách đây vừa đủ thời gian hút một điếu thuốc, và anh ta đã đứng đó hút thuốc từ bấy đến giờ. Bên ngoài, gió quất mạnh, cả khu vườn như đang lồng lên, cành cây gẫy răng rắc, và gần cửa sổ, một chiếc túi nylon Lawson’s Station bị gió thổi đến mắc vào cành cây bay phần phật thỉnh thoảng lại kêu loạt soạt và rách toạc đôi chỗ. Cái bóng kỳ dị méo mó của nó đung đưa, lởn vởn khắp hành lang, trên tường và trên cả những tấm thảm tatami.
Nhưng cơn bão không phải là nguyên nhân khiến tôi tỉnh giấc. Càng nhìn vào cái hành lang quen thuộc thì tôi càng cảm thấy có cái gì đó không ổn. Ánh sáng không bình thường. Mọi khi ngôi nhà không tối thế này. Thường chúng tôi hay để đèn trần sáng suốt đêm nhưng lúc này, nguồn ánh sáng duy nhất trong hành lang là từ bức hình quảng cáo Mickey Rourke ở bên ngoài, và dãy bóng đèn gắn trên trần cũng không còn nữa, chỉ còn lại những mảnh kính vỡ nham nhở lóng lánh. Tôi chớp mắt vài cái và cố gắng trấn tĩnh lại để suy nghĩ cho tỉnh táo. Những bóng đèn trong hành lang rõ ràng đã bị đập vỡ như thể có một bàn tay khổng lồ đã bóp nát chúng.
Có ai đó đang ở trong nhà, tôi nghĩ, nhưng vẫn bình tĩnh một cách lạ lùng. Có ai đó cũng đang ở trong nhà. Tôi hít một hơi thật sâu rồi lặng lẽ bước ra ngoài hành lang. Tất cả các phòng trong hành lang đều đóng cửa im ỉm, kể cả phòng bếp. Thường chúng tôi không đóng cửa bếp bao giờ phòng khi giữa đêm có ai đó đói bụng hay khát nước. Cửa nhà vệ sinh cũng khép chặt, tối om một cách ma quái. Tôi nhón chân bước qua những mảnh kính vỡ, cố phớt lờ tiếng gió hú bên ngoài để tập trung lần theo cái tiếng động kia. Nó xuất phát từ đầu hồi hành lang phía bên kia, nơi có phòng của Jason. Tôi dừng lại, không dám thở mạnh, bắt đầu phân biệt được tiếng động kỳ lạ kia với tiếng gió, nhưng ngay khi nhận ra tiếng động đó thì cả người tôi chợt run bắn lên. Đó là tiếng một người đang yếu ớt rên rỉ vì đau.
Tôi bước sang bên và khẽ mở một cửa sổ. Từ phía hành lang bên kia còn phát ra một tiếng động khác, tiếng lục soát kỳ quái, lén lút, như thể tất cả lũ chuột trong nhà đang túm tụm trong một căn phòng. Cây cối gập xuống vì gió quất, nhưng từ đây tôi có thể nhìn xuyên qua khu vườn, sang hành lang bên kia. Khi mắt tôi bắt đầu quen với những bóng cây chuyển động trên ô kính cửa sổ thì những gì tôi nhìn thấy trong hành lang bên đó khiến đầu gối tôi khuỵu xuống, hai tay run rẩy bám lấy thành cửa sổ, thận trọng nhòm qua bậu cửa.
Cửa phòng Jason mở toang. Dưới ánh sáng lờ mờ, tôi nhìn thấy trong phòng anh ta có một khối gù gù, gớm ghiếc, trông giống như một cái bóng. Như một con linh cẩu đang cúi xuống con mồi và chuẩn bị xé xác nó ra, quắp lấy con mồi trong một tư thế quái dị như thể nó vừa rơi thẳng từ trên trần nhà xuống con mồi. Tóc tai tôi lập tức dựng đứng hết cả lên. Mụ Y Tá. Mụ Y Tá đang ở trong nhà… Rồi tôi nhìn thấy một bóng người khác trong phòng, đứng hơi nghiêng và cúi xuống như đang tìm kiếm cái gì đó trên sàn nhà. Người này cũng đứng khuất trong bóng tối, quay lưng lại phía tôi nhưng đôi vai hắn có cái gì đó khiến tôi cho rằng đó chính là tên mới làm lễ gia nhập băng của Fuyuki tối hôm qua: tên chimpira.
Tôi chớp mắt lia lịa, không tài nào suy nghĩ một cách tỉnh táo được. Chuyện gì thế này? Tại sao chúng lại ở đây? Hay đây là một trò đùa? Tôi đứng thẳng lên chút nữa và nhìn thấy đầu và vai của Jason. Tên chimpira đang để một chân lên gáy Jason gí mặt anh ta xuống đất. Mụ Y Tá khẽ cử động, đổi sang tư thế ngồi, hai đầu gối to và vạm vỡ dưới lớp tất màu đen từ từ giạng ra ngang với vai, hai tay thòng xuống phía trước. Tiếng động yếu ớt và khủng khiếp mà tôi nghe thấy lúc nãy chính là tiếng Jason rên rỉ cầu xin. Mụ Y Tá không thèm nghe anh ta mà vẫn tiếp tục công việc của mình với một sự tập trung cao độ, vai mụ co lại, lưng mụ bình thản nhô ra sau rồi chúi về phía trước. Tay mụ ta ở dưới tầm mắt của tôi nên tôi chỉ có thể thấy hai cánh tay chuyển động một cách dè dặt, thận trọng như thể mụ ta đang thực hiện một ca mổ cầu kỳ và phức tạp. Không hiểu sao tôi lại đoán ra được nhưng trong một phút tỉnh táo hiếm hoi, tôi đã nhận ra: Mày đang chứng kiến một vụ cưỡng hiếp. Mụ ta đang cưỡng hiếp Jason.
Cơn mộng du của tôi chợt tan biến. Tôi đứng vụt dậy mở miệng định hét lên, mồ hôi ròng ròng sau lưng. Dường như đánh hơi thấy sự hiện diện của tôi nên mụ Y Tá đột nhiên ngước mắt lên. Mụ dừng lại. Đôi vai vạm vỡ của mụ nhô lên, mớ tóc giả bóng lộn lắc lư nhưng cái đầu cứng đờ của mụ vẫn hơi cúi xuống như con thú dữ đang ngắm nhìn con mồi ăn dở. Người tôi cứng đờ ra như thể cả thế giới này bỗng biến thành một chiếc kính viễn vọng với một đầu là tôi và một đầu là mụ Y Tá. Cho tới giờ tôi vẫn băn khoăn không hiểu lúc đó mụ nhìn thấy gì từ phía tôi, một cái bóng chuyển động hay một đôi mắt lóe lên từ một cửa sổ tối om phía bên kia tòa nhà bỏ hoang.
Lúc này, một cơn gió mạnh dữ tợn lao vào khu vườn, gầm lên như tiếng động cơ máy bay, khiến cả căn nhà rung chuyển. Mụ Y Tá ngẩng đầu lên nói khẽ gì đó với tên chimpira. Tên này ngay lập tức sững lại, từ từ đứng thẳng lên và quay ra nhìn về phía hành lang tôi đang đứng. Hắn ta ưỡn vai, vặn các khớp tay. Hắn chậm rãi tiến về phía tôi.
Tôi lùi lại và bỏ chạy về phòng, đóng sập cửa rồi khóa lại, bước giật lùi trong phòng như một con cua, hết vấp phải mớ sách vở và tài liệu ngổn ngang trong bóng tối lại va vào đống đồ đạc tối om. Tôi đứng lại, dựa lưng vào tường nhìn chằm chằm ra phía cửa, ngực thắt lại như vừa bị ai đó thụi vào mạng sườn. Jason, tôi luống cuống nghĩ. Jason, chúng đến để tìm anh. Anh đã chơi trò gì với mụ ta vậy?
Không thấy ai xuất hiện. Dường như nhiều phút đã trôi qua, đủ thời gian để đám người kia hoàn tất những gì chúng muốn làm với Jason và đủ để cho tôi mở cửa, chạy ra ngoài gọi điện thoại cho cảnh sát. Nhưng đúng lúc tôi nghĩ rằng tên chimpira sẽ không xuất hiện, rằng hắn và mụ Y Tá hẳn đã lẳng lặng bỏ đi thì tôi nghe thấy trong tiếng gió vang lên tiếng bước chân của hắn cọt kẹt ở hành lang bên ngoài.
Tôi lao về phía cửa sổ bên hông, điên cuồng cào cấu vào các cạnh của tấm lưới chống muỗi đến gãy cả móng tay. Một cái móc bật ra. Tôi giật tấm lưới chống muỗi xuống, mở tung cửa sổ và nhìn ra bên ngoài. Khoảng hơn một mét ở phía dưới có một cục điều hòa nhiệt độ thò ra từ tòa nhà đối diện, có lẽ chịu được trọng lượng của tôi. Hai tòa nhà chỉ cách nhau một khoảng rất hẹp. Tôi quay lại và nhìn chằm chằm vào cánh cửa ra vào. Tiếng bước chân đã dừng lại và trong cái khoảnh khắc im lặng tới rợn người đó, tôi nghe thấy tên chimpira lẩm bẩm gì đó. Rồi một cú đá xé toang cánh cửa mỏng manh. Tôi nghe thấy tiếng hắn ta bám tay vào thành cửa để lấy đà, đạp xuyên thủng cánh cửa.
Tôi leo lên thành cửa sổ. Trước khi nhảy ào xuống, tôi vẫn còn kịp nhìn thấy hắn thò tay qua lỗ hổng trên cửa, dò dẫm lần ổ khóa phía dưới ống tay áo vét màu tím nhạt, chiếc máy điều hòa rung chuyển dưới sức nặng của tôi, có cái gì đó cứa vào chân tôi. Tôi rơi xuống trong một tư thế vụng về, bụng úp xuống, hai chân lơ lửng trong bóng tối, bộ quần áo pyjama bay phần phật. Tôi chống tay rồi nhảy vụt xuống đất, người hơi chúi về phía trước, mặt tôi đập vào chiếc bảng dự báo thời tiết bằng nhựa của tòa nhà bên cạnh nghe đánh cộp.
Một tiếng động chát chúa nữa vang lên từ căn phòng phía trên, như tiếng then cửa hay bản lề bị phá. Tôi hít một hơi thật sâu rồi đứng thẳng lên và lao vào con hẻm, chui vào một khe hở giữa hai tòa nhà đối diện và núp ở đấy, máu chảy rần rật trong huyết quản. Một lúc sau tôi mới dám di chuyển về phía trước, chống tay lên hai bức tường đối diện và ngước lên nhìn ngôi nhà của mình trong nỗi kinh hoàng không thể thốt nên lời.
Tên chimpira đang ở trong phòng tôi. Ánh sáng hắt ra từ hành lang phía sau lưng chiếu rõ mọi chi tiết trên người hắn, giống như qua một chiếc kính hiển vi, tới từng cọng tóc và cả cái bóng trên đầu hắn. Tôi kéo cổ áo pyjama lên tận miệng, hai tay nắm chặt lấy nó, răng va vào nhau lập cập, mắt mở to nhìn hắn trừng trừng như thể tôi vừa nhỏ vào đó mấy giọt adrenaline. Hắn có đoán ra là tôi đã bỏ trốn bằng cách nào hay không? Hắn ta có nhìn thấy tôi không?
Hắn có vẻ do dự trước khi thò đầu ra ngoài cửa sổ. Tôi nép mình vào tường. Hắn kiên nhẫn nhìn rất lâu xuống phía dưới cửa sổ. Cuối cùng, hắn cũng rụt đầu lại, bóng hắn chập chờn một lúc, rồi hắn biến mất khỏi tầm nhìn, chuyển động gần như chậm rãi, bỏ lại căn phòng trống không với những ánh đèn nhảy nhót. Tôi bắt đầu thở bình thường trở lại.
Bạn có thể dũng cảm và tự tin như bạn muốn, bạn có thể tự thuyết phục mình rằng bạn không dễ đối phó, rằng bạn biết bạn đang đối mặt với cái gì. Bạn tin rằng mọi chuyện sẽ không bao giờ trở nên thực sự nghiêm trọng, rằng sẽ luôn có một dấu hiệu nào đó cảnh báo trước khi mọi chuyện đi quá xa, một đoạn nhạc gay cấn chẳng hạn, như ta thường thấy khi xem phim. Nhưng dường như đối với tôi, tai họa không đến theo cách ấy. Tai họa là những cuộc phục kích bất ngờ của số phận: chúng nhảy xổ vào bạn khi bạn đang mải quan sát những thứ khác.
Mụ Y Tá và tên chimpira còn ở lại trong nhà hơn một tiếng nữa. Tôi quan sát chúng lùng sục các hành lang, lục lọi từng phòng, giật tung các cánh cửa ra khỏi bản lề. Kính vỡ tan và cửa bị xé toạc. Chúng lật tung đồ đạc, bứt dây điện thoại ra khỏi tường. Suốt thời gian đó, tôi ngồi xổm như đông cứng lại trong con hẻm giữa hai tòa nhà, cổ áo pyjama kéo lên quá miệng, trong đầu chỉ có độc một ý nghĩ: Sử Trùng Minh, ông không nên để tôi dính vào chuyện này. Ông không nên để tôi dính vào những chuyện nguy hiểm thế này. Cái giá của nó còn đắt hơn bất cứ những gì mà tôi từng mặc cả.
Xung quanh tôi, căn phòng bắt đầu hiện ra lờ mờ trong bóng tối. Tôi vẫn đang ngồi im trên tấm đệm, tim đập thình thịch, dỏng tai lên nghe những âm thanh từ phía bên ngoài. Nhưng mỗi lần tôi tưởng mình sắp phát hiện ra đó là âm thanh gì thì sấm chớp lại át đi mất. Ngồi im trong căn phòng tranh tối tranh sáng này, ngắm nhìn bóng của những chiếc lá cây bị gió thổi bay phần phật ngoài cửa sổ khiến tôi bắt đầu tưởng tượng ra đủ thứ: tôi có ảo giác về ngôi nhà này giống như một chiếc bè gỗ đang trôi nổi bập bềnh trên những ngọn sóng, trong bóng đêm vô tận, và bên ngoài cả thành phố đã biến mất, đã nổ tung trong một cuộc tấn công bằng bom nguyên tử.
Âm thanh đó lại vang lên. Là tiếng gì vậy? Tôi nhìn ra phía cửa. Tôi nghĩ ngay lập tức đến mấy con mèo trong vườn. Tôi đã nhìn thấy lũ mèo con vài lần, bám vào tấm lưới chống muỗi giống như lũ khỉ và kêu chí chóe như lũ chim non. Có thể một con mèo con đã lạc vào một căn phòng nào đó và đang bò như ếch trên tấm lưới chống muỗi. Hoặc có thể đó là…
“Jason?” Tôi hỏi khẽ, ngồi thẳng dậy, khắp người như có kiến bò.
Lần này nó đã trở nên rõ hơn, một âm thanh kỳ lạ giống như tiếng tru, xuyên khắp căn nhà. Tôi chống tay xuống đất và bò lại gần phía cửa ra vào, mở hé nó ra một chút, cẩn thận để không gây ra tiếng động. Tôi nhìn ra phía ngoài. Mấy tấm cửa chớp đã được kéo ra, còn cửa sổ đối diện với phòng Jason mở toang như thể cuộc tranh cãi của chúng tôi mới chỉ xảy ra cách đây vừa đủ thời gian hút một điếu thuốc, và anh ta đã đứng đó hút thuốc từ bấy đến giờ. Bên ngoài, gió quất mạnh, cả khu vườn như đang lồng lên, cành cây gẫy răng rắc, và gần cửa sổ, một chiếc túi nylon Lawson’s Station bị gió thổi đến mắc vào cành cây bay phần phật thỉnh thoảng lại kêu loạt soạt và rách toạc đôi chỗ. Cái bóng kỳ dị méo mó của nó đung đưa, lởn vởn khắp hành lang, trên tường và trên cả những tấm thảm tatami.
Nhưng cơn bão không phải là nguyên nhân khiến tôi tỉnh giấc. Càng nhìn vào cái hành lang quen thuộc thì tôi càng cảm thấy có cái gì đó không ổn. Ánh sáng không bình thường. Mọi khi ngôi nhà không tối thế này. Thường chúng tôi hay để đèn trần sáng suốt đêm nhưng lúc này, nguồn ánh sáng duy nhất trong hành lang là từ bức hình quảng cáo Mickey Rourke ở bên ngoài, và dãy bóng đèn gắn trên trần cũng không còn nữa, chỉ còn lại những mảnh kính vỡ nham nhở lóng lánh. Tôi chớp mắt vài cái và cố gắng trấn tĩnh lại để suy nghĩ cho tỉnh táo. Những bóng đèn trong hành lang rõ ràng đã bị đập vỡ như thể có một bàn tay khổng lồ đã bóp nát chúng.
Có ai đó đang ở trong nhà, tôi nghĩ, nhưng vẫn bình tĩnh một cách lạ lùng. Có ai đó cũng đang ở trong nhà. Tôi hít một hơi thật sâu rồi lặng lẽ bước ra ngoài hành lang. Tất cả các phòng trong hành lang đều đóng cửa im ỉm, kể cả phòng bếp. Thường chúng tôi không đóng cửa bếp bao giờ phòng khi giữa đêm có ai đó đói bụng hay khát nước. Cửa nhà vệ sinh cũng khép chặt, tối om một cách ma quái. Tôi nhón chân bước qua những mảnh kính vỡ, cố phớt lờ tiếng gió hú bên ngoài để tập trung lần theo cái tiếng động kia. Nó xuất phát từ đầu hồi hành lang phía bên kia, nơi có phòng của Jason. Tôi dừng lại, không dám thở mạnh, bắt đầu phân biệt được tiếng động kỳ lạ kia với tiếng gió, nhưng ngay khi nhận ra tiếng động đó thì cả người tôi chợt run bắn lên. Đó là tiếng một người đang yếu ớt rên rỉ vì đau.
Tôi bước sang bên và khẽ mở một cửa sổ. Từ phía hành lang bên kia còn phát ra một tiếng động khác, tiếng lục soát kỳ quái, lén lút, như thể tất cả lũ chuột trong nhà đang túm tụm trong một căn phòng. Cây cối gập xuống vì gió quất, nhưng từ đây tôi có thể nhìn xuyên qua khu vườn, sang hành lang bên kia. Khi mắt tôi bắt đầu quen với những bóng cây chuyển động trên ô kính cửa sổ thì những gì tôi nhìn thấy trong hành lang bên đó khiến đầu gối tôi khuỵu xuống, hai tay run rẩy bám lấy thành cửa sổ, thận trọng nhòm qua bậu cửa.
Cửa phòng Jason mở toang. Dưới ánh sáng lờ mờ, tôi nhìn thấy trong phòng anh ta có một khối gù gù, gớm ghiếc, trông giống như một cái bóng. Như một con linh cẩu đang cúi xuống con mồi và chuẩn bị xé xác nó ra, quắp lấy con mồi trong một tư thế quái dị như thể nó vừa rơi thẳng từ trên trần nhà xuống con mồi. Tóc tai tôi lập tức dựng đứng hết cả lên. Mụ Y Tá. Mụ Y Tá đang ở trong nhà… Rồi tôi nhìn thấy một bóng người khác trong phòng, đứng hơi nghiêng và cúi xuống như đang tìm kiếm cái gì đó trên sàn nhà. Người này cũng đứng khuất trong bóng tối, quay lưng lại phía tôi nhưng đôi vai hắn có cái gì đó khiến tôi cho rằng đó chính là tên mới làm lễ gia nhập băng của Fuyuki tối hôm qua: tên chimpira.
Tôi chớp mắt lia lịa, không tài nào suy nghĩ một cách tỉnh táo được. Chuyện gì thế này? Tại sao chúng lại ở đây? Hay đây là một trò đùa? Tôi đứng thẳng lên chút nữa và nhìn thấy đầu và vai của Jason. Tên chimpira đang để một chân lên gáy Jason gí mặt anh ta xuống đất. Mụ Y Tá khẽ cử động, đổi sang tư thế ngồi, hai đầu gối to và vạm vỡ dưới lớp tất màu đen từ từ giạng ra ngang với vai, hai tay thòng xuống phía trước. Tiếng động yếu ớt và khủng khiếp mà tôi nghe thấy lúc nãy chính là tiếng Jason rên rỉ cầu xin. Mụ Y Tá không thèm nghe anh ta mà vẫn tiếp tục công việc của mình với một sự tập trung cao độ, vai mụ co lại, lưng mụ bình thản nhô ra sau rồi chúi về phía trước. Tay mụ ta ở dưới tầm mắt của tôi nên tôi chỉ có thể thấy hai cánh tay chuyển động một cách dè dặt, thận trọng như thể mụ ta đang thực hiện một ca mổ cầu kỳ và phức tạp. Không hiểu sao tôi lại đoán ra được nhưng trong một phút tỉnh táo hiếm hoi, tôi đã nhận ra: Mày đang chứng kiến một vụ cưỡng hiếp. Mụ ta đang cưỡng hiếp Jason.
Cơn mộng du của tôi chợt tan biến. Tôi đứng vụt dậy mở miệng định hét lên, mồ hôi ròng ròng sau lưng. Dường như đánh hơi thấy sự hiện diện của tôi nên mụ Y Tá đột nhiên ngước mắt lên. Mụ dừng lại. Đôi vai vạm vỡ của mụ nhô lên, mớ tóc giả bóng lộn lắc lư nhưng cái đầu cứng đờ của mụ vẫn hơi cúi xuống như con thú dữ đang ngắm nhìn con mồi ăn dở. Người tôi cứng đờ ra như thể cả thế giới này bỗng biến thành một chiếc kính viễn vọng với một đầu là tôi và một đầu là mụ Y Tá. Cho tới giờ tôi vẫn băn khoăn không hiểu lúc đó mụ nhìn thấy gì từ phía tôi, một cái bóng chuyển động hay một đôi mắt lóe lên từ một cửa sổ tối om phía bên kia tòa nhà bỏ hoang.
Lúc này, một cơn gió mạnh dữ tợn lao vào khu vườn, gầm lên như tiếng động cơ máy bay, khiến cả căn nhà rung chuyển. Mụ Y Tá ngẩng đầu lên nói khẽ gì đó với tên chimpira. Tên này ngay lập tức sững lại, từ từ đứng thẳng lên và quay ra nhìn về phía hành lang tôi đang đứng. Hắn ta ưỡn vai, vặn các khớp tay. Hắn chậm rãi tiến về phía tôi.
Tôi lùi lại và bỏ chạy về phòng, đóng sập cửa rồi khóa lại, bước giật lùi trong phòng như một con cua, hết vấp phải mớ sách vở và tài liệu ngổn ngang trong bóng tối lại va vào đống đồ đạc tối om. Tôi đứng lại, dựa lưng vào tường nhìn chằm chằm ra phía cửa, ngực thắt lại như vừa bị ai đó thụi vào mạng sườn. Jason, tôi luống cuống nghĩ. Jason, chúng đến để tìm anh. Anh đã chơi trò gì với mụ ta vậy?
Không thấy ai xuất hiện. Dường như nhiều phút đã trôi qua, đủ thời gian để đám người kia hoàn tất những gì chúng muốn làm với Jason và đủ để cho tôi mở cửa, chạy ra ngoài gọi điện thoại cho cảnh sát. Nhưng đúng lúc tôi nghĩ rằng tên chimpira sẽ không xuất hiện, rằng hắn và mụ Y Tá hẳn đã lẳng lặng bỏ đi thì tôi nghe thấy trong tiếng gió vang lên tiếng bước chân của hắn cọt kẹt ở hành lang bên ngoài.
Tôi lao về phía cửa sổ bên hông, điên cuồng cào cấu vào các cạnh của tấm lưới chống muỗi đến gãy cả móng tay. Một cái móc bật ra. Tôi giật tấm lưới chống muỗi xuống, mở tung cửa sổ và nhìn ra bên ngoài. Khoảng hơn một mét ở phía dưới có một cục điều hòa nhiệt độ thò ra từ tòa nhà đối diện, có lẽ chịu được trọng lượng của tôi. Hai tòa nhà chỉ cách nhau một khoảng rất hẹp. Tôi quay lại và nhìn chằm chằm vào cánh cửa ra vào. Tiếng bước chân đã dừng lại và trong cái khoảnh khắc im lặng tới rợn người đó, tôi nghe thấy tên chimpira lẩm bẩm gì đó. Rồi một cú đá xé toang cánh cửa mỏng manh. Tôi nghe thấy tiếng hắn ta bám tay vào thành cửa để lấy đà, đạp xuyên thủng cánh cửa.
Tôi leo lên thành cửa sổ. Trước khi nhảy ào xuống, tôi vẫn còn kịp nhìn thấy hắn thò tay qua lỗ hổng trên cửa, dò dẫm lần ổ khóa phía dưới ống tay áo vét màu tím nhạt, chiếc máy điều hòa rung chuyển dưới sức nặng của tôi, có cái gì đó cứa vào chân tôi. Tôi rơi xuống trong một tư thế vụng về, bụng úp xuống, hai chân lơ lửng trong bóng tối, bộ quần áo pyjama bay phần phật. Tôi chống tay rồi nhảy vụt xuống đất, người hơi chúi về phía trước, mặt tôi đập vào chiếc bảng dự báo thời tiết bằng nhựa của tòa nhà bên cạnh nghe đánh cộp.
Một tiếng động chát chúa nữa vang lên từ căn phòng phía trên, như tiếng then cửa hay bản lề bị phá. Tôi hít một hơi thật sâu rồi đứng thẳng lên và lao vào con hẻm, chui vào một khe hở giữa hai tòa nhà đối diện và núp ở đấy, máu chảy rần rật trong huyết quản. Một lúc sau tôi mới dám di chuyển về phía trước, chống tay lên hai bức tường đối diện và ngước lên nhìn ngôi nhà của mình trong nỗi kinh hoàng không thể thốt nên lời.
Tên chimpira đang ở trong phòng tôi. Ánh sáng hắt ra từ hành lang phía sau lưng chiếu rõ mọi chi tiết trên người hắn, giống như qua một chiếc kính hiển vi, tới từng cọng tóc và cả cái bóng trên đầu hắn. Tôi kéo cổ áo pyjama lên tận miệng, hai tay nắm chặt lấy nó, răng va vào nhau lập cập, mắt mở to nhìn hắn trừng trừng như thể tôi vừa nhỏ vào đó mấy giọt adrenaline. Hắn có đoán ra là tôi đã bỏ trốn bằng cách nào hay không? Hắn ta có nhìn thấy tôi không?
Hắn có vẻ do dự trước khi thò đầu ra ngoài cửa sổ. Tôi nép mình vào tường. Hắn kiên nhẫn nhìn rất lâu xuống phía dưới cửa sổ. Cuối cùng, hắn cũng rụt đầu lại, bóng hắn chập chờn một lúc, rồi hắn biến mất khỏi tầm nhìn, chuyển động gần như chậm rãi, bỏ lại căn phòng trống không với những ánh đèn nhảy nhót. Tôi bắt đầu thở bình thường trở lại.
Bạn có thể dũng cảm và tự tin như bạn muốn, bạn có thể tự thuyết phục mình rằng bạn không dễ đối phó, rằng bạn biết bạn đang đối mặt với cái gì. Bạn tin rằng mọi chuyện sẽ không bao giờ trở nên thực sự nghiêm trọng, rằng sẽ luôn có một dấu hiệu nào đó cảnh báo trước khi mọi chuyện đi quá xa, một đoạn nhạc gay cấn chẳng hạn, như ta thường thấy khi xem phim. Nhưng dường như đối với tôi, tai họa không đến theo cách ấy. Tai họa là những cuộc phục kích bất ngờ của số phận: chúng nhảy xổ vào bạn khi bạn đang mải quan sát những thứ khác.
Mụ Y Tá và tên chimpira còn ở lại trong nhà hơn một tiếng nữa. Tôi quan sát chúng lùng sục các hành lang, lục lọi từng phòng, giật tung các cánh cửa ra khỏi bản lề. Kính vỡ tan và cửa bị xé toạc. Chúng lật tung đồ đạc, bứt dây điện thoại ra khỏi tường. Suốt thời gian đó, tôi ngồi xổm như đông cứng lại trong con hẻm giữa hai tòa nhà, cổ áo pyjama kéo lên quá miệng, trong đầu chỉ có độc một ý nghĩ: Sử Trùng Minh, ông không nên để tôi dính vào chuyện này. Ông không nên để tôi dính vào những chuyện nguy hiểm thế này. Cái giá của nó còn đắt hơn bất cứ những gì mà tôi từng mặc cả.