“Trông cô có vẻ khác.” Sử Trùng Minh quan sát tôi từ chiếc ghế xếp. Chiếc áo khoác ôm chặt lấy người, mái tóc bạc trắng được chải thẳng thớm, dài quá tai, hình như còn bôi cả dầu bóng, để lộ những mảng da đầu màu hồng hồng như bạch tạng. “Cô đang run kìa.”
Tôi nhìn xuống tay mình. Ông nói đúng. Hai tay tôi đang run lên. Vì đói. Sáng hôm qua, khi mặt trời mọc, Jason và tôi đã dùng bữa sáng với những thứ anh mua ở siêu thị. Hình như đó là thứ duy nhất mà tôi nhớ là mình đã ăn suốt hơn ba mươi tiếng đồng hồ qua.
“Tôi nghĩ là cô đã thay đổi.”
“Đúng vậy,” tôi nói. Một ngày rưỡi đã trôi qua và chỉ khi ông gọi điện cho tôi, tôi mới nhắc đến chuyện ở nhà Fuyuki. Sử Trùng Minh muốn đến gặp tôi ngay lập tức, nói rằng ông “sửng sốt” và “thất vọng” khi tôi đã không gọi điện cho ông sớm hơn. Tôi không biết làm thế nào để giải thích cho ông hiểu. Tôi không thể nào miêu tả cho ông cái mà ông không thể nhìn thấy, rằng chỉ trong một ngày, có một cái gì đó mạnh mẽ, ngọt ngào và quen thuộc chợt lan tỏa khắp người tôi giống như một nụ hôn vừa dịu dàng vừa nóng bỏng, và những phiền muộn trước đây đã không còn làm tôi nhức nhối. “Đúng vậy, tôi cũng cho là thế,” tôi nói khẽ.
Dường như ông đang đợi tôi nói thêm điều gì đó. Khi thấy tôi im lặng, ông thở dài, nhìn quanh khu vườn và nói: “Ở đây thật đẹp, người Nhật gọi vườn là Niwa, nơi thanh khiết. Không giống như khu vườn Eden trụy lạc của phương Tây. Đối với người Nhật, khu vườn là nơi sự hài hòa ngự trị. Một vẻ đẹp hoàn hảo.”
Tôi nhìn khu vườn. Nó đã thay đổi so với lần cuối cùng tôi xuống đây. Vẻ đẹp tinh tế của mùa thu đang hiện diện nơi đây. Những cây gỗ thích đã chuyển màu vàng sậm còn những cây bách xù đã bắt đầu rụng lá. Đám cây bụi trơ trụi trông như những bộ sưu tập xương chim khô quắt. Tôi hiểu ý ông nói. Đúng là có cái đó gì rất đẹp trong vẻ tự nhiên của khu vườn. Để nhìn thấy cái đẹp có lẽ cũng cần phải học. “Tôi cũng nghĩ thế.”
Tôi lại nhìn những phiến đá lát đường màu trắng chạy quanh co, nhìn viên đá đánh dấu khu vực cấm của khu vườn và đám cây bụi khẳng khiu. “Đúng là nó rất đẹp.” Tôi nói.
Ông gõ gõ mấy ngón tay lên thành ghế rồi nhìn tôi mỉm cười một cách tư lự. “Cuối cùng thì cô cũng có thể tìm thấy cái đẹp ở đất nước này?”
“Đó không phải là điều mà ông định làm hay sao? Không phải là ông đang muốn điều chỉnh cảm nghĩ của mình hay sao?”
Ông bật ra một tiếng kêu thích thú nho nhỏ. “Ái chà, tôi thấy cô đột nhiên trở nên rất khôn ngoan.”
Tôi khẽ xê dịch trên ghế để chỉnh lại phần thân dưới áo khoác. Tôi chưa kịp tắm và mỗi cử động nhỏ nhất của tôi đều phả ra chút mùi rất riêng của Jason. Bên trong áo khoác, tôi chỉ mặc độc một chiếc áo ngủ ngắn mà tôi mua từ mấy tuần trước ở Omotesando. Đó là một chiếc áo sọc, bó sát, dài quá bụng, ôm lấy hông, với những bông hoa nhỏ xíu bằng lụa đính xung quanh cổ. Tôi vẫn chưa có can đảm cho Jason xem những vết sẹo của mình và anh cũng không thúc ép tôi. Anh tin rằng một ngày nào đó tự tôi sẽ phơi bày mọi chuyện. Anh nói tôi nên tin rằng mỗi người trên hành tinh này đều có được một người hiểu họ. Giống như hai miếng ghép của một trò chơi xếp hình khổng lồ.
“Sao cô không gọi cho tôi?” Sử Trùng Minh hỏi.
“Gì cơ?”
“Sao cô không gọi cho tôi?”
Tôi rút một điếu thuốc, châm lửa hút và nhả khói vào bầu trời không một gợn mây. “Tôi, tôi không biết nữa. Tôi không chắc.”
“Khi cô ở nhà Fuyuki, cô có nhìn thấy gì không?”
“Có thể có. Có thể không.”
“Cô đã nhìn thấy? Cô đã nhìn thấy cái gì đó đúng không?” Ông hơi cúi người ra phía trước và hạ thấp giọng.
“Chỉ là thoáng qua.”
“Thoáng qua cái gì?”
“Tôi không chắc, một loại hộp kính.”
“Cô muốn nói là một cái bể chứa?”
“Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái gì giống như vậy.” Tôi nhả một bụm khói vào không khí. Bây giờ tôi mới để ý những đám mây đang in hình trên khung cửa sổ bằng kính của hành lang. Jason đang ngủ trong phòng của tôi, nằm ngửa trên tấm đệm. Tôi có thể hình dung ra tư thế nằm ngủ của anh trong đầu tôi. Tôi có thể nhớ lại tất cả những chi tiết đó, cách anh khoanh tay trước ngực, hơi thở đều đặn của anh.
“Thế vườn thú thì sao?”
“Vườn thú á?” Tôi nhìn ông.
“Phải, thế cô có nhìn thấy cái gì giống như thế ở vườn thú không? Cái gì đó giống như hộp kính có điều hòa nhiệt độ?”
“Tôi không biết.”
“Nó có máy đo không? Để điều phối không khí bên trong, hay các dụng cụ như nhiệt kế, máy đo độ ẩm?”
“Tôi không biết. Đó là…”
“Là gì? Cô nói là cô nhìn thấy cái gì bên trong cái hộp kính đó.” Sử Trùng Minh nhổm người ra phía trước, nhìn tôi chăm chú.
Tôi chớp mắt nhìn ông. Ông đã nhầm. Tôi không hề nói thế.
“Có thể là cái gì đó… lớn chừng này.” Ông nói và giơ hai tay ra để diễn tả một vật có kích thước của một con mèo nhỏ.
“Không, tôi không nhìn thấy gì cả.”
Sử Trùng Minh mím chặt miệng lại và nhìn tôi một lúc lâu, nét mặt không hề thay đổi. Tôi có thể nhìn thấy mồ hôi bắt đầu vã ra trên trán ông. Ông thò tay vào túi rút ra một chiếc khăn mùi soa lau trán. “Đúng vậy, tôi thấy là cô đã thay đổi ý định, có đúng không?” Ông cất chiếc khăn mùi soa trở lại vào túi rồi thở dài nói.
Tôi búng tàn thuốc xuống đất và cau mày nhìn ông.
“Tôi đã tốn biết bao thời gian cho cô và giờ đây cô thay đổi ý định.”
Ông ra về bằng cửa chính và tôi trở về phòng của mình. Hai chị em sinh đôi đang quanh quẩn trong nhà nấu nướng và chành chọe nhau. Trong khi tôi nói chuyện với Sử Trùng Minh thì Jason đã đến quán One Stop Best Friend Bento mua cơm, cá và dưa góp. Khi tôi bước vào phòng thì anh đang nằm trên đệm đợi tôi, thức ăn bày trên bàn trang điểm cùng với một chai rượu mận và hai chiếc ly xinh xắn màu tím nhạt. Tôi khóa cửa và bước tới bên tấm đệm, vừa đi vừa cởi áo khoác.
“Thế nào? Ông bạn già đó là ai vậy?”
Tôi quỳ xuống ngay trước mặt anh. Tôi chỉ mặc độc chiếc áo ngủ mà không mặc quần nịt. Anh tách hai đầu gối của tôi ra và luồn tay vào giữa hai đùi tôi. Cả hai chúng tôi đều nhìn xuống khoảng da thịt mà anh vừa khai phá. Tôi nghĩ chúng hơi cổ điển, không giống như vẻ đẹp hiện đại bây giờ. Không hiểu sao Jason lại thích chúng đến thế.
“Ông bạn ở trong vườn là ai đấy?”
“Một người ở trường đại học.”
“Ông ta nhìn em như thể em đang nói những điều có cánh.”
“Không hẳn thế. Bọn em nói về công trình nghiên cứu của ông ấy. Không thể gọi đó là những lời có cánh.”
“Tốt. Anh không muốn em nói những lời có cánh với bất cứ ai. Em ở với ông ta quá lâu.”
“Quá lâu ư?”
“Đúng vậy.” Anh nói và xòe tay ra trước mặt tôi. “Thấy không?”
“Thấy gì?”
Anh từ từ gập những ngón tay vào lòng bàn tay, ánh đèn lờ mờ trong phòng lấp lánh trên những móng tay gẫy. Tôi nhìn những ngón tay của anh như bị thôi miên. Chúng từ từ vươn ra từ lòng bàn tay, nhẹ nhàng bay vào không khí, ngang dưới mắt tôi, rồi vỗ cánh như một con chim, bay chệnh choạng rồi bổ nhào xuống. Đó là con sếu ma thuật của Sử Trùng Minh. Con sếu của quá khứ.
“Anh theo dõi bọn em,” tôi nói, mắt vẫn không rời khỏi bàn tay giả làm con sếu của anh. “Lần gần đây nhất.”
Anh cười rồi làm con chim bay xuống một cách chậm rãi và duyên dáng. Con chim uốn lượn, bay lên rồi lại chao xuống. Tay anh giơ lên hạ xuống, uốn lượn, miệng huýt sáo. Đột nhiên, con chim quay đầu và bay tới trước mặt tôi, những ngón tay của anh chĩa ra phía trước, nhắm thẳng mặt tôi vỗ cánh. Tôi bật người ra sau, thở gấp.
“Đừng làm thế!” Tôi nói. “Đừng.”
Anh vẫn cười. Anh ngồi dậy, túm lấy tay tôi kéo lại gần. “Em có thích thế không?”
“Anh đang chọc em.”
“Chọc em à? Không. Anh không chọc em. Anh biết thế nào là nghiên cứu khoa học.”
“Không.” Tôi cố cưỡng lại vòng tay của anh. “Em không hiểu nổi anh nữa.”
“Em sẽ không làm nên trò trống gì đâu.” Anh cười và dịu dàng kéo tôi lại gần hơn nữa, thả đầu xuống tấm nệm cầm lấy tay tôi đưa lên miệng, dùng lưỡi liếm lòng bàn tay tôi rồi cắn nhẹ vào đó. “Em sẽ không làm nên trò trống gì nếu cứ giả vờ trước mặt anh.”
Tôi nhìn hàm răng trắng muốt và sạch bóng của anh, thán phục sự khỏe khoắn và sạch sẽ của chúng. “Em không giả vờ,” tôi lẩm bẩm.
“Em lại quên rồi đúng không?” Anh luồn hai tay vào giữa khe đùi, vuốt ve chỗ kín của tôi, mắt không rời khỏi gương mặt tôi. Tôi khẽ chạm tay lên môi anh khi anh nói: “Em lại quên rằng anh chỉ cần nhìn em là anh biết hết mọi thứ, mọi thứ đang diễn ra trong đầu em.”
“Trông cô có vẻ khác.” Sử Trùng Minh quan sát tôi từ chiếc ghế xếp. Chiếc áo khoác ôm chặt lấy người, mái tóc bạc trắng được chải thẳng thớm, dài quá tai, hình như còn bôi cả dầu bóng, để lộ những mảng da đầu màu hồng hồng như bạch tạng. “Cô đang run kìa.”
Tôi nhìn xuống tay mình. Ông nói đúng. Hai tay tôi đang run lên. Vì đói. Sáng hôm qua, khi mặt trời mọc, Jason và tôi đã dùng bữa sáng với những thứ anh mua ở siêu thị. Hình như đó là thứ duy nhất mà tôi nhớ là mình đã ăn suốt hơn ba mươi tiếng đồng hồ qua.
“Tôi nghĩ là cô đã thay đổi.”
“Đúng vậy,” tôi nói. Một ngày rưỡi đã trôi qua và chỉ khi ông gọi điện cho tôi, tôi mới nhắc đến chuyện ở nhà Fuyuki. Sử Trùng Minh muốn đến gặp tôi ngay lập tức, nói rằng ông “sửng sốt” và “thất vọng” khi tôi đã không gọi điện cho ông sớm hơn. Tôi không biết làm thế nào để giải thích cho ông hiểu. Tôi không thể nào miêu tả cho ông cái mà ông không thể nhìn thấy, rằng chỉ trong một ngày, có một cái gì đó mạnh mẽ, ngọt ngào và quen thuộc chợt lan tỏa khắp người tôi giống như một nụ hôn vừa dịu dàng vừa nóng bỏng, và những phiền muộn trước đây đã không còn làm tôi nhức nhối. “Đúng vậy, tôi cũng cho là thế,” tôi nói khẽ.
Dường như ông đang đợi tôi nói thêm điều gì đó. Khi thấy tôi im lặng, ông thở dài, nhìn quanh khu vườn và nói: “Ở đây thật đẹp, người Nhật gọi vườn là Niwa, nơi thanh khiết. Không giống như khu vườn Eden trụy lạc của phương Tây. Đối với người Nhật, khu vườn là nơi sự hài hòa ngự trị. Một vẻ đẹp hoàn hảo.”
Tôi nhìn khu vườn. Nó đã thay đổi so với lần cuối cùng tôi xuống đây. Vẻ đẹp tinh tế của mùa thu đang hiện diện nơi đây. Những cây gỗ thích đã chuyển màu vàng sậm còn những cây bách xù đã bắt đầu rụng lá. Đám cây bụi trơ trụi trông như những bộ sưu tập xương chim khô quắt. Tôi hiểu ý ông nói. Đúng là có cái đó gì rất đẹp trong vẻ tự nhiên của khu vườn. Để nhìn thấy cái đẹp có lẽ cũng cần phải học. “Tôi cũng nghĩ thế.”
Tôi lại nhìn những phiến đá lát đường màu trắng chạy quanh co, nhìn viên đá đánh dấu khu vực cấm của khu vườn và đám cây bụi khẳng khiu. “Đúng là nó rất đẹp.” Tôi nói.
Ông gõ gõ mấy ngón tay lên thành ghế rồi nhìn tôi mỉm cười một cách tư lự. “Cuối cùng thì cô cũng có thể tìm thấy cái đẹp ở đất nước này?”
“Đó không phải là điều mà ông định làm hay sao? Không phải là ông đang muốn điều chỉnh cảm nghĩ của mình hay sao?”
Ông bật ra một tiếng kêu thích thú nho nhỏ. “Ái chà, tôi thấy cô đột nhiên trở nên rất khôn ngoan.”
Tôi khẽ xê dịch trên ghế để chỉnh lại phần thân dưới áo khoác. Tôi chưa kịp tắm và mỗi cử động nhỏ nhất của tôi đều phả ra chút mùi rất riêng của Jason. Bên trong áo khoác, tôi chỉ mặc độc một chiếc áo ngủ ngắn mà tôi mua từ mấy tuần trước ở Omotesando. Đó là một chiếc áo sọc, bó sát, dài quá bụng, ôm lấy hông, với những bông hoa nhỏ xíu bằng lụa đính xung quanh cổ. Tôi vẫn chưa có can đảm cho Jason xem những vết sẹo của mình và anh cũng không thúc ép tôi. Anh tin rằng một ngày nào đó tự tôi sẽ phơi bày mọi chuyện. Anh nói tôi nên tin rằng mỗi người trên hành tinh này đều có được một người hiểu họ. Giống như hai miếng ghép của một trò chơi xếp hình khổng lồ.
“Sao cô không gọi cho tôi?” Sử Trùng Minh hỏi.
“Gì cơ?”
“Sao cô không gọi cho tôi?”
Tôi rút một điếu thuốc, châm lửa hút và nhả khói vào bầu trời không một gợn mây. “Tôi, tôi không biết nữa. Tôi không chắc.”
“Khi cô ở nhà Fuyuki, cô có nhìn thấy gì không?”
“Có thể có. Có thể không.”
“Cô đã nhìn thấy? Cô đã nhìn thấy cái gì đó đúng không?” Ông hơi cúi người ra phía trước và hạ thấp giọng.
“Chỉ là thoáng qua.”
“Thoáng qua cái gì?”
“Tôi không chắc, một loại hộp kính.”
“Cô muốn nói là một cái bể chứa?”
“Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái gì giống như vậy.” Tôi nhả một bụm khói vào không khí. Bây giờ tôi mới để ý những đám mây đang in hình trên khung cửa sổ bằng kính của hành lang. Jason đang ngủ trong phòng của tôi, nằm ngửa trên tấm đệm. Tôi có thể hình dung ra tư thế nằm ngủ của anh trong đầu tôi. Tôi có thể nhớ lại tất cả những chi tiết đó, cách anh khoanh tay trước ngực, hơi thở đều đặn của anh.
“Thế vườn thú thì sao?”
“Vườn thú á?” Tôi nhìn ông.
“Phải, thế cô có nhìn thấy cái gì giống như thế ở vườn thú không? Cái gì đó giống như hộp kính có điều hòa nhiệt độ?”
“Tôi không biết.”
“Nó có máy đo không? Để điều phối không khí bên trong, hay các dụng cụ như nhiệt kế, máy đo độ ẩm?”
“Tôi không biết. Đó là…”
“Là gì? Cô nói là cô nhìn thấy cái gì bên trong cái hộp kính đó.” Sử Trùng Minh nhổm người ra phía trước, nhìn tôi chăm chú.
Tôi chớp mắt nhìn ông. Ông đã nhầm. Tôi không hề nói thế.
“Có thể là cái gì đó… lớn chừng này.” Ông nói và giơ hai tay ra để diễn tả một vật có kích thước của một con mèo nhỏ.
“Không, tôi không nhìn thấy gì cả.”
Sử Trùng Minh mím chặt miệng lại và nhìn tôi một lúc lâu, nét mặt không hề thay đổi. Tôi có thể nhìn thấy mồ hôi bắt đầu vã ra trên trán ông. Ông thò tay vào túi rút ra một chiếc khăn mùi soa lau trán. “Đúng vậy, tôi thấy là cô đã thay đổi ý định, có đúng không?” Ông cất chiếc khăn mùi soa trở lại vào túi rồi thở dài nói.
Tôi búng tàn thuốc xuống đất và cau mày nhìn ông.
“Tôi đã tốn biết bao thời gian cho cô và giờ đây cô thay đổi ý định.”
Ông ra về bằng cửa chính và tôi trở về phòng của mình. Hai chị em sinh đôi đang quanh quẩn trong nhà nấu nướng và chành chọe nhau. Trong khi tôi nói chuyện với Sử Trùng Minh thì Jason đã đến quán One Stop Best Friend Bento mua cơm, cá và dưa góp. Khi tôi bước vào phòng thì anh đang nằm trên đệm đợi tôi, thức ăn bày trên bàn trang điểm cùng với một chai rượu mận và hai chiếc ly xinh xắn màu tím nhạt. Tôi khóa cửa và bước tới bên tấm đệm, vừa đi vừa cởi áo khoác.
“Thế nào? Ông bạn già đó là ai vậy?”
Tôi quỳ xuống ngay trước mặt anh. Tôi chỉ mặc độc chiếc áo ngủ mà không mặc quần nịt. Anh tách hai đầu gối của tôi ra và luồn tay vào giữa hai đùi tôi. Cả hai chúng tôi đều nhìn xuống khoảng da thịt mà anh vừa khai phá. Tôi nghĩ chúng hơi cổ điển, không giống như vẻ đẹp hiện đại bây giờ. Không hiểu sao Jason lại thích chúng đến thế.
“Ông bạn ở trong vườn là ai đấy?”
“Một người ở trường đại học.”
“Ông ta nhìn em như thể em đang nói những điều có cánh.”
“Không hẳn thế. Bọn em nói về công trình nghiên cứu của ông ấy. Không thể gọi đó là những lời có cánh.”
“Tốt. Anh không muốn em nói những lời có cánh với bất cứ ai. Em ở với ông ta quá lâu.”
“Quá lâu ư?”
“Đúng vậy.” Anh nói và xòe tay ra trước mặt tôi. “Thấy không?”
“Thấy gì?”
Anh từ từ gập những ngón tay vào lòng bàn tay, ánh đèn lờ mờ trong phòng lấp lánh trên những móng tay gẫy. Tôi nhìn những ngón tay của anh như bị thôi miên. Chúng từ từ vươn ra từ lòng bàn tay, nhẹ nhàng bay vào không khí, ngang dưới mắt tôi, rồi vỗ cánh như một con chim, bay chệnh choạng rồi bổ nhào xuống. Đó là con sếu ma thuật của Sử Trùng Minh. Con sếu của quá khứ.
“Anh theo dõi bọn em,” tôi nói, mắt vẫn không rời khỏi bàn tay giả làm con sếu của anh. “Lần gần đây nhất.”
Anh cười rồi làm con chim bay xuống một cách chậm rãi và duyên dáng. Con chim uốn lượn, bay lên rồi lại chao xuống. Tay anh giơ lên hạ xuống, uốn lượn, miệng huýt sáo. Đột nhiên, con chim quay đầu và bay tới trước mặt tôi, những ngón tay của anh chĩa ra phía trước, nhắm thẳng mặt tôi vỗ cánh. Tôi bật người ra sau, thở gấp.
“Đừng làm thế!” Tôi nói. “Đừng.”
Anh vẫn cười. Anh ngồi dậy, túm lấy tay tôi kéo lại gần. “Em có thích thế không?”
“Anh đang chọc em.”
“Chọc em à? Không. Anh không chọc em. Anh biết thế nào là nghiên cứu khoa học.”
“Không.” Tôi cố cưỡng lại vòng tay của anh. “Em không hiểu nổi anh nữa.”
“Em sẽ không làm nên trò trống gì đâu.” Anh cười và dịu dàng kéo tôi lại gần hơn nữa, thả đầu xuống tấm nệm cầm lấy tay tôi đưa lên miệng, dùng lưỡi liếm lòng bàn tay tôi rồi cắn nhẹ vào đó. “Em sẽ không làm nên trò trống gì nếu cứ giả vờ trước mặt anh.”
Tôi nhìn hàm răng trắng muốt và sạch bóng của anh, thán phục sự khỏe khoắn và sạch sẽ của chúng. “Em không giả vờ,” tôi lẩm bẩm.
“Em lại quên rồi đúng không?” Anh luồn hai tay vào giữa khe đùi, vuốt ve chỗ kín của tôi, mắt không rời khỏi gương mặt tôi. Tôi khẽ chạm tay lên môi anh khi anh nói: “Em lại quên rằng anh chỉ cần nhìn em là anh biết hết mọi thứ, mọi thứ đang diễn ra trong đầu em.”