Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Ác Quỷ Nam Kinh

Chương 57

Tác giả: Mo Hyder

Tôi nhét cái gói vào trong áo rồi mò mẫm bò về phía trước, va vào các đồ vật trên đường đi, những tiếng động mà tôi gây ra trong cơn hoảng loạn dội lại từ các bức tường xung quanh tôi. Tôi lại bò từ phòng này sang phòng khác, không còn biết mình đang đi qua những cái gì; những chiếc áo kimono lặng ngắt như xác chết trong góc phòng, một chiếc bàn ăn với bữa tối đã dọn sẵn như thể mọi vật đã hóa đá khi bà mẹ của chủ nhà qua đời. Tôi đã vào rất sâu bên trong ngôi nhà, giữa bóng đêm bất tận cho đến lúc tôi nhận ra là mình không thể tiến thêm được nữa. Tôi đang đứng trong một gian bếp với một chiếc bồn rửa và một cái bếp lò kiểu phương Tây. Phía trước mặt tôi là một bức tường kín mít thay vì một cánh cửa dẫn sang một phòng khác như thường lệ. Không có lối ra. Tôi đã cùng đường.

Tóc tai dựng đứng cả lên vì sợ hãi, tôi chĩa đèn lên tường, lên những đám mạng nhện và đám vôi vữa trên trần. Ánh đèn rọi lên một chiếc tủ bếp làm bằng gỗ mỏng ở góc phòng. Tôi lại gần chiếc tủ, cào cấu vào cánh cửa đến trầy cả đầu ngón tay, chân tôi run lẩy bẩy trên sàn nhà. Cuối cùng cánh cửa tủ cũng bật ra kèm theo một tiếng rít vang tới tận các phòng phía sau.

Tôi soi đèn vào phía bên trong và phát hiện ra rằng đó không phải là một cái tủ bếp mà là một cánh cửa dẫn ra một đầu cầu thang mục nát, đâm thẳng vào khoảng không tối om. Tôi bước vào bên trong, cẩn thận khép cánh cửa lại sau lưng rồi bám vào thành cầu thang ọp ẹp và bước xuống hai bậc. Tôi ngồi xổm và soi đèn ra xung quanh. Đây là một hầm chứa rượu nhỏ hay một kho chứa thực phẩm có chiều rộng khoảng mét rưỡi và chiều dài khoảng ba mét, tường đá rắn chắc. Trên nóc hầm có một chiếc giá chạy dài với những vách ngăn hoen gỉ với hơn chục lọ thủy tinh cũ kỹ đứng chen chúc, bên trong đựng những chất màu nâu đen. Phía dưới mà một lớp tảo dày đặc, màu hồng nhạt, tĩnh lặng, phủ trên bề mặt của một hồ nước. Dưới chân cầu thang là một ao nước tù.

Tôi nhìn lên cánh cửa đang đóng kín ở phía trên và dỏng tai nghe ngóng xem có tiếng động nào phát ra từ những căn phòng tôi đã đi qua. Im lặng. Tôi đã trèo lên một cành cây và chắc không để lại dấu vết nào dưới cửa sổ, hay giữa các bụi cây. Có thể chúng không hề nghe thấy tôi. Có thể chúng chỉ kiểm tra tất cả những cửa sổ trông khả nghi. Cầu mong là như thế, tôi nghĩ, cầu mong. Tôi quay lại và soi đèn quanh hầm rượu. Trên bức tường bên phải, một mạch nước nhỏ màu nâu sẫm rỉ ra từ một vết nứt trên kẽ đá, đúng như Jason đã từng nói với tôi: những ống nước bị vỡ trong một cơn động đất đã biến tầng hầm của ngôi nhà thành một hồ nước; những vạch rêu xanh và vết ố màu đồng đỏ đánh dấu những thay đổi về mực nước ở đây trong suốt ngần ấy năm. Ánh đèn lướt qua một cái cửa tò vò thấp bằng gạch. Tôi cúi xuống gần sát mặt nước, soi đèn lên mái vòm của chiếc cửa tò vò. Đó là một đường hầm chạy dài, xuyên suốt ngôi nhà, nước ngập lên tới gần đỉnh, có lẽ chỉ còn thiếu có vài centimet. Không thể nào…

Người tôi chợt cứng đờ. Một tiếng động lớn vang vọng qua các dãy phòng phía sau lưng tôi như thể tấm lưới bảo vệ trên cửa sổ lúc nãy đã bị giật tung khỏi bản lề.

Tôi bắt đầu thở gấp vì sợ, miệng há hốc. Giơ chiếc đèn ra phía trước như một thứ vũ khí tự vệ, tôi bước xuống nước, mặt nước tròng trành, vỗ ộp oạp xung quanh như thể tôi vừa chui vào bụng của một con vật đang ngủ yên, khuấy động những thứ đã nằm im bất động trong nhiều năm. Nước lạnh cóng khiến hàm tôi cứng lại còn trong đầu tôi thì nghĩ tới những bộ mặt bí ẩn, những cái mồm và những hàm răng, rằng tôi có thể đang ở hang ổ của một con vật nào đó. Tôi nghĩ tới Kappa, một loại ma cà rồng trong truyền thuyết Nhật Bản, một loại thủy quái ăn thịt người, chuyên túm chân người lôi xuống nước, hút hết máu rồi vứt những cái xác khô và trắng bệch lên bờ. Tôi vừa lội nước vừa giàn giụa nước mắt.

Tôi dừng lại ở phía bên kia tường và quay đầu nhìn lại quãng đường mình đã qua. Xung quanh tôi, mặt nước bắt đầu lặng đi, trở lại với sự yên tĩnh vốn có. Âm thanh duy nhất còn sót lại chính là hơi thở dồn dập của tôi dội lại từ các bức tường.

Rồi một tiếng đổ vỡ loảng xoảng khác lại vang lên, phá tan sự im lặng. Tiếng đồ đạc bị xáo trộn. Tôi tuyệt vọng nhìn quanh, ánh đèn dập dềnh lướt trên trần nhà vàng ố. Không có chỗ nào để trốn cả, không có chỗ nào… Cái cửa tò vò! Tôi quỳ xuống cho tới khi nước ngập ngang vai và gần chạm vào cằm. Tôi vô tình huých phải chiếc giá đỡ khiến vài chiếc lọ rơi xuống nước kêu ùng ục rồi biến mất tăm cùng với những miếng dưa góp, những hạt gạo, những quả mận và con cá chi chi đã trở nên đen đúa và mục ruỗng ở bên trong. Tôi thò tay vào trong miệng hầm sờ lên nóc hầm nhầy nhụa bùn để thăm dò. Chỉ đến khi tôi đã thọc tay vào sâu hết cỡ và má tôi gần dính vào miệng hầm thì tôi có cảm giác nóc hầm bắt đầu nhô lên cao hơn so với mặt nước, tay tôi đã ở ngoài không khí. Tôi rút tay lại và chĩa đèn pin vào đó. Từ miệng hầm tới đoạn nóc hầm nhô lên trên mặt nước không biết có sâu không? Chắc khoảng sáu mươi tới bảy mươi centimet? Không sâu lắm. Không đến nỗi sâu quá. Tôi ngước nhìn về phía cầu thang, lên cánh cửa gỗ mỏng.

Từ đâu đó ở rất gần, có lẽ từ ngay gian bếp vang lên một tiếng loảng xoảng. Tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Tôi lôi chiếc túi nylon ra buộc chặt lại rồi nhét trở lại bên trong áo khoác, kéo khóa lên tới tận cổ. Trong lúc lúi húi buộc buộc túm túm tôi sơ ý đánh rơi mất chiếc đèn pin. Nó trượt khỏi tay tôi, rơi xuống lớp tảo trên mặt nước, hắt lên tường một hình ô van méo mó. Tôi chộp lấy chiếc đèn, túm được nó rồi lại để tuột ra lần nữa. Lần này lớp tảo trên mặt nước khẽ rung động khiến chiếc đèn chúi xuống rồi đâm thẳng xuống nước, những quầng sáng bập bềnh xuyên qua lớp lớp những sinh vật màu hồng mục ruỗng, bóng của chúng in thành những hình diêm dúa trên tường. Tôi lao theo chiếc đèn, thò tay xuống dưới nước quờ quạng, khuấy động lớp rác rưởi dưới mặt nước nhưng chiếc đèn vẫn lặng lẽ trườn ra xa, quay tròn, ánh sáng màu vàng nhạt của nó giờ chỉ còn là một chấm nhỏ leo lắt. Và rồi bụp, ngay cạnh tôi có vật gì đó nhỏ nhưng nặng rơi bịch xuống nước và đang bơi.

Nước mắt tôi trào ra vì sợ hãi. Cái đèn pin. Ôi cái đèn pin. Không cần đến nó. Không cần đến nó làm gì. Mày có thể xoay xở mà không cần tới nó. Ở trong nước thì có gì chứ? Chẳng có gì cả. Một con chuột. Đừng nghĩ tới nó. Từ phía đầu cầu thang, một tia sáng mỏng mảnh chiếu xuyên qua những vết nứt trên cánh cửa gỗ. Tôi nghe thấy một giọng đàn ông, trầm và đáng sợ cùng với hơi thở nóng hổi của mụ Y Tá chuyển động quanh căn phòng như thể mụ ta đang đánh hơi xem cái gì đã xảy ra tại đó.

Đừng nghĩ ngợi gì nữa, mày sắp chết rồi. Tôi hít một hơi thật sâu, chống hai tay lên tường, quỳ gối xuống và chui đầu xuống dưới làn nước lạnh trong đường hầm tối đen. Nước tràn vào tai vào mũi tôi lạnh buốt. Tôi với tay ra phía trước, cố đứng lên, người tôi va vào tường gạch, hai khuỷu tay trầy xước, loạng choạng trong bóng tối dày đặc. Một giọng nói bí hiểm vang lên trong đầu tôi, giọng nói của chính tôi, rên rỉ trong sợ hãi. Lối nào? Lối nào đây? Cái đường hầm này kết thúc ở đâu? Ở đâu? Dường như một thế kỷ đã trôi qua. Cho tới khi tôi tưởng là tôi đã hết hơi và mọi chuyện thế là kết thúc thì tay tôi chạm vào nóc hầm, cao hơn hẳn so với mặt nước. Tôi di chuyển về phía đó, tuyệt vọng lao đầu về nơi tôi có thể tìm thấy không khí để thở. Tôi nhô đầu lên khỏi mặt nước, nôn ói, nhổ phì phì, đầu tôi cụng phải nóc hầm đau điếng. Tôi không thể đứng thẳng người vì nóc hầm không đủ cao, chỉ cách mặt nước khoảng mười tới mười hai centimet. Để có thể giữ mặt mình ở trên mực nước và hít thở, tôi phải đứng khuỵu gối và hơi nghiêng đầu.

Hít thở. Hít thở!

Tôi không biết tôi đã đứng như thế bao lâu và cơ thể tôi đã rơi vào một cơn khủng khoảng như thế nào, có thể tôi đã bị ngất hoặc mất trí, nhưng khi tôi đứng đó, run lẩy bẩy, chỉ có tiếng tim đập bền bỉ làm bạn, nó đập mạnh như thể nó là một trái tim cực kỳ lớn, lớn gấp hàng trăm lần bình thường, lớn như cả ngôi nhà, và rồi một cái gì đó, cái lạnh hay sự sợ hãi, đã lấy mất sự tỉnh táo của tôi và thả nó vào một đường hầm sâu và tĩnh mịch cho đến khi tôi không còn là gì cả, ngoại trừ một mạch máu trống rỗng đập thình thịch ở một chỗ không có vị trí địa lí, không có biên giới và không có tên trên bản đồ. Tôi trôi nổi trong một chiếc máy hút bụi, không có chút khái niệm nào về thời gian hay sự tồn tại, bồng bềnh như một nhà du hành vũ trụ trong không gian bất tận và ngay cả sau khi một thiên niên kỷ đã trôi qua, khi tôi nhìn thấy một thứ ánh sáng màu hồng đùng đục chiếu xuyên qua làn nước phía bên trái tôi – mụ Y Tá đang chĩa đèn vào đường hầm – thì tôi cũng không còn cảm thấy sợ hãi gì nữa. Tôi đang quan sát mình từ một nơi khác, thấy mặt mình nổi lềnh bềnh trên lớp tảo, đôi môi tím ngắt và mí mắt sắp sụp xuống đến nơi. Ngay cả khi ánh đèn biến mất và cuối cùng, sau một quãng thời gian tưởng như vô tận, khi tiếng bước chân xa dần trong những căn phòng phía trên, tôi vẫn đứng hoàn toàn bất động như một cô bé Alice thời hiện đại, đầu nghiêng sang một bên, tê dại và lạnh buốt tới mức tôi nghĩ tim mình sẽ đóng băng và tôi sẽ hóa thạch ở đây, rất sâu dưới lòng đất.

Tôi nhét cái gói vào trong áo rồi mò mẫm bò về phía trước, va vào các đồ vật trên đường đi, những tiếng động mà tôi gây ra trong cơn hoảng loạn dội lại từ các bức tường xung quanh tôi. Tôi lại bò từ phòng này sang phòng khác, không còn biết mình đang đi qua những cái gì; những chiếc áo kimono lặng ngắt như xác chết trong góc phòng, một chiếc bàn ăn với bữa tối đã dọn sẵn như thể mọi vật đã hóa đá khi bà mẹ của chủ nhà qua đời. Tôi đã vào rất sâu bên trong ngôi nhà, giữa bóng đêm bất tận cho đến lúc tôi nhận ra là mình không thể tiến thêm được nữa. Tôi đang đứng trong một gian bếp với một chiếc bồn rửa và một cái bếp lò kiểu phương Tây. Phía trước mặt tôi là một bức tường kín mít thay vì một cánh cửa dẫn sang một phòng khác như thường lệ. Không có lối ra. Tôi đã cùng đường.

Tóc tai dựng đứng cả lên vì sợ hãi, tôi chĩa đèn lên tường, lên những đám mạng nhện và đám vôi vữa trên trần. Ánh đèn rọi lên một chiếc tủ bếp làm bằng gỗ mỏng ở góc phòng. Tôi lại gần chiếc tủ, cào cấu vào cánh cửa đến trầy cả đầu ngón tay, chân tôi run lẩy bẩy trên sàn nhà. Cuối cùng cánh cửa tủ cũng bật ra kèm theo một tiếng rít vang tới tận các phòng phía sau.

Tôi soi đèn vào phía bên trong và phát hiện ra rằng đó không phải là một cái tủ bếp mà là một cánh cửa dẫn ra một đầu cầu thang mục nát, đâm thẳng vào khoảng không tối om. Tôi bước vào bên trong, cẩn thận khép cánh cửa lại sau lưng rồi bám vào thành cầu thang ọp ẹp và bước xuống hai bậc. Tôi ngồi xổm và soi đèn ra xung quanh. Đây là một hầm chứa rượu nhỏ hay một kho chứa thực phẩm có chiều rộng khoảng mét rưỡi và chiều dài khoảng ba mét, tường đá rắn chắc. Trên nóc hầm có một chiếc giá chạy dài với những vách ngăn hoen gỉ với hơn chục lọ thủy tinh cũ kỹ đứng chen chúc, bên trong đựng những chất màu nâu đen. Phía dưới mà một lớp tảo dày đặc, màu hồng nhạt, tĩnh lặng, phủ trên bề mặt của một hồ nước. Dưới chân cầu thang là một ao nước tù.

Tôi nhìn lên cánh cửa đang đóng kín ở phía trên và dỏng tai nghe ngóng xem có tiếng động nào phát ra từ những căn phòng tôi đã đi qua. Im lặng. Tôi đã trèo lên một cành cây và chắc không để lại dấu vết nào dưới cửa sổ, hay giữa các bụi cây. Có thể chúng không hề nghe thấy tôi. Có thể chúng chỉ kiểm tra tất cả những cửa sổ trông khả nghi. Cầu mong là như thế, tôi nghĩ, cầu mong. Tôi quay lại và soi đèn quanh hầm rượu. Trên bức tường bên phải, một mạch nước nhỏ màu nâu sẫm rỉ ra từ một vết nứt trên kẽ đá, đúng như Jason đã từng nói với tôi: những ống nước bị vỡ trong một cơn động đất đã biến tầng hầm của ngôi nhà thành một hồ nước; những vạch rêu xanh và vết ố màu đồng đỏ đánh dấu những thay đổi về mực nước ở đây trong suốt ngần ấy năm. Ánh đèn lướt qua một cái cửa tò vò thấp bằng gạch. Tôi cúi xuống gần sát mặt nước, soi đèn lên mái vòm của chiếc cửa tò vò. Đó là một đường hầm chạy dài, xuyên suốt ngôi nhà, nước ngập lên tới gần đỉnh, có lẽ chỉ còn thiếu có vài centimet. Không thể nào…

Người tôi chợt cứng đờ. Một tiếng động lớn vang vọng qua các dãy phòng phía sau lưng tôi như thể tấm lưới bảo vệ trên cửa sổ lúc nãy đã bị giật tung khỏi bản lề.

Tôi bắt đầu thở gấp vì sợ, miệng há hốc. Giơ chiếc đèn ra phía trước như một thứ vũ khí tự vệ, tôi bước xuống nước, mặt nước tròng trành, vỗ ộp oạp xung quanh như thể tôi vừa chui vào bụng của một con vật đang ngủ yên, khuấy động những thứ đã nằm im bất động trong nhiều năm. Nước lạnh cóng khiến hàm tôi cứng lại còn trong đầu tôi thì nghĩ tới những bộ mặt bí ẩn, những cái mồm và những hàm răng, rằng tôi có thể đang ở hang ổ của một con vật nào đó. Tôi nghĩ tới Kappa, một loại ma cà rồng trong truyền thuyết Nhật Bản, một loại thủy quái ăn thịt người, chuyên túm chân người lôi xuống nước, hút hết máu rồi vứt những cái xác khô và trắng bệch lên bờ. Tôi vừa lội nước vừa giàn giụa nước mắt.

Tôi dừng lại ở phía bên kia tường và quay đầu nhìn lại quãng đường mình đã qua. Xung quanh tôi, mặt nước bắt đầu lặng đi, trở lại với sự yên tĩnh vốn có. Âm thanh duy nhất còn sót lại chính là hơi thở dồn dập của tôi dội lại từ các bức tường.

Rồi một tiếng đổ vỡ loảng xoảng khác lại vang lên, phá tan sự im lặng. Tiếng đồ đạc bị xáo trộn. Tôi tuyệt vọng nhìn quanh, ánh đèn dập dềnh lướt trên trần nhà vàng ố. Không có chỗ nào để trốn cả, không có chỗ nào… Cái cửa tò vò! Tôi quỳ xuống cho tới khi nước ngập ngang vai và gần chạm vào cằm. Tôi vô tình huých phải chiếc giá đỡ khiến vài chiếc lọ rơi xuống nước kêu ùng ục rồi biến mất tăm cùng với những miếng dưa góp, những hạt gạo, những quả mận và con cá chi chi đã trở nên đen đúa và mục ruỗng ở bên trong. Tôi thò tay vào trong miệng hầm sờ lên nóc hầm nhầy nhụa bùn để thăm dò. Chỉ đến khi tôi đã thọc tay vào sâu hết cỡ và má tôi gần dính vào miệng hầm thì tôi có cảm giác nóc hầm bắt đầu nhô lên cao hơn so với mặt nước, tay tôi đã ở ngoài không khí. Tôi rút tay lại và chĩa đèn pin vào đó. Từ miệng hầm tới đoạn nóc hầm nhô lên trên mặt nước không biết có sâu không? Chắc khoảng sáu mươi tới bảy mươi centimet? Không sâu lắm. Không đến nỗi sâu quá. Tôi ngước nhìn về phía cầu thang, lên cánh cửa gỗ mỏng.

Từ đâu đó ở rất gần, có lẽ từ ngay gian bếp vang lên một tiếng loảng xoảng. Tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Tôi lôi chiếc túi nylon ra buộc chặt lại rồi nhét trở lại bên trong áo khoác, kéo khóa lên tới tận cổ. Trong lúc lúi húi buộc buộc túm túm tôi sơ ý đánh rơi mất chiếc đèn pin. Nó trượt khỏi tay tôi, rơi xuống lớp tảo trên mặt nước, hắt lên tường một hình ô van méo mó. Tôi chộp lấy chiếc đèn, túm được nó rồi lại để tuột ra lần nữa. Lần này lớp tảo trên mặt nước khẽ rung động khiến chiếc đèn chúi xuống rồi đâm thẳng xuống nước, những quầng sáng bập bềnh xuyên qua lớp lớp những sinh vật màu hồng mục ruỗng, bóng của chúng in thành những hình diêm dúa trên tường. Tôi lao theo chiếc đèn, thò tay xuống dưới nước quờ quạng, khuấy động lớp rác rưởi dưới mặt nước nhưng chiếc đèn vẫn lặng lẽ trườn ra xa, quay tròn, ánh sáng màu vàng nhạt của nó giờ chỉ còn là một chấm nhỏ leo lắt. Và rồi bụp, ngay cạnh tôi có vật gì đó nhỏ nhưng nặng rơi bịch xuống nước và đang bơi.

Nước mắt tôi trào ra vì sợ hãi. Cái đèn pin. Ôi cái đèn pin. Không cần đến nó. Không cần đến nó làm gì. Mày có thể xoay xở mà không cần tới nó. Ở trong nước thì có gì chứ? Chẳng có gì cả. Một con chuột. Đừng nghĩ tới nó. Từ phía đầu cầu thang, một tia sáng mỏng mảnh chiếu xuyên qua những vết nứt trên cánh cửa gỗ. Tôi nghe thấy một giọng đàn ông, trầm và đáng sợ cùng với hơi thở nóng hổi của mụ Y Tá chuyển động quanh căn phòng như thể mụ ta đang đánh hơi xem cái gì đã xảy ra tại đó.

Đừng nghĩ ngợi gì nữa, mày sắp chết rồi. Tôi hít một hơi thật sâu, chống hai tay lên tường, quỳ gối xuống và chui đầu xuống dưới làn nước lạnh trong đường hầm tối đen. Nước tràn vào tai vào mũi tôi lạnh buốt. Tôi với tay ra phía trước, cố đứng lên, người tôi va vào tường gạch, hai khuỷu tay trầy xước, loạng choạng trong bóng tối dày đặc. Một giọng nói bí hiểm vang lên trong đầu tôi, giọng nói của chính tôi, rên rỉ trong sợ hãi. Lối nào? Lối nào đây? Cái đường hầm này kết thúc ở đâu? Ở đâu? Dường như một thế kỷ đã trôi qua. Cho tới khi tôi tưởng là tôi đã hết hơi và mọi chuyện thế là kết thúc thì tay tôi chạm vào nóc hầm, cao hơn hẳn so với mặt nước. Tôi di chuyển về phía đó, tuyệt vọng lao đầu về nơi tôi có thể tìm thấy không khí để thở. Tôi nhô đầu lên khỏi mặt nước, nôn ói, nhổ phì phì, đầu tôi cụng phải nóc hầm đau điếng. Tôi không thể đứng thẳng người vì nóc hầm không đủ cao, chỉ cách mặt nước khoảng mười tới mười hai centimet. Để có thể giữ mặt mình ở trên mực nước và hít thở, tôi phải đứng khuỵu gối và hơi nghiêng đầu.

Hít thở. Hít thở!

Tôi không biết tôi đã đứng như thế bao lâu và cơ thể tôi đã rơi vào một cơn khủng khoảng như thế nào, có thể tôi đã bị ngất hoặc mất trí, nhưng khi tôi đứng đó, run lẩy bẩy, chỉ có tiếng tim đập bền bỉ làm bạn, nó đập mạnh như thể nó là một trái tim cực kỳ lớn, lớn gấp hàng trăm lần bình thường, lớn như cả ngôi nhà, và rồi một cái gì đó, cái lạnh hay sự sợ hãi, đã lấy mất sự tỉnh táo của tôi và thả nó vào một đường hầm sâu và tĩnh mịch cho đến khi tôi không còn là gì cả, ngoại trừ một mạch máu trống rỗng đập thình thịch ở một chỗ không có vị trí địa lí, không có biên giới và không có tên trên bản đồ. Tôi trôi nổi trong một chiếc máy hút bụi, không có chút khái niệm nào về thời gian hay sự tồn tại, bồng bềnh như một nhà du hành vũ trụ trong không gian bất tận và ngay cả sau khi một thiên niên kỷ đã trôi qua, khi tôi nhìn thấy một thứ ánh sáng màu hồng đùng đục chiếu xuyên qua làn nước phía bên trái tôi – mụ Y Tá đang chĩa đèn vào đường hầm – thì tôi cũng không còn cảm thấy sợ hãi gì nữa. Tôi đang quan sát mình từ một nơi khác, thấy mặt mình nổi lềnh bềnh trên lớp tảo, đôi môi tím ngắt và mí mắt sắp sụp xuống đến nơi. Ngay cả khi ánh đèn biến mất và cuối cùng, sau một quãng thời gian tưởng như vô tận, khi tiếng bước chân xa dần trong những căn phòng phía trên, tôi vẫn đứng hoàn toàn bất động như một cô bé Alice thời hiện đại, đầu nghiêng sang một bên, tê dại và lạnh buốt tới mức tôi nghĩ tim mình sẽ đóng băng và tôi sẽ hóa thạch ở đây, rất sâu dưới lòng đất.

Bình luận