Trời càng về trưa càng lạnh và có vẻ như muốn mưa. Trên phố, xe ôtô xếp thành từng dãy dài trước đèn đỏ, cửa kính đóng chặt, hơi nước bốc lên nghi ngút. Gió xoáy vào từng góc phố, tưởng như mất hút rồi bỗng chốc lại ùa ra, cuốn phăng mọi thứ trên đường đi và ném chúng vào các ga tàu điện ngầm. Tôi xuống tàu đoạn gần nhà Fuyuki, vừa siết chặt áo khoác vừa rảo bước, lấy tòa tháp Tokyo màu trắng đỏ sừng sững giữa trời làm cột mốc dẫn đường, băng qua một loạt những đường phố xa lạ với rất nhiều nhà hàng và tiệm mì nhỏ. Khi đi qua một khu chợ bán buôn có tên là Meat Rush, tôi bước chậm lại và nhìn chòng chọc vào bãi để xe nơi khách hàng đang chất những đống chân giò nặng tới mười kí vào trong những chiếc ôtô. Thịt. Cả người Nhật và người Trung Quốc đều trải qua một thời kì mà thứ protein duy nhất người ta có được là nhờ ăn những con nhộng, châu chấu, rắn, ếch và chuột. Bây giờ, họ có cả những khu chợ bán buôn tên là Meat Rush.
Thịt, tôi nghĩ, dừng chân trước hàng rào sắt bên ngoài căn hộ của Fuyuki. Thịt. Một gara ôtô để mở và một người đàn ông mặc quần yếm công nhân đang đánh bóng một trong những chiếc xe hơi màu đen của Fuyuki. Cửa xe mở toang, chìa khóa tra trong ổ và chiếc đài trên xe hình như đang phát một bài hát của Beatles. Một người làm vườn đang dùng vòi phun nước để làm sạch lối đi. Tôi bám vào các thanh sắt trên hàng rào và thò đầu vào nhìn khu căn hộ. Tất cả các cửa sổ đều lắp kính đen. Chẳng nhìn thấy gì ngoài bóng của những đám mây lạnh lẽo. Sử Trùng Minh cho rằng dù là gì đi nữa thì thứ mà Fuyuki giấu trong căn hộ của ông ta cũng cần được bảo quản kỹ càng. Nhất là khi việc tìm kiếm nguồn thuốc thay thế rất nguy hiểm hoặc vô cùng khó khăn…
Có một trạm điện thoại ngay phía đối diện khu nhà nên tôi đi tới đó, chui vào trong và thấy ảnh của các cô gái Nhật mặc quần lót được gài khắp nơi phía sau hộp đút tiền. Tôi lục ví và lôi ra tấm danh thiếp của Fuyuki. Cây Mùa đông. Cây Mùa đông. Tôi gạt mấy sợi tóc vương trên mặt rồi quay số của ông ta, cắn móng tay chờ đợi. Rồi tôi nghe thấy một tiếng click và giọng một phụ nữ Nhật trả lời: “Xin lỗi, số máy này hiện không liên lạc được. Xin vui lòng kiểm tra và gọi lại sau.”
Phía bên trong tòa nhà, người làm vườn bắt đầu cuộn vòi nước lại. Nước chảy tràn xuống những luống hoa, nơi những cây cải bắp dùng để trang trí được buộc chặt lại để tạo dáng và khỏi nở bung trong suốt mùa đông. Tôi gác máy, nhét tấm danh thiếp vào túi và trở về nhà. Tối nay người ta sẽ giao đồ uống mà Mama Strawberry đặt riêng.
Những ngày như thế này Mama Strawberry thường khá vui vẻ và dễ dãi. Tối nay tôi nhất định sẽ phải hỏi lại là tại sao bà ta bảo tôi không nên ăn gì ở nhà Fuyuki.
Khi tôi gặp lại Jason tại hộp đêm tối hôm đó, giữa chúng tôi dường như không có chuyện gì xảy ra. Tôi đang kiểm tra lại lớp trang điểm trong phòng thay đồ thì anh ta đi qua và dừng lại nói: “Anh biết em cần gì và anh biết làm thế nào để em thấy dễ chịu hơn.” Rồi anh ta chỉ tay vào bụng tôi, nháy mắt với vẻ ranh mãnh: “Em chỉ cần làm thế nào để vượt qua nỗi thất vọng cỏn con ấy là được. Chúng ta sẽ tìm ra cách giải quyết khi chúng ta về nhà.” Khi anh ta đi khỏi, tôi nhìn lại mình trong gương và ngạc nhiên khi thấy rằng tôi chẳng có cảm giác gì. Không gì cả. Có cái gì đó thật ghê gớm trong việc tôi đột nhiên có khả năng trở lại chính mình một cách nhanh chóng đến vậy. Chắc là nhờ thực hành.
Đó là một buổi tối rất lạ lùng. Tôi không chuyện trò gì mấy với khách hàng. Các nữ tiếp viên thỉnh thoảng lại hỏi xem tôi có được khỏe không. Thỉnh thoảng khi các cuộc đối thoại lắng xuống, tôi lại bắt gặp Jason đang đứng ở quầy bar, nhìn tôi chằm chằm với một vẻ hết sức tự tin. Có một lần, anh ta khẽ nhướng mày và mấp máy môi nói gì đó mà tôi không hiểu. Tôi không đáp lại.
Mama Strawberry nhấm nháp tequila suốt buổi tối. Tôi quan sát bà bằng đuôi mắt, thấy bà châm thuốc rồi lại quên bẵng mất, để chúng lụi dần đi trong gạt tàn. Bà ta hay ngồi vắt vẻo trên đầu gối khách hàng và mỗi khi bước đi là lại đong đưa từ bên này sang bên kia. Trong một lúc nghỉ chờ khách, tôi đi tới bên bàn của Strawberry và ngồi xuống trước mặt bà. “Strawberry, tôi vẫn cần phải biết. Tôi cần phải biết bà đã nghe những chuyện gì về Fuyuki.”
“Suỵt!” Bà ta rít lên, ném một cái nhìn rờn rợn về phía tôi, đôi mắt kính áp tròng màu xanh da trời của bà ta hút lấy ánh đèn từ các tòa nhà chọc trời bên ngoài và phản chiếu thành những tia lấp lánh như kim cương. “Cô hãy quên đi tất cả những gì mà Strawberry nói. Được không. Tất cả.”
“Tôi không tài nào quên được. Tại sao bà lại bảo tôi không được ăn bất cứ thứ gì?”
Bà ta nuốt thêm một ngụm tequila và lập cập nhét một điếu thuốc vào chiếc đót nhưng phải tới lần thứ ba, thứ tư mới thành công. Bà ta châm thuốc, đôi mắt ướt rượt nhìn khắp mặt tôi. “Nghe này,” cuối cùng bà ta lên tiếng, giọng nhẹ nhàng và rất khác lạ. “Tôi sẽ kể cho cô nghe một chuyện. Tôi sẽ kể cho cô nghe về mẹ của Strawberry.”
“Tôi không muốn nghe chuyện về mẹ của…”
“Mẹ của Strawberry,” bà ta điềm tĩnh nói. “Một người phụ nữ rất thú vị. Khi bà ấy còn là một bé gái, nhỏ bằng chừng này này, thì ở Tokyo, mọi người không có gì để ăn.” Tôi mở miệng định ngắt lời thì bà ta giơ tay lên để ra hiệu cho tôi im lặng. Giọng bà ta căng thẳng, như đang tập trung cao độ, mắt đảo xung quanh một điểm nào đó phía trên đầu tôi. “Cô biết chuyện đó chứ, Grey? Tất cả mọi người đều bị đói.”
“Tôi biết. Người ta chết vì đói.”
“Đúng. Đúng. Chết đói. Thật khủng khiếp. Nhưng rồi đã xảy ra một chuyện. Đối với mẹ tôi, đó là một chuyện kỳ diệu. Các khu chợ của yakuza đột nhiên xuất hiện.”
“Các khu chợ đen.”
“Không ai ở Tokyo gọi đó là đen. Họ gọi đó là xanh. Những khu chợ Trời Xanh.” Bà ta đột nhiên mỉm cười mơ hồ, hai tay dang ra như thể đang miêu tả cảnh mặt trời mọc. “Gọi là Trời Xanh vì đó là nơi duy nhất ở Tokyo không có mây. Nơi duy nhất ở Tokyo có thức ăn.” Bà ta nhìn ra ngoài cửa sổ, qua chiếc xích đu của Marilyn. Tối hôm đó trời mưa. Hệ thống đèn neon từ tòa nhà Yotsuya Sanchome kêu phùn phụt hắt những chùm ánh sáng yếu ớt xuống đường phố ẩm ướt phía dưới hàng trăm mét. Trong màn mưa, chân trời bỗng hiện ra thấp thoáng, lung linh như một bức tranh minh họa trong chuyện cổ tích. “Cái chợ to nhất nằm ở phía đó.” Bà ta chỉ ra phía ngoài trời đêm. “Ở Shinjuku. Ánh sáng bao trùm Shinjuku.”
Tôi có đọc về khu chợ do mafia điều hành ở Shinjuku. Tôi vẫn luôn tưởng tượng đó là một nơi kỳ diệu giữa thành phố Tokyo điêu tàn vì bom đạn với tấm biển hiệu được làm từ hàng trăm ngọn đèn có thể nhìn thấy từ xa hàng cây số tỏa sáng lấp lánh trên những mái nhà cháy đen của thành phố như mặt trăng treo trên rừng thẳm. Ở đó có những gian hàng bán thịt cá voi đóng hộp, xúc xích hải cẩu, đường, và hẳn phải có không khí của một lễ hội đường phố với những chiếc đèn lồng treo trên cây, tiếng than reo vui trong lửa và những người đàn ông đứng dựa vào các quầy hàng, uống rượu kasutori và nhổ phì phì xuống đất. Hồi đó, kasutori là thứ duy nhất có thể tìm thấy ở Tokyo để uống thay sake, người ta nói rằng uống tới ly thứ ba có thể sẽ bị mù nhưng ai thèm quan tâm tới chuyện đó cơ chứ. Mù một tí thì ăn thua gì khi mà mọi người đều đang hấp hối cả?
“Mẹ của Strawberry rất thích khu chợ Trời Xanh. Bà ấy thường cùng những đứa trẻ khác tới đó để xem chiếc xe hơi của ông trùm yakuza. Đó là chiếc ôtô duy nhất mà người ta thấy ở Tokyo thời đó và đối với mẹ tôi, Trời Xanh là một nơi giống như thiên đàng. Ở đó bà ấy có thể mua quần áo, bánh mì và món thịt hầm zanpan.” Strawberry ngừng lại và nhìn tôi. “Grey-san có biết món thịt hầm zanpan là gì không?”
“Không ạ.”
“Thức ăn thừa. Nấu từ những gì lính Mỹ bỏ lại. Từ bếp ăn của họ. Thật ra trong món đó chả có nhiều thịt lắm. Nếu yakuza cho thêm thịt vào đó thì họ sẽ lấy thêm tiền. Tất cả chỉ xoay quanh tiền và tiền.” Bà ta bắt chước tiếng động sột soạt khi người ta nhét tiền vào ngăn kéo. “Tiền và tiền. Vậy là yakuza vào sâu trong đất liền, tới Gumma và Kanagawa, và lấy trộm thịt của nông dân…” Bà ta ngước mắt lên nhìn tôi. Đột nhiên trông bà ta trẻ hẳn ra, như một đứa bé con ngồi trước mặt tôi, hai tay khoanh lại trên bàn vẻ hối lỗi.
“Gì cơ? Bà định nói gì?”
“Zanpan.” Bà ta nói khẽ, đôi môi tô son đỏ bóng nhẫy khẽ rung lên. “Đó là thứ tôi muốn kể cho Grey-san. Mẹ của Strawberry đã phát hiện ra một thứ rất kỳ lạ trong cái món zanpan mua ở chợ Shinjuku.”
“Kỳ lạ?” Tôi thì thào hỏi lại.
“Grey-san có biết ai điều hành chợ Ánh sáng bao trùm Shinjuku không? Là băng Fuyuki.”
“Thế mẹ bà đã tìm thấy cái gì trong món thịt hầm đó?”
“Những miếng mỡ có mùi vị rất kinh khủng. Không bình thường. Và cả những mẩu xương nữa.” Bà ta nói, gần như không thành tiếng. Bà ta hơi nhoài ra phía trước, nhìn tôi mắt long lanh. “Những đoạn xương rất dài, dài hơn xương lợn và to hơn xương bò.” Trong đôi mắt của bà ta có cái gì đó u uất, như thể đang thấy lại những hình ảnh mà bà ta vốn lấy làm hổ thẹn. Phía sau lưng bà ta, ngoài cửa sổ, nàng Marilyn vẫn đung đưa từ phía trước ra phía sau, như đang bay vào chiếc màn hình vô tuyến quảng cáo sáng đèn của tòa nhà đối diện.
“Thế con vật gì mà lại có xương dài như thế?” Tôi hỏi.
Bà ta nheo mắt và ném cho tôi một nụ cười mỉa, gượng gạo. “Ở chợ Trời Xanh, người ta có thể mua được bất cứ thứ gì. Kể cả oshaka.”
Oshaka, tôi đã đọc thấy từ này ở đâu đó. Oshaka.
Strawberry đang định nói tiếp thì chiếc thang máy pha lê đổ chuông báo hiệu có khách vừa lên khiến cả hai chúng tôi giật mình quay lại nhìn về phía cánh cửa vừa mở tung ra và thấy cái dáng gù gù, lừ đừ không lẫn vào đâu được của mụ Y Tá đang di chuyển trong tiền sảnh, đầu mụ hơi cúi xuống để cho mái tóc bóng lộn che khuất gương mặt. Mụ ta mặc một chiếc áo mưa màu nâu vàng, găng tay cùng màu và rõ ràng là đang đợi ai đó tới nghênh đón.
Strawberry đứng vụt dậy, nhanh như điện, mặt biến sắc dưới lớp son phấn. “Chết tiệt! Cô có nhìn thấy mụ ta tới không?” Bà ta rít lên.
“Không ạ.” Tôi không rời khỏi mắt mụ Y Tá nhưng vẫn cố nhoài người qua bàn sang phía Strawberry và thì thầm vội vã: “Bà nói oshaka nghĩa là gì? Oshaka là cái gì?”
“Suỵt.” Bà ta nói và khẽ rùng mình rụt người lại trong chiếc áo khoác như thể vừa bị giội nước lạnh vào lưng. “Đừng có nói to thế. Ngậm miệng lại ngay. Ở đây không an toàn.”
Fuyuki cử mụ Y Tá tới để chọn một số tiếp viên cho bữa tiệc tại nhà ông ta. Tin tức chẳng mấy chốc lan khắp hộp đêm. Tôi vẫn ngồi bên chiếc bàn mạ vàng của Mama Strawberry, quan sát mụ Y Tá đang trao đổi khẽ với bà ta. Mama Strawberry vừa đứng vừa ghi lại tên các nữ tiếp viên, mặt tối sầm, đầu cúi gằm, vẻ nhẫn nhục. Một lúc sau mụ Y Tá chỉ vào bên trong hộp đêm và nói gì đó. Chiếc bút nhỏ bằng vàng của Mama Strawberry như khựng lại, trượt ra ngoài trang giấy ghi chép. Mắt bà ta lướt qua tôi, và tôi có cảm giác như bà ta định nói gì đó. Nhưng cuối cùng bà ta lại thay đổi ý định, mím chặt môi và viết thêm một cái tên nữa vào danh sách.
“Em đã được chọn,” Jason lướt tới bên bàn và bảo tôi. Vẫn chưa tới giờ đóng cửa nhưng anh ta đã tháo chiếc nơ cà vạt và tay cầm một điếu thuốc. Anh ta đăm chiêu nhìn về phía mụ Y Tá. “Một bữa tiệc nữa. Không thể nào tốt hơn với chúng ta.” Khi thấy tôi không trả lời, anh ta lại thì thào: “Hãy nhìn đôi giày gót nhọn của mụ ta. Em có hiểu anh đang nói gì không?” Mắt anh chậm rãi di chuyển từ chân, tới đùi rồi tới chiếc váy bó sát của mụ ta. “Mụ ta đã mang đến cho anh những ý tưởng lớn, cô bé lập dị ạ. Những ý tưởng mà chắc chắn em sẽ rất khoái.”
Anh ta bỏ đi để bắt kịp mụ Y Tá phía bên ngoài chiếc thang máy pha lê. Anh ta đứng rất gần mụ, mặt anh ta sát vào mặt mụ. Trông mụ ta có vẻ im lặng một cách bất thường khi mụ nghe anh ta nói. Tôi không thể rời mắt khỏi đôi tay đeo găng dài ngoẵng của mụ.
“Cô có nghĩ là anh ta sẽ thò tay vào trong váy của Ogawa không?”
Mama Strawberry quay lại ghé sát vào tai tôi nói, mắt vẫn nhìn về phía Jason. Tôi có thể ngửi thấy mùi tequila trong hơi thở của bà ta. “Cá với tôi đi nào, Grey. Cá là khi anh ta thò tay vào trong váy của Cô Ogawa thì anh ta sẽ tìm thấy cái gì? Hả?” Bà ta loạng choạng túm lấy tay tôi để giữ thăng bằng vì đã ngà ngà say. “Hả? Nếu cô hỏi Strawberry, thì Jason sẽ tìm thấy một cái chin chin trong quần lót của mụ ta. Nếu cô hỏi Strawberry, thì Ogawa trông giống như một người đàn ông.”
“Strawberry, thịt ở trong zanpan là thịt gì?”
Bà ta níu chặt tay tôi và rít lên: “Đừng có quên đấy, tất cả chỉ là tin đồn thôi. Chớ có nhắc lại với ai.”
Trời càng về trưa càng lạnh và có vẻ như muốn mưa. Trên phố, xe ôtô xếp thành từng dãy dài trước đèn đỏ, cửa kính đóng chặt, hơi nước bốc lên nghi ngút. Gió xoáy vào từng góc phố, tưởng như mất hút rồi bỗng chốc lại ùa ra, cuốn phăng mọi thứ trên đường đi và ném chúng vào các ga tàu điện ngầm. Tôi xuống tàu đoạn gần nhà Fuyuki, vừa siết chặt áo khoác vừa rảo bước, lấy tòa tháp Tokyo màu trắng đỏ sừng sững giữa trời làm cột mốc dẫn đường, băng qua một loạt những đường phố xa lạ với rất nhiều nhà hàng và tiệm mì nhỏ. Khi đi qua một khu chợ bán buôn có tên là Meat Rush, tôi bước chậm lại và nhìn chòng chọc vào bãi để xe nơi khách hàng đang chất những đống chân giò nặng tới mười kí vào trong những chiếc ôtô. Thịt. Cả người Nhật và người Trung Quốc đều trải qua một thời kì mà thứ protein duy nhất người ta có được là nhờ ăn những con nhộng, châu chấu, rắn, ếch và chuột. Bây giờ, họ có cả những khu chợ bán buôn tên là Meat Rush.
Thịt, tôi nghĩ, dừng chân trước hàng rào sắt bên ngoài căn hộ của Fuyuki. Thịt. Một gara ôtô để mở và một người đàn ông mặc quần yếm công nhân đang đánh bóng một trong những chiếc xe hơi màu đen của Fuyuki. Cửa xe mở toang, chìa khóa tra trong ổ và chiếc đài trên xe hình như đang phát một bài hát của Beatles. Một người làm vườn đang dùng vòi phun nước để làm sạch lối đi. Tôi bám vào các thanh sắt trên hàng rào và thò đầu vào nhìn khu căn hộ. Tất cả các cửa sổ đều lắp kính đen. Chẳng nhìn thấy gì ngoài bóng của những đám mây lạnh lẽo. Sử Trùng Minh cho rằng dù là gì đi nữa thì thứ mà Fuyuki giấu trong căn hộ của ông ta cũng cần được bảo quản kỹ càng. Nhất là khi việc tìm kiếm nguồn thuốc thay thế rất nguy hiểm hoặc vô cùng khó khăn…
Có một trạm điện thoại ngay phía đối diện khu nhà nên tôi đi tới đó, chui vào trong và thấy ảnh của các cô gái Nhật mặc quần lót được gài khắp nơi phía sau hộp đút tiền. Tôi lục ví và lôi ra tấm danh thiếp của Fuyuki. Cây Mùa đông. Cây Mùa đông. Tôi gạt mấy sợi tóc vương trên mặt rồi quay số của ông ta, cắn móng tay chờ đợi. Rồi tôi nghe thấy một tiếng click và giọng một phụ nữ Nhật trả lời: “Xin lỗi, số máy này hiện không liên lạc được. Xin vui lòng kiểm tra và gọi lại sau.”
Phía bên trong tòa nhà, người làm vườn bắt đầu cuộn vòi nước lại. Nước chảy tràn xuống những luống hoa, nơi những cây cải bắp dùng để trang trí được buộc chặt lại để tạo dáng và khỏi nở bung trong suốt mùa đông. Tôi gác máy, nhét tấm danh thiếp vào túi và trở về nhà. Tối nay người ta sẽ giao đồ uống mà Mama Strawberry đặt riêng.
Những ngày như thế này Mama Strawberry thường khá vui vẻ và dễ dãi. Tối nay tôi nhất định sẽ phải hỏi lại là tại sao bà ta bảo tôi không nên ăn gì ở nhà Fuyuki.
Khi tôi gặp lại Jason tại hộp đêm tối hôm đó, giữa chúng tôi dường như không có chuyện gì xảy ra. Tôi đang kiểm tra lại lớp trang điểm trong phòng thay đồ thì anh ta đi qua và dừng lại nói: “Anh biết em cần gì và anh biết làm thế nào để em thấy dễ chịu hơn.” Rồi anh ta chỉ tay vào bụng tôi, nháy mắt với vẻ ranh mãnh: “Em chỉ cần làm thế nào để vượt qua nỗi thất vọng cỏn con ấy là được. Chúng ta sẽ tìm ra cách giải quyết khi chúng ta về nhà.” Khi anh ta đi khỏi, tôi nhìn lại mình trong gương và ngạc nhiên khi thấy rằng tôi chẳng có cảm giác gì. Không gì cả. Có cái gì đó thật ghê gớm trong việc tôi đột nhiên có khả năng trở lại chính mình một cách nhanh chóng đến vậy. Chắc là nhờ thực hành.
Đó là một buổi tối rất lạ lùng. Tôi không chuyện trò gì mấy với khách hàng. Các nữ tiếp viên thỉnh thoảng lại hỏi xem tôi có được khỏe không. Thỉnh thoảng khi các cuộc đối thoại lắng xuống, tôi lại bắt gặp Jason đang đứng ở quầy bar, nhìn tôi chằm chằm với một vẻ hết sức tự tin. Có một lần, anh ta khẽ nhướng mày và mấp máy môi nói gì đó mà tôi không hiểu. Tôi không đáp lại.
Mama Strawberry nhấm nháp tequila suốt buổi tối. Tôi quan sát bà bằng đuôi mắt, thấy bà châm thuốc rồi lại quên bẵng mất, để chúng lụi dần đi trong gạt tàn. Bà ta hay ngồi vắt vẻo trên đầu gối khách hàng và mỗi khi bước đi là lại đong đưa từ bên này sang bên kia. Trong một lúc nghỉ chờ khách, tôi đi tới bên bàn của Strawberry và ngồi xuống trước mặt bà. “Strawberry, tôi vẫn cần phải biết. Tôi cần phải biết bà đã nghe những chuyện gì về Fuyuki.”
“Suỵt!” Bà ta rít lên, ném một cái nhìn rờn rợn về phía tôi, đôi mắt kính áp tròng màu xanh da trời của bà ta hút lấy ánh đèn từ các tòa nhà chọc trời bên ngoài và phản chiếu thành những tia lấp lánh như kim cương. “Cô hãy quên đi tất cả những gì mà Strawberry nói. Được không. Tất cả.”
“Tôi không tài nào quên được. Tại sao bà lại bảo tôi không được ăn bất cứ thứ gì?”
Bà ta nuốt thêm một ngụm tequila và lập cập nhét một điếu thuốc vào chiếc đót nhưng phải tới lần thứ ba, thứ tư mới thành công. Bà ta châm thuốc, đôi mắt ướt rượt nhìn khắp mặt tôi. “Nghe này,” cuối cùng bà ta lên tiếng, giọng nhẹ nhàng và rất khác lạ. “Tôi sẽ kể cho cô nghe một chuyện. Tôi sẽ kể cho cô nghe về mẹ của Strawberry.”
“Tôi không muốn nghe chuyện về mẹ của…”
“Mẹ của Strawberry,” bà ta điềm tĩnh nói. “Một người phụ nữ rất thú vị. Khi bà ấy còn là một bé gái, nhỏ bằng chừng này này, thì ở Tokyo, mọi người không có gì để ăn.” Tôi mở miệng định ngắt lời thì bà ta giơ tay lên để ra hiệu cho tôi im lặng. Giọng bà ta căng thẳng, như đang tập trung cao độ, mắt đảo xung quanh một điểm nào đó phía trên đầu tôi. “Cô biết chuyện đó chứ, Grey? Tất cả mọi người đều bị đói.”
“Tôi biết. Người ta chết vì đói.”
“Đúng. Đúng. Chết đói. Thật khủng khiếp. Nhưng rồi đã xảy ra một chuyện. Đối với mẹ tôi, đó là một chuyện kỳ diệu. Các khu chợ của yakuza đột nhiên xuất hiện.”
“Các khu chợ đen.”
“Không ai ở Tokyo gọi đó là đen. Họ gọi đó là xanh. Những khu chợ Trời Xanh.” Bà ta đột nhiên mỉm cười mơ hồ, hai tay dang ra như thể đang miêu tả cảnh mặt trời mọc. “Gọi là Trời Xanh vì đó là nơi duy nhất ở Tokyo không có mây. Nơi duy nhất ở Tokyo có thức ăn.” Bà ta nhìn ra ngoài cửa sổ, qua chiếc xích đu của Marilyn. Tối hôm đó trời mưa. Hệ thống đèn neon từ tòa nhà Yotsuya Sanchome kêu phùn phụt hắt những chùm ánh sáng yếu ớt xuống đường phố ẩm ướt phía dưới hàng trăm mét. Trong màn mưa, chân trời bỗng hiện ra thấp thoáng, lung linh như một bức tranh minh họa trong chuyện cổ tích. “Cái chợ to nhất nằm ở phía đó.” Bà ta chỉ ra phía ngoài trời đêm. “Ở Shinjuku. Ánh sáng bao trùm Shinjuku.”
Tôi có đọc về khu chợ do mafia điều hành ở Shinjuku. Tôi vẫn luôn tưởng tượng đó là một nơi kỳ diệu giữa thành phố Tokyo điêu tàn vì bom đạn với tấm biển hiệu được làm từ hàng trăm ngọn đèn có thể nhìn thấy từ xa hàng cây số tỏa sáng lấp lánh trên những mái nhà cháy đen của thành phố như mặt trăng treo trên rừng thẳm. Ở đó có những gian hàng bán thịt cá voi đóng hộp, xúc xích hải cẩu, đường, và hẳn phải có không khí của một lễ hội đường phố với những chiếc đèn lồng treo trên cây, tiếng than reo vui trong lửa và những người đàn ông đứng dựa vào các quầy hàng, uống rượu kasutori và nhổ phì phì xuống đất. Hồi đó, kasutori là thứ duy nhất có thể tìm thấy ở Tokyo để uống thay sake, người ta nói rằng uống tới ly thứ ba có thể sẽ bị mù nhưng ai thèm quan tâm tới chuyện đó cơ chứ. Mù một tí thì ăn thua gì khi mà mọi người đều đang hấp hối cả?
“Mẹ của Strawberry rất thích khu chợ Trời Xanh. Bà ấy thường cùng những đứa trẻ khác tới đó để xem chiếc xe hơi của ông trùm yakuza. Đó là chiếc ôtô duy nhất mà người ta thấy ở Tokyo thời đó và đối với mẹ tôi, Trời Xanh là một nơi giống như thiên đàng. Ở đó bà ấy có thể mua quần áo, bánh mì và món thịt hầm zanpan.” Strawberry ngừng lại và nhìn tôi. “Grey-san có biết món thịt hầm zanpan là gì không?”
“Không ạ.”
“Thức ăn thừa. Nấu từ những gì lính Mỹ bỏ lại. Từ bếp ăn của họ. Thật ra trong món đó chả có nhiều thịt lắm. Nếu yakuza cho thêm thịt vào đó thì họ sẽ lấy thêm tiền. Tất cả chỉ xoay quanh tiền và tiền.” Bà ta bắt chước tiếng động sột soạt khi người ta nhét tiền vào ngăn kéo. “Tiền và tiền. Vậy là yakuza vào sâu trong đất liền, tới Gumma và Kanagawa, và lấy trộm thịt của nông dân…” Bà ta ngước mắt lên nhìn tôi. Đột nhiên trông bà ta trẻ hẳn ra, như một đứa bé con ngồi trước mặt tôi, hai tay khoanh lại trên bàn vẻ hối lỗi.
“Gì cơ? Bà định nói gì?”
“Zanpan.” Bà ta nói khẽ, đôi môi tô son đỏ bóng nhẫy khẽ rung lên. “Đó là thứ tôi muốn kể cho Grey-san. Mẹ của Strawberry đã phát hiện ra một thứ rất kỳ lạ trong cái món zanpan mua ở chợ Shinjuku.”
“Kỳ lạ?” Tôi thì thào hỏi lại.
“Grey-san có biết ai điều hành chợ Ánh sáng bao trùm Shinjuku không? Là băng Fuyuki.”
“Thế mẹ bà đã tìm thấy cái gì trong món thịt hầm đó?”
“Những miếng mỡ có mùi vị rất kinh khủng. Không bình thường. Và cả những mẩu xương nữa.” Bà ta nói, gần như không thành tiếng. Bà ta hơi nhoài ra phía trước, nhìn tôi mắt long lanh. “Những đoạn xương rất dài, dài hơn xương lợn và to hơn xương bò.” Trong đôi mắt của bà ta có cái gì đó u uất, như thể đang thấy lại những hình ảnh mà bà ta vốn lấy làm hổ thẹn. Phía sau lưng bà ta, ngoài cửa sổ, nàng Marilyn vẫn đung đưa từ phía trước ra phía sau, như đang bay vào chiếc màn hình vô tuyến quảng cáo sáng đèn của tòa nhà đối diện.
“Thế con vật gì mà lại có xương dài như thế?” Tôi hỏi.
Bà ta nheo mắt và ném cho tôi một nụ cười mỉa, gượng gạo. “Ở chợ Trời Xanh, người ta có thể mua được bất cứ thứ gì. Kể cả oshaka.”
Oshaka, tôi đã đọc thấy từ này ở đâu đó. Oshaka.
Strawberry đang định nói tiếp thì chiếc thang máy pha lê đổ chuông báo hiệu có khách vừa lên khiến cả hai chúng tôi giật mình quay lại nhìn về phía cánh cửa vừa mở tung ra và thấy cái dáng gù gù, lừ đừ không lẫn vào đâu được của mụ Y Tá đang di chuyển trong tiền sảnh, đầu mụ hơi cúi xuống để cho mái tóc bóng lộn che khuất gương mặt. Mụ ta mặc một chiếc áo mưa màu nâu vàng, găng tay cùng màu và rõ ràng là đang đợi ai đó tới nghênh đón.
Strawberry đứng vụt dậy, nhanh như điện, mặt biến sắc dưới lớp son phấn. “Chết tiệt! Cô có nhìn thấy mụ ta tới không?” Bà ta rít lên.
“Không ạ.” Tôi không rời khỏi mắt mụ Y Tá nhưng vẫn cố nhoài người qua bàn sang phía Strawberry và thì thầm vội vã: “Bà nói oshaka nghĩa là gì? Oshaka là cái gì?”
“Suỵt.” Bà ta nói và khẽ rùng mình rụt người lại trong chiếc áo khoác như thể vừa bị giội nước lạnh vào lưng. “Đừng có nói to thế. Ngậm miệng lại ngay. Ở đây không an toàn.”
Fuyuki cử mụ Y Tá tới để chọn một số tiếp viên cho bữa tiệc tại nhà ông ta. Tin tức chẳng mấy chốc lan khắp hộp đêm. Tôi vẫn ngồi bên chiếc bàn mạ vàng của Mama Strawberry, quan sát mụ Y Tá đang trao đổi khẽ với bà ta. Mama Strawberry vừa đứng vừa ghi lại tên các nữ tiếp viên, mặt tối sầm, đầu cúi gằm, vẻ nhẫn nhục. Một lúc sau mụ Y Tá chỉ vào bên trong hộp đêm và nói gì đó. Chiếc bút nhỏ bằng vàng của Mama Strawberry như khựng lại, trượt ra ngoài trang giấy ghi chép. Mắt bà ta lướt qua tôi, và tôi có cảm giác như bà ta định nói gì đó. Nhưng cuối cùng bà ta lại thay đổi ý định, mím chặt môi và viết thêm một cái tên nữa vào danh sách.
“Em đã được chọn,” Jason lướt tới bên bàn và bảo tôi. Vẫn chưa tới giờ đóng cửa nhưng anh ta đã tháo chiếc nơ cà vạt và tay cầm một điếu thuốc. Anh ta đăm chiêu nhìn về phía mụ Y Tá. “Một bữa tiệc nữa. Không thể nào tốt hơn với chúng ta.” Khi thấy tôi không trả lời, anh ta lại thì thào: “Hãy nhìn đôi giày gót nhọn của mụ ta. Em có hiểu anh đang nói gì không?” Mắt anh chậm rãi di chuyển từ chân, tới đùi rồi tới chiếc váy bó sát của mụ ta. “Mụ ta đã mang đến cho anh những ý tưởng lớn, cô bé lập dị ạ. Những ý tưởng mà chắc chắn em sẽ rất khoái.”
Anh ta bỏ đi để bắt kịp mụ Y Tá phía bên ngoài chiếc thang máy pha lê. Anh ta đứng rất gần mụ, mặt anh ta sát vào mặt mụ. Trông mụ ta có vẻ im lặng một cách bất thường khi mụ nghe anh ta nói. Tôi không thể rời mắt khỏi đôi tay đeo găng dài ngoẵng của mụ.
“Cô có nghĩ là anh ta sẽ thò tay vào trong váy của Ogawa không?”
Mama Strawberry quay lại ghé sát vào tai tôi nói, mắt vẫn nhìn về phía Jason. Tôi có thể ngửi thấy mùi tequila trong hơi thở của bà ta. “Cá với tôi đi nào, Grey. Cá là khi anh ta thò tay vào trong váy của Cô Ogawa thì anh ta sẽ tìm thấy cái gì? Hả?” Bà ta loạng choạng túm lấy tay tôi để giữ thăng bằng vì đã ngà ngà say. “Hả? Nếu cô hỏi Strawberry, thì Jason sẽ tìm thấy một cái chin chin trong quần lót của mụ ta. Nếu cô hỏi Strawberry, thì Ogawa trông giống như một người đàn ông.”
“Strawberry, thịt ở trong zanpan là thịt gì?”
Bà ta níu chặt tay tôi và rít lên: “Đừng có quên đấy, tất cả chỉ là tin đồn thôi. Chớ có nhắc lại với ai.”