Việc phục vụ cho Jilly đòi hỏi hết thì giờ của Monk nhưng hắn cảm thấy hoàn toàn sung sướng. Trong nhiều năm qua, hắn không tin công việc như thế này sẽ được an toàn. Hắn là người thận trọng, trong khi chị ta là người đang say sưa vạch ra nhiều kế hoạch vĩ đại, niềm say sưa của kẻ mới vào nghề, không hề lo sợ đến những việc nhỏ nhặt tầm thường, như là việc FBI theo dõi dấu vết một trong những thẻ tín dụng mà chị ta đã dùng.
Monk không thể đổ lỗi cho chị ta vì đã phạm phải những sai lầm này. Hắn đã trách mình vì đáng ra hắn nên hủy hết những cái thẻ tín dụng sau khi hắn đã dùng hết. Hắn giữ tất cả thẻ tín dụng mang nhiều tên, nhiều địa chỉ khác nhau trong cái va li nhỏ của hắn, và Jilly chỉ việc đem ra xài cái nào chị ta vớ được.
Nhưng kết quả không tệ như hắn nghĩ. Bây giờ John Paul Renard đã nhập cuộc, và Monk rất vui sướng trước biến cố trọng đại này. Hắn biết Renard đã theo dõi thành tích của hắn trên một năm nay. Hắn đã chặn được những lời yêu cầu của Renard gởi cho nhiều cơ quan cảnh sát Châu Âu để bắt hắn. Bây giờ Monk có cơ hội để loại kẻ quấy phá trước khi anh gây khó khăn cho hắn, đồng thời Monk có thể làm cho Jilly hài lòng.
Trước khi họ quyết định dùng Utopia để đưa các bà đến Aspen, vị hôn thê xinh đẹp của hắn đã dành nhiều thì giờ để suy nghĩ, chị ta ngồi giờ này qua giờ khác để nghiền ngẫm kế hoạch chị ta vạch ra. Chị ta rất thích trò kích động, mưu mô, nhất là những hành động nguy hiểm, và chị ta còn dạy cho Monk biết cách mua vui bằng những trò ấy nữa. Bất cứ khi nào hắn làm được cái gì vừa lòng chị ta, như là đồng ý những thay đổi trong kế hoạch bằng nhiều cách sáng tạo. Đó là tình dục tự nhiên. Chỉ vì nghĩ đến những chuyện chị ta làm cho hắn và cho phép hắn làm cho chị, là hắn đỏ mặt như trai vị thành niên.
Chị ta sẽ biến hắn thành kẻ lãng mạn thật sự, nhưng hắn không cho đó là hành động yếu đuối, vì mối ám ảnh của hắn là Jilly chứ không ai khác hơn. Hắn tin với tất cả tấm lòng thành rằng nếu những trò dâm dục bày ra trên giường mà không giết chết hắn thì hai người sẽ sống cho đến đầu bạc răng long.
Phải, chị ta là nỗi ám ảnh. Ngay khi vừa ngủ dậy là hắn nghĩ đến chị ta liền, hắn lo bảo vệ cho chị khỏi nguy hiểm. Vì hắn có tinh thần cảnh giác cao độ và cải tiến các lỗi lầm của chị, nên hai người được bình an.
Monk đã khuyên Jilly bỏ bớt một kế hoạch của chị. Chị ta cứ có ý nghĩ rằng bắt cóc cho được Avery, rồi hai mẹ con ngồi lại với nhau, và chị sẽ nói cho cô ta nghe sự thật về Carrie. Jilly thật quá ngây thơ. Chị ta tin rằng chị có thể cải hóa được con gái. Monk đã nhẹ nhàng giải thích rằng sau bao năm bị Carrie tẩy não, Jilly sẽ không thể nào thuyết phục được cô con gái chị tin rằng chị là người mẹ đáng thương.
Jilly không được một điểm gì hết. Chị ta có một quan niệm sai lệch về tình mẫu tử, vì chị ta tin rằng chị sinh ra Avery, nên chị có quyền với con. Chị nói với Avery như nói đến vật sở hữu của mình, chứ không phải như một con người, và Carrie đã lấy mất báu vật của chị. Nhiều năm qua, sự tức giận của chị đối với em gái sôi sùng sục trong lòng chị, nhưng Jilly kiên nhẫn chờ đợi đến giờ phục thù.. Dù có lâu đến đâu đi nữa, chị ta cũng phải trả thù.
Chị ta nằng nặc đòi cho được quyền bấm nút cho nổ tung ngôi nhà. Chị hứa với Monk rằng chị không nhỏ một giọt nước mắt nào vì cái chết của em gái. Carrie đã chuốt lấy cái chết cho mình. Cô là nguyên do khiến Jilly thất bại ở đời. Cô là nguyên do khiến cho Avery ghét bỏ chị. Cô là nguyên nhân của bất cứ thất bại nào của Jilly. Và vì vậy, việc Jilly thấy được cảnh em gái mình chết là điều rất công bằng.
Sự chân thật về hành động tàn bạo của Jilly không làm cho Monk khó chịu. Hắn không tàn bạo hay sao? Chị ta đã chấp nhận tất cả mọi tội lỗi của hắn, thì hắn cũng phải có hành động như chị ta mới phải chứ.
Bây giờ hắn cố bỏ qua những lỗi lầm của chị ta về chuyện ở khu mỏ bị bỏ hoang. Jilly tin chắc thế nào họ cũng leo xuống hầm mỏ để xem có dấu vết gì của Carrie không, và thế là Monk có thể thả xuống đấy hai khối chất nổ, bít cửa hầm lại, rồi theo Jilly trở về ngôi nhà ẩn cư.
Monk không tin Renard sẽ vào trong hầm, và quả hắn nghĩ đúng. Tuy nhiên, hắn nghĩ rằng hắn có thể bắt gọn cả hai rồi ném xác vào hầm mỏ, nhưng hắn đã mất cơ may làm việc đó khi hai người họ nhảy xuống sông.
Bây giờ hắn đang theo dõi dấu vết của họ một cách tích cực. Hắn phải mất thì giờ đi lui lại chỗ để xe và vượt qua sông, nhưng với hắn, hắn có thể tranh thủ được thời gian, hắn chạy nhanh xuống núi, quay lại nơi mà hắn tiên đoán hai người sẽ đến.
Renard không để lại dấu vết gì, nhưng Monk biết rõ về những người cựu binh trong Thủy Quân Lục chiến, hắn không mong gì thấy được dấu vết của họ. Khi hắn nghiên cứu về người theo dõi hắn, hắn đã đọc lịch sử của anh, hắn rất khâm phục anh. Hắn tin rằng dưới hoàn cảnh khác, họ có thể trở thành bạn bè của nhau. Cả hai đều là kẻ giết người chuyên nghiệp. Monk giết người vì tiền còn Renard giết người vì danh. Tuy nhiên, thế vẫn không làm cho anh cao cả. Theo Monk thì việc ấy chỉ làm cho anh trở thành đồ điên mà thôi.
Thế nhưng, hắn vẫn muốn có cơ hội để ngồi với anh, cùng anh uống vài ly bia lạnh, nói về những chuyện phiêu lưu trong quá khứ. Nhưng chắc Renard không bao giờ chịu làm thế. Anh quá kiêu hãnh về quá khứ của mình. Theo hồ sơ mật của anh, hồ sơ mà Monk đã đọc được, Renard chịu nhiều đau khổ vì nghề điệp viên. Monk không tin chuyện vô nghĩa như thế này. Hắn nghĩ Renard bỏ nghề khi anh nhận ra anh thích thú có được cái quyền kéo cò mỗi khi thấy cần. Danh dự thật khốn nạn thay.
Có phải Renard chú ý đến hắn không? Có phải anh cũng mơ tưởng đến chuyện ngồi cùng nhau để bàn về cái thú đi săn, về sự vui sướng khi giết người không? Monk ước chi hắn khám phá ra được chuyện này. Có thể nếu hắn bắn anh bị thương, làm cho anh tê liệt, rồi hắn ngồi bên cạnh anh, nói chuyện với nhau như nói với người bạn cũ cho đến khi anh chết. Làm thế không đáng tự hào hay sao, vì hắn đã nói chuyện với người ngang sức ngang tài, vì hắn có lòng thương người?
Monk cười khúc khích. Bây giờ ai đang mơ tưởng nhỉ? Hắn nhìn đồng hồ và lắc đầu. Nếu hắn không tìm ra hai người thì chắc hắn phải lái xe về chỗ Jilly đang đợi. Chị ta đang nôn nóng quay về ngôi nhà ẩn cư để xem em gái đang làm gì. Chắc bây giờ ba người đàn bà có lẽ đang gấu ó nhau như ba con chồn, người nào cũng hoảng loạn lên vì khiếp sợ. Jilly rất mong đợi chứng kiến cảnh này.
Thôi đừng mơ mộng hảo huyền và bắt tay vào việc đi, hắn nhủ thầm. Hắn đưa cặp ống nhòm có tầm nhìn xa lên nhìn quanh khu vực một lần nữa. Hắn nhìn về phía bắc thì bỗng thấy đài quan sát ở từ xa, cách hắn có lẽ chừng một dặm. Người bảo vệ rừng từ trên đài bước xuống. Monk nhìn ông ta cho đến khi ổng đứng yên dưới đất.
– Tốt, tốt . – Hắn vừa tính toán trong óc vừa nói nhỏ. – Tầm cỡ giống mình.
Đúng một giờ sau, hắn tựa người trên lan can của đỉnh tháp, quan sát khắp các ngọn đồi. Nhìn xuống các bụi cây ở dưới, hắn thấy cái áo thun trắng của người bảo vệ rừng mà hắn vừa giết và lột áo ra.
Hắn định bỏ cuộc săn đuổi thì bỗng hắn thấy hai người. Hắn thấy mái tóc vàng của Avery rất giống mẹ cô, óng ánh vàng dưới ánh mặt trời. Monk không ngờ may mắn như thế. Đúng là họ rồi, hai người đi xuống núi rất thoải mái, trông rách rưới, xác xơ, chưa bao giờ hắn thấy có ai xác xơ như thế. Hắn bật cười , tiếng cười vang lên trong không gian. Hắn sẽ kể chuyện này cho Jilly nghe. Hắn biết chị ta sẽ nói thế nào. Chị ta sẽ nói hắn là người cực kỳ may mắn.
Dĩ nhiên hắn phải đồng ý với chị, nhưng hắn vẫn nghĩ rằng sự may mắn không phải vô cớ mà đến. Sau khi nghiên cứu bản đồ, hắn tiên đoán rằng nếu hai người vượt qua được cái thác lớn thì thế nào họ cũng xuất hiện ở chỗ dốc núi rùng rợn dưới Coward’s Crossing.
Monk quyết định đụng đầu với họ. Hắn leo xuống thang đi quành ra đường, đầu cúi xuống, kéo đầu mũ lưỡi trai che kín mặt.
Khi hắn đi ra chỗ trống giữa rừng, hắn từ từ quay người và giả vờ trông thấy họ gần đỉnh đồi. Hắn đưa tay vẫy.
Avery nghe John Paul nói từ phía sau:
– Nhào xuống, Avery. Nhào xuống đi.
Cô không ngần ngừ, giả vờ vấp phải cái gì, té xuống quì trên một đầu gối. John Paul chụp lấy cô, ngồi thụp xuống, quàng tay quanh vai cô để đỡ.
– Làm như thể cô bị đau.
Lăn người qua một bên, cô nắm mắt cá chân, nhăn mặt rất thảm thiết. Cô muốn thét lên vì thất vọng.
– Hắn không phải là người gác rừng, phải không?
– Không.
Cô cứ ôm mắt cá.
– Làm sao anh biết?
-Tôi thấy khẩu súng. Súng của người gác rừng không có ống nhắm.
Cô nhìn anh.
– Từ xa thế mà anh thấy được ống nhắm à?
– Mặt trời chiếu vào đấy. — Anh đáp. – Tôi nghĩ chính hắn. Tôi không nói chính là Monk, nhưng…
– Nghĩ đến hắn có lẽ là đủ cho tôi rồi. — Cô nói.
– Tốt, tôi sẽ giúp cô đứng lên. Cô dựa vào tôi, và chúng ta đi xuống đồi lại, nhưng chúng ta sẽ đi về phía Tây. Khi chúng ta đến rừng, chúng ta chạy thật nhanh.
– Hắn sẽ theo chúng ta?
– Sẵn sàng chưa?
Anh không để cho cô kịp trả lời, lôi cô đứng lên, nhẹ kéo cô sát vào hông.
– Đi khập khiễng đi. — Anh ra lệnh, giọng cộc lốc, và họ lại đi xuống đồi, rồi di chuyển theo hướng Tây.
Anh muốn họ ra khỏi tầm súng của Monk. Anh tin người đàn ông mặc quần áo như người gác rừng là tên giết người, vì hắn không rời khỏi phạm vi của tháp canh. Những người gác rừng thường giúp đỡ mọi người chứ, phải không?
– Hắn đợi chúng ta đến lọt vào tầm súng của hắn.
– Ôi lạy Chúa.
– Cô sợ phải không?
– Chà…
Tiếng trả lời của cô làm cho anh cười. Anh nói:
– Thế là tốt. Thôi, ta chạy là vừa.
Cô liền chạy vào rừng, John Paul chạy theo sau. Anh liếc mắt nhìn xuống, thấy Monk chạy về phía họ. Họ cắm cổ chạy, Avery hy vọng sẽ gặp con đường ở phía dưới Monk, vừa chạy vừa cầu sao gặp được người đi cắm trại hay người gác rừng thật sự trong khu này để họ giúp đỡ.
Tai cô vang lên tiếng ù ù. Tiếng gì thế nhỉ? Tiếng gió rít trong rừng phải không? Hay đấy là tiếng đạn bay vèo vèo? Không, không phải tiếng đạn bay.
Tiếng ồn dừng lại đột ngột như khi bắt đầu, rồi nó lại bắt đầu, nhưng to hơn, lanh lảnh hơn. Nghe như tiếng huýt gió.
– Nghe …không…? – Cô hổn hển hỏi.
– Có.
Rồi cô nghe tiếng kèn. Có phải cô lạc hướng không?
Cô tiếp tục chạy, chân nện thình thịch trên đất xốp, thở hổn hển vì chạy quá sức.
Các bắp thịt chân nóng lên. Bỗng cô hổng chân. Nếu John Paul không chụp kịp thì chắc cô đã nhào đầu vào cái mương rồi.
Anh chạy sát bên cô để phòng trường hợp cô lại trượt chân. Rồi bỗng họ chạy qua khỏi rừng, băng qua đường…và chạy vào giữa khu vực của đoàn hướng đạo sinh 183. Trước khi dừng lại được, John Paul tông vào cái lều nhỏ, đâm sầm vào ông trưởng đoàn khiến khí cụ văng ra khỏi tay ông. Chiếc kèn ông ta cầm trên tay văng ra lều bên kia.
– Điện thoại di động. — Avery nói lớn với người đàn ông bị ngã nhào nằm ngửa trên mặt đất. – Chúng tôi cần điện thoại di động của ông.
– Ở đây không bắt được sóng. — Ông ta vừa trả lời vừa chống khủy tay nhổm người lên. Mặt ông ta đỏ gay và tức giận. – Các người là ai mà lại…
John Paul vội vã tìm con đường trước mặt họ. Chắc Monk sẽ không ngần ngại hạ sát những đứa bé để đạt được mục tiêu hắn đang nhắm đến. Một chú bé khi thấy khẩu súng nhét sau quần jean của John Paul hét lên. Nhưng ánh mắt gay gắt của anh làm cho chú ngậm miệng.
Avery quì xuống bên cạnh người trưởng đoàn. Cô khẩn khoản nói:
– Hãy nghe tôi. Chúng tôi cần giúp đỡ. Có một tên giết người đang chạy đến đây. Xe của ông đâu? Xin cho tôi mượn.
Vẻ hoảng hốt của cô làm cho ông ta sợ. Ông đáp:
– Chúng tôi cắm trại ở đây, nhưng chiếc xe Ford đậu ở dưới đường cách đây nửa dặm. Chìa khóa nơi áo vét của tôi móc ở lều bên kia, cái lều các hướng đạo sinh đang sơn đấy.
John Paul đến đỡ Avery đứng lên rồi vừa kéo cô chạy về phía sườn đồi có cây cối um tùm khuất tịch vừa quay đầu lại nói với người trưởng đoàn.
– Vào trong trại kia mà biểu bọn trẻ chạy ra khỏi đây hết.
– Đi kiếm điện thoại và gọi người đến giúp, – cô nói lớn.
Hai chân cô run lẩy bẩy, cô sợ cô không còn đủ sức để chạy nữa. Cô tập trung để giữ hai chân chạy cho đều, tim như muốn ngừng đập, cô bỗng nhớ họ chưa lấy chìa khóa.
– Chúng ta phại quay lui … chìa khóa xe.
– Chúng ta không cần chìa. — Anh đáp. – Cứ chạy đi cô em. Cô bắt đầu lết rồi đấy.
Cô mơ đến chuyện nấp đâu đây, đợi John Paul đi tìm xe quay lại đón cô. Cô có thể tìm được một chỗ mà Monk không tìm ra chứ, được không?
Ráng lên, mẹ kiếp, cô không muốn trốn. Mình chạy được. Mình có thể chạy được. Cô cố tiếp tục chạy cho đến khi vết khâu bên hông đau không chịu được thì thôi. Cô tự hỏi cô có chết bất đắc kỳ tử không. Có thể lắm.
Rồi nước mắt bỗng chảy ra trên mắt cô, vì cô thấy chiếc SUV cũ đậu trên đám đất trải sỏi gần khúc đường vòng. John Paul chạy trước đến chiếc xe. Anh phá kín ở phía sau, thò tay vào mở cửa trước.
Avery chạy qua phía bên kia, anh mở cửa xe cho cô vào. Chưa đầy 55 giây, anh đã nối được mạch điện ở công tắc, vào số, cho xe chạy.
Cô rất khâm phục.
– Có phải lúc nhỏ anh là vị thành niên phạm pháp không?
Ngay khi xe chạy đường vòng, cô nhào lui trên ghế ngồi và cứ ngồi yên như thế. Cô nghẹn ngào muốn khóc.
– Cô khóc phải không?
– Không.
– Nghe như cô đang khóc. – Anh nhìn cô, ánh mắt gay gắt.
– Tôi vui sướng quá. – Cô vội vã lau những giọt nước mắt sung sướng bên má.
Anh cười toe toét. Anh cũng có cái cảm giác ấy, nhưng không kéo dài lâu.
– Quỷ thật. — Anh lẩm bẩm nói.
– Cái gì quỷ?
– Con đường chạy vòng lại… Có thể hắn đi xuống, nấp đâu đó…a, quỷ thật, hắn sẽ làm thế, và chúng ta không có con đường nào khác ra khỏi đây.
Anh cúi người tới, lôi súng ra, để trong lòng. Anh hạ cửa kính xuống rồi lấy súng lên.
Cô cũng vội lấy súng ra, hạ cửa kính xuống. Anh hỏi:
– Cô làm quái gì đấy?
– Sẵn sàng như anh vậy.
– Không, ngồi xuống, cúi xuống. Nếu hắn tấn công chúng ta, hắn sẽ ở bên phía cô.
Cô tảng lờ không để ý lời anh.
– Anh nói cho tôi biết khi nào bắt đầu bắn. Chúng ta sẽ giữ cho hắn nằm xuống cho đến khi ta qua khỏi.
Cô nói nghe như đang thực hiện một kế hoạch vĩ đại, và cô nói với vẻ nhiệt tình, nhưng đấy là vì cô không tin Monk có thể chạy xuống đồi một cách nhanh như vậy.
Cô đã lầm về việc này. Cô thấy hắn trước khi John Paul thấy.
– Ngồi xuống dưới đi. – John Paul hét lên.
Cô mở khóa an toàn nơi súng để trả lời anh. Dựa người vào cửa, cô để cánh tay lên cửa sổ, tựa nòng súng lên kính chiếu hậu, và đợi. Cô cúi người xuống được chừng nào hay chừng ấy.
Khi Monk quì xuống, đưa súng lên, John Paul hét lên:
– Bắn!
Họ cùng bắn một lượt, vừa chạy về phía tên giết người vừa bắn. Monk nhào xuống để tránh đạn rồi hắn lăn người và lấy vũ khí lên. Khi họ chạy qua, Avery tiếp tục bắn để cầm chân hắn tại chỗ, buộc hắn phải nằm bẹp xuống đất để tránh đạn.
Bỗng con đường chạy vòng lên núi. Có một đoạn đường đất cắt xuống núi, nhưng John Paul nghĩ rằng với tốc độ anh đang lái mà nếu anh rẽ qua con đường này, thế nào chiếc SUV cũng lật.
– Tôi bắn hết đạn rồi. — Anh vừa nói vừa lấy hộp đạn ra. Cô quay nhìn lui thì bỗng John Paul nắm cổ cô đẩy người cô xuống. – Ngồi xuống dưới sàn. — Anh nói khi kính cửa phía sau bị trúng đạn bể vụn. Họ vẫn tiếp tục leo lên núi, và khi đến khúc đường cong khác rất ngặt thì Monk bắn nổ vỏ bánh xe sau bên trái.
Chiếc xe chạy loanh quanh. Họ leo ra khỏi đường, đâm vào bụi cây, suýt nữa đâm vào gốc cây phía trước, nhưng cuối cùng họ đâm vào tảng đá và dừng lại.
– Nhảy ra!
Anh hét lên, rồi nhảy ra khỏi xe và chạy qua phía bên kia. Avery không biết họ đang ở đâu, cô chỉ biết họ cắm đầu leo lên núi. Tim cô đập thình thịch, gào thét bên tai cô như tiếng nước chảy cuồn cuộn tung bọt trắng xóa. Cô chạy lên cái dốc thẳng đứng rồi đột ngột dừng lại.
– Không! – Cô thét lên.
John Paul dừng lại bên cạnh cô.
– A, đồ quỷ!
Cô muốn khóc khi nhìn xuống dòng nước chảy cuồn cuộn ở phía dưới. Không, không tái diễn nữa. Lắc đầu, cô nói:
– Tôi không nhảy nữa. Tôi không thể nhảy được. Anh không thể bắt tôi phải nhảy.
Khi anh nắm lấy cô, anh có vẻ rất ân hận.
– Chắc là tôi phải bắt cô nhảy thôi.