Đã gần ba tuần trôi qua kể từ ngày những chiếc xe cấp cứu hụ còi náo động cả Pagford còn ngái ngủ. Vào buổi sáng tháng Tư nắng rực rỡ, Shirley Mollison đứng một mình trong phòng ngủ nhìn bóng mình trong tấm gương gắn trên tủ. Bà kiểm tra lại tấm váy áo đang mặc trước khi bắt đầu chuyến đi giờ đã thành nghi thức mỗi ngày đến bệnh viện Trung tâm Tây Nam. Chiếc thắt lưng siết chặt thêm một nấc so với hai tuần trước, mái tóc bạch kim của bà đã tới lúc phải tỉa lại, và vẻ mặt nhăn nhó trước ánh mặt trời rực sắc như dao rọi vào phòng cũng rất khớp tâm trạng thực của bà hiện giờ.
Cả năm nay, Shirley tới lui giữa các khu bệnh, đẩy xe sách, mang những tấm bìa kẹp hồ sơ và hoa cho bệnh nhân, bà chưa khi nào nghĩ ngày nào đó mình cũng trở thành một trong những người phụ nữ nhàu nhĩ đáng thương đang trực bên giường bệnh kia, bánh xe đời họ thế là đã lăn trật đường rầy, chồng họ nằm đó, yếu đuối, gục ngã trước bệnh tật. Howard không phục hồi nhanh chóng như bảy năm về trước. Lão vẫn phải nối với đủ loại máy móc bíp bíp te te, vẫn còn yếu ớt chưa nói năng gì được, vẫn trông phát tởm, vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào người khác, đã thế lại hay làu nhàu. Có vài lúc bà phải vờ đi vệ sinh để tránh ánh nhìn trừng trừng đáng sợ của lão.
Khi có Miles đi cùng đến bệnh viện, bà giao hẳn cho con trai việc chuyện trò với Howard, anh kể cho ông bố nghe mọi tin tức xảy ra ở Pagford dù chẳng có lời hồi đáp. Bà thấy mình được bảo bọc và coi trọng hơn nhiều khi có cậu con trai cao lớn bước cạnh bà trên cầu thang lạnh giá. Anh ân cần nói chuyện với cánh y tá, đỡ bà lên xuống xe hơi, và trả lại cho bà cái cảm giác mình là loài sinh vật hiếm cần chăm chút bảo vệ. Nhưng Miles không thể ngày nào cũng đến, Shirley phát điên vì anh cứ nhờ Samantha thay mình đến bầu bạn với bà mẹ. Hai người hoàn toàn chẳng thể nào thay thế được nhau, dù Samantha là một trong số rất ít người làm cho gương mặt tím bầm đờ đẫn của Howard nở được nụ cười.
Không ai hiểu được nỗi khủng khiếp của bà khi phải trở về căn nhà tĩnh mịch. Khi nghe các bác sĩ thông báo quá trình phục hồi phải mất nhiều tháng, Shirley thầm mong con trai mời bà dọn về căn phòng còn trống trong tòa nhà rộng rãi trên phố Church Row, hay thỉnh thoảng anh sang nhà bố mẹ mà ngủ. Nhưng không, bà bị bỏ ở đó một mình, cô đơn, chỉ trừ ba ngày khốn khổ khi Pat và Melly về thăm.
Mình không khi nào làm chuyện đó – bà tự động nhắc đi nhắc lại tự trấn an mình trong những đêm lặng câm mất ngủ. – Mình không bao giờ muốn như thế. Mình chỉ quá buồn thôi. Mình không bao giờ làm chuyện đó.
Bà vùi kỹ ống Epipen của Andrew vào đám đất mềm dưới bệ cho chim ăn trong vườn như vùi cái xác nhỏ bé. Bà không muốn nhớ rằng nó ở đó. Một đêm tối trời nào đó, sớm thôi, trước ngày đổ rác định kỳ, bà sẽ đào nó lên rồi lén nhét vào thùng rác hàng xóm.
Howard không hề nhắc tới ống kim tiêm đó với bà hay bất kỳ ai khác. Lão cũng không hỏi vì sao bà bỏ chạy khi thấy lão nằm đó.
Shirley thấy nhẹ mình hơn khi quay sang công kích kịch liệt những người mà theo bà đã khiến tai họa rơi xuống gia đình bà. Parminder Jawanda hiển nhiên là tội đồ đầu tiên vì dám nhẫn tâm từ chối đến cứu Howard. Rồi đến hai đứa choai choai kia, chỉ vì cái thói vô trách nhiệm đáng ghê tởm của chúng mà xe cứu thương phải ghé lại, trong khi đúng ra có thể đến cứu Howard sớm hơn.
Câu chỉ trích thứ hai có vẻ không thuyết phục lắm, nhưng người ta khoái nghe những lời bôi xấu Stuart Wall và Krystal Weedon, thế nên Shirley vẫn có khối thính giả sẵn lòng ngồi nghe. Chưa hết, giờ người ta biết được hóa ra thằng nhóc nhà Wall đó chính là Hồn Ma Barry Fairbrother. Nó đã thú tội với bố mẹ, rồi bố mẹ nó gọi điện cho từng nạn nhân mà xin lỗi. Danh tính thực của Hồn Ma nhanh chóng lan nhanh khắp thị trấn, lần này lại thêm chuyện nó cùng liên đới chịu trách nhiệm về cái chết của đứa bé mới có ba tuổi. Thế thì xỉ vả nó bao nhiêu cũng là phải thôi, mà cũng thú nữa.
Shirley mạnh miệng chỉ trích hơn bất kỳ ai khác. Từng câu tố cáo độc địa tuôn ra xóa dần đi cảm giác hâm mộ, thậm chí là chút cảm giác tương lân ngày xưa bà ta từng dành cho Hồn Ma; và hơn hết là để bác bỏ bài đăng kinh tởm cuối cùng mà không có ai, hay chưa có ai, thừa nhận là đã đọc. Nhà Wall không gọi cho Shirley xin lỗi, nhưng bà nghĩ ngay rằng thằng nhãi đó có khi đã kể với bố mẹ, hay có khi ai đó sẽ vạch ra vụ này để dìm thằng Fats cho chết hẳn.
– À vâng, anh Howard với tôi có biết vụ này – Bà dự định đáp thế với vẻ cao ngạo lạnh lùng – tôi tin rằng chính cú sốc đó đã khiến anh ấy phải lên cơn nhồi máu.
Bà thậm chí còn tập nói to câu đó giữa phòng bếp.
Chuyện thằng Stuart Wall có thực sự biết chuyện giữa chồng bà và Maureen không giờ chưa tới nỗi cấp thiết, vì rõ là với tình trạng hiện giờ, Howard không thể làm bà mất mặt theo kiểu đó được nữa, có khi vĩnh viễn về sau cũng vậy, bà cũng chưa nghe ai xì xào bàn tán gì. Vào những khi không tránh được phải ngồi đó một mình cùng Howard, cái câm lặng thoáng mùi phẫn hận giữa hai bên đó sẽ giúp bà đối mặt với viễn cảnh ông hãy còn lâu mới hồi phục và không có ở nhà với thái độ bình tĩnh hơn nhiều so với tưởng tượng của bà ba tuần trước đó.
Chuông cửa réo lên, Shirley vội vã chạy ra. Maureen tập tễnh bước vào trên đôi giày gót cao đến ngớ ngẩn và bộ áo váy xanh biển lòe loẹt.
– Ồ xin chào chị thân mến, mời vào – Shirley chào – Tôi đi lấy cái giỏ.
Dù sao có Maureen đi cùng còn hơn là ngồi một mình. Maureen chẳng hề ngại cái vẻ đờ đẫn của Howard, bà ta vẫn thản nhiên quang quác chuyện này chuyện khác, thế là Shirley sẽ được yên bình ngồi đó nghỉ ngơi và nở nụ cười mèo-ngoan-cao-quý của mình. Dù sao đi nữa, Shirley đang tạm thời nắm phần hùn của Howard trong việc kinh doanh nên bà ta có đủ cách trả thù mối nghi ngờ dai dẳng bằng cách hạ từng nhát dao gạt phăng mọi quyết định của Maureen trong công việc.
– Chị biết vụ gì ngoài kia chưa? – Maureen hỏi – ở nhà thờ Thánh Michael đó? Đám tang của bọn nhỏ nhà Weedon nhá.
– Ở đây sao? – Shirley kinh hãi hỏi.
– Nghe nói người ta tổ chức quyên góp cơ đấy – Maureen thì thào cái tin đồn mà Shirley chưa nghe vì cứ phải liên tục đi đi về về bệnh viện – Ấy, chớ có hỏi tôi là ai đứng ra đầu trò đấy nhá. Dù sao đi nữa, tôi nghĩ nhà đó lẽ nào lại muốn tổ chức ngay cạnh bờ sông thế, chị nhỉ?
(Thằng bé nhọ nhem chẳng biết lễ phép đó vốn chẳng mấy ai biết cũng chẳng ai ưa ngoài mẹ và chị nó, sau khi chết đuối đã lột xác trong lòng dân Pagford, giờ người ta chỉ nghĩ tới nó như tiểu thiên thần dưới nước, trong sáng, dịu dàng, ai cũng muốn yêu muốn nựng, ai cũng mong giá mà cứu được nó.
Nhưng ngọn lửa và cây kim tiêm không giúp Krystal gột sạch danh tiếng của mình được như em, ngược lại, đám dân cố cựu tại Pagford vĩnh viễn coi nó là thứ sinh vật không có linh hồn, chỉ biết chạy theo những trò mà đám người lớn đạo mạo ưa gọi tránh đi là “trò vui”, làm hại chết một đứa bé vô tội.)
Shirley đã khoác áo vào.
– Tin nổi không, hôm đó tôi đã thực sự trông thấy hai đứa nó đấy. – bà nói, mặt mày đỏ ửng – thằng nhóc khóc lóc trong bụi cây, còn con Krystal Weedon và thằng Stuart Wall trong bụi khác thì…
– Thiệt hả? Tụi nó thiệt là đang… – Maureen vồ lấy hỏi.
– Đúng thế – Shirley khẳng định. – Giữa ban ngày ban mặt. Giữa đường thế đấy. Lúc tôi thấy thằng bé đứng ngay sát bờ sông. Chỉ đi vài bước là nó rơi tõm xuống.
Vẻ mặt của Maureen có gì đó khiến bà ta chột dạ.
– Lúc đó tôi đang vội quá – Shirley gay gắt thanh minh – Vì Howard nói ông ấy đang thấy khó ở lắm làm tôi lo phát bệnh. Hôm đó, tôi đâu muốn ra ngoài, nhưng mà Miles với Samantha gửi con bé Lexie qua… nói thật, tôi nghĩ hai đứa nó cãi nhau, rồi Lexie muốn ra tiệm café… Lúc đó tôi chả nghĩ gì được, chỉ tâm tâm niệm niệm làm sao về ngay với Howard… Thật sự mãi lúc sau này tôi mới nhận ra mình vừa chứng kiến cảnh gì… rồi thật là khủng khiếp… – Mặt Shirley đỏ chín chưa từng thấy, rồi bà ngoặt sang điệp khúc ưa thích quen thuộc – Nếu con bé Krystal Weedon không bỏ thằng nhỏ lang thang khi vui thú trong bụi cây như thế, thì xe cấp cứu đã tới cứu Howard nhanh hơn biết bao nhiêu rồi. Vì, chị biết đấy, thêm hai đứa nó nữa… mọi chuyện rối…
– Phải rồi – Maureen ngắt lời khi cùng bước ra phía xe hơi, bà ta đã nghe những chuyện này chán tai rồi – chị biết đấy, không hiểu sao nhà đó lại làm đám ở ngay Pagford này…
Thực ra bà ta chỉ muốn đánh xe chạy qua nhà thờ trên đường đi bệnh viện, bà hau háu muốn xem thử cái nhà Weedon tụ lại với nhau thì thế nào, có khi còn thấy bà mẹ suy đồi rác rưởi đó nữa nhưng rốt cuộc vẫn không nghĩ ra cớ nào nói ra mồm đề nghị ấy.
– Chị biết không, Shirley, dù sao cũng an ủi là – bà ta cất tiếng khi xe rẽ vào đường vòng – chẳng bao lâu khu Fields đó sẽ bị bứng đi. Howard chắc lấy làm an ủi lắm. Sắp tới tạm thời ông ấy không tham gia hội đồng được, nhưng ít ra cũng làm được chuyện đó rồi.
***
Andrew Price từ nhà lao vun vút xuống sườn đồi dốc đứng, mặt trời nóng giãy rọi sau lưng, gió lùa bay mái tóc. Con mắt tím bầm cả tuần này ngả sang màu vàng rồi xanh tím, giờ trông còn tệ hại hơn hồi nó đến trường với con mắt gần như nhắm tịt. Nếu có giáo viên nào hỏi, Andrew đáp là do nó té xe đạp.
Giờ đã vào lễ Phục Sinh, chiều hôm trước, Gaia nhắn tin hỏi Andrew có đi dự đám tang Krystal không. Andrew lập tức trả lời “có” và giờ nó đã đường hoàng trong cái quần jean sạch nhất và áo sơ mi xám, lựa chọn cuối cùng sau bao lần nhấc lên đặt xuống vì nó không có bộ lễ phục nào đúng nghĩa.
Andrew không chắc vì sao Gaia lại muốn đi dự đám tang, có vẻ là vì Sukhvinder Jawanda, dạo này Gaia có vẻ gắn bó thân thiết với Sukhvinder hơn bao giờ hết, chắc vì cô nàng đã sắp quay về London cùng mẹ.
– Mẹ nói đúng ra không bao giờ nên dọn tới Pagford – Gaia vui vẻ kể với Andrew và Sukhvinder lúc ba đứa ngồi trên bức tường thấp cạnh cửa hàng tiện lợi vào giờ nghỉ trưa – Giờ mẹ đã nhận ra gã Gavin đó đúng là đồ khốn nạn.
Gaia cho Andrew số di động, còn nói hai đứa sẽ đi chơi chung khi cô bạn đến Reading thăm bố, lại còn thuận miệng nói là sẽ dẫn Andrew đi thăm thú vài nơi hay ho ở London nếu nó có dịp lên đó. Đang lúc cao hứng, Gaia phóng tay ban phát niềm vui khắp xung quanh như anh lính đến ngày giải ngũ. Những lời hứa dễ dãi đó của cô nàng cũng quá đủ tô vàng mạ bạc lên viễn cảnh dọn nhà của Andrew. Thế nên khi nghe tin bố mẹ nhận được lời hỏi mua nhà, ít ra niềm phấn khích trong nó cũng ngang bằng với nỗi buồn.
Tâm trạng phơi phới thường lệ mỗi khi nó rẽ vòng thật rộng vào phố Church Row hôm nay chìm đâu mất. Andrew nhìn đám người len lỏi giữa khu mộ địa, tự hỏi không biết cái đám tang này sẽ thế nào. Lần đầu tiên trong sáng nay, nó mới nghĩ tới Krystal Weedon một cách rõ ràng cụ thể.
Một mẩu ký ức vùi sâu lâu lắm chợt lóe lên, ngày ấy, ở sân trường Thánh Thomas, thằng Fats đơn giản vì tò mò dúi cho nó viên kẹo dẻo trong có nhồi hạt lạc… Nó còn nhớ cảm giác cổ họng rát bỏng co thít lại. Nó cố gào lên, quỵ xuống, đám trẻ xúm quanh hiếu kỳ dòm ngó, rồi Krystal Weedon khàn khàn hét lên.
– Andi pai mắc dị ứng!
Con bé chạy vụt đi trên đôi chân bé nhỏ chắc nịch đến tận phòng giáo viên, rồi cô hiệu trưởng ôm Andrew chạy tới phòng khám gần đó, rồi bác sĩ Crawford tiêm adrenalin cho nó. Con bé là đứa duy nhất khi đó còn nhớ lời cô giáo giải thích về chứng bệnh đe dọa mạng sống của Andrew trên lớp, đứa duy nhất nhận ra triệu chứng của cậu khi phát cơn.
Krystal đúng ra đã được thưởng ngôi sao vàng, có khi còn được bằng khen Học sinh xuất sắc trong tuần, nhưng ngay ngày hôm sau (Andrew nhớ vụ này rõ mồn một như chuyện của nó), con bé đấm Lexie Mollison gãy hai cái răng.
Andrew cẩn thận dắt xe đạp của bố vào garage nhà Wall rồi miễn cưỡng nhấn chuông, trước giờ nó chưa hề có cảm giác như thế khi đến đây. Tessa Wall ra mở cửa, cô mặc cái áo khoác xám đẹp nhất. Andrew bực bội, chính vì cô này mà con mắt nó bầm đen thế.
– Vào đi cháu – Tessa nói, trông cô có vẻ căng thẳng – một phút nữa là nhà cô đi được.
Andrew đứng đợi ngay hành lang, tấm kính màu trên cửa hắt luồng sáng đủ màu trên sàn nhà. Tessa bỏ vào bếp, Andrew thoáng thấy Fats mặc bộ đồ đen đang ngồi rúm ró trên ghế như con nhện bị đạp nát, vòng tay che đầu như tránh đòn.
Andrew quay lưng lại. Từ lúc Andrew dẫn Tessa đến chỗ Hốc Đá, hai đứa không nói năng gì với nhau. Hai tuần nay, Fats cũng không đi học. Andrew gửi cho nó vài tin nhắn nhưng Fats không trả lời. Trang Facebook của nó cũng đóng băng kể từ ngày Howard Mollison mở tiệc.
Một tuần trước, Tessa đột nhiên điện đến nhà Price, thông báo là Fats thừa nhận đã đăng tất cả các bài dưới tên Hồn Ma Barry Fairbrother, cô ngỏ lời xin lỗi sâu sắc vì những hậu quả mà gia đình Price phải chịu.
– Làm quái nào mà thằng đó biết tao có máy vi tính? – Simon gầm lên, xông lại chỗ Andrew – Sao thằng chó Fats Wall biết được tao làm mấy việc ngoài giờ ở xưởng in hả?
Andrew chỉ thấy an ủi một điều duy nhất là nếu ông bố biết được sự thật, chắc chắn gã sẽ mặc kệ bà mẹ đang cố can ngăn mà tiếp tục nện Andrew cho tới khi nó bất tỉnh nhân sự.
Andrew không biết vì sao Fats vờ là tác giả của tất cả các bài đăng đó. Có lẽ do con người nó là thế, nó quyết phải giữ cái vai đạo diễn cho mọi chuyện, phải là đứa xấu xa kinh khủng hơn hết thảy. Hoặc cũng có thể nó nghĩ gánh đỡ hết cho đám còn lại là cao thượng lắm. Dù sao đi nữa, Fats gây ra nhiều rắc rối hơn nó tưởng nhiều, Andrew nghĩ khi vẫn đứng chờ ngoài hành lang. Thằng ấy lúc nào cũng an ổn trong căn phòng áp mái với ông bố bà mẹ văn minh thế này thì có bao giờ hiểu được sống với một người như Simon Price là như thế nào đâu.
Andrew nghe tiếng vợ chồng nhà Wall đang thì thầm trao đổi, họ không khép cửa bếp.
– Bây giờ mình phải đi – Tessa nói – nó có bổn phận đạo đức, nó nhất định phải đi.
– Nó chịu trừng phạt thế là đủ rồi – thầy Tủ nói.
– Em đâu có bắt nó đi chịu tội…
– Thật thế hả? – thầy Tủ đanh giọng – Vì Chúa, Tessa. Em có chắc là nhà họ muốn nó tới đó không? Em đi đi. Stu ở nhà với anh.
Một phút sau, Tessa ló ra khỏi bếp, sập mạnh cửa lại.
– Stu không đi đâu Andy – rõ ràng là cô đang giận điên người – Cô rất xin lỗi.
– Không sao ạ – nó lầm bầm. Thật ra nó thấy mừng. Nó không biết hai thằng còn gì để mà nói chuyện với nhau. Giờ thì nó có thể yên tâm ngồi cạnh Gaia rồi.
***
Dưới phố Church Row, Samantha Mollison cầm tách café đứng bên cửa sổ phòng khách nhìn đoàn người dự đám đi ngang nhà cô đến nhà thờ Thánh Michael và Các Thánh. Khi thấy Tessa Wall đi cùng người cô ngỡ là Fats, cô thở hắt ra.
– Ôi trời ơi, nó đi. – Cô nói to dù nhà chẳng có ai.
Rồi cô nhận ra Andrew, cô đỏ mặt lên, vội vàng quay phắt khỏi cửa.
Samantha định ở nhà làm việc. Chiếc laptop mở sẵn đặt trên ghế sofa đằng sau, nhưng sáng nay, cô tròng vào bộ váy đen cũ, lưỡng lự không biết có nên đi dự đám tang của Krystal và Robbie Weedon hay không. Chỉ còn vài phút nữa để quyết định.
Chưa khi nào cô nói một lời tử tế về Krystal Weedon, cô đi dự đám chỉ vì có thấy cáo phó trên tờ Yarvil và District Gazette; và vì gương mặt bầu bĩnh của Krystal toe toét cười trong tất cả những tấm hình chụp ở trường Thánh Thomas mà Lexie mang về nhà, thế chẳng phải là đạo đức giả sao?
Samantha đặt tách café xuống, bước vội ra chỗ đặt điện thoại gọi cho chồng.
– Chào cưng – anh nhấc máy.
(Lúc ở bên giường bệnh Howard, cô ôm lấy anh an ủi trong khi anh nức nở nhẹ nhõm vì ông bố nằm đó nối với đủ thứ máy móc, nhưng ít ra vẫn sống)
– Chào – cô đáp – anh thế nào?
– Cũng được. Sáng nay bận quá. Nghe giọng em vui lắm – anh nói – em ở nhà ổn chứ?
(Tối qua hai người làm tình với nhau, cô không hề phải cố tưởng tượng anh là bất cứ ai khác.)
– Lễ tang sắp bắt đầu rồi – Samantha nói – Người ta đi ngang…
Cô cố nén điều mình muốn nói gần ba tuần nay vì việc của Howard và đủ thứ bận rộn trong bệnh viện, và cũng vì không muốn gợi cho Miles nhớ lại trận cãi vã không ra sao giữa hai vợ chồng, nhưng giờ cô không nén được nữa.
-… Miles. Em đã thấy thằng bé. Robbie Weedon ấy. Em có thấy nó, Miles. – Cô lập cập nói – Sáng hôm đó, em thấy nó ở sân trường Thánh Thomas lúc đi ngang.
– Ở sân chơi à?
– Chắc là nó đi quanh quẩn lúc hai đứa kia đang… nó có một mình thôi. – Trước mắt cô lại hiện lên hình ảnh thằng bé nhọ nhem bù xù. Cô cứ luôn hỏi đi hỏi lại chính mình, giả sử nó trông sạch sẽ tươm tất hơn, có phải cô sẽ để ý đến nó hơn không? Đâu đó trong tiềm thức, cô nhầm những dấu hiệu rành rành của một đứa bé bị bỏ bê với vẻ tinh ranh dày dạn bụi đời. – em cứ nghĩ nó vào chơi, nhưng chẳng thấy ai đi với nó cả. Nó mới có ba tuổi rưỡi thôi, anh à. Sao em lại không hỏi thăm một câu xem nó đi với ai cơ chứ?
– Kìa em kìa em – Miles nói với cái giọng “thôi nào” rõ rệt, cô lập tức thấy nhẹ người, mắt ầng ậng nước, anh ấy đang chìa vai cho cô. – em không có gì đáng trách hết. Em đâu biết được. Có khi em tưởng mẹ thằng bé đâu đó không thấy thôi.
(Vậy là anh ấy không ghét cô, không cho là cô có tội. Samantha dạo này trở nên nhún nhường hơn nhiều trước lòng khoan dung của chồng.)
– Em không chắc nữa – cô nói yếu ớt – Miles ơi, nếu mà lúc đó em hỏi thăm nó…
– Lúc em gặp thằng bé đâu có gần bờ sông đâu.
Nhưng nó đang ở gần đường lộ, Samantha nghĩ.
Ba tuần qua, Samantha trở nên khao khát được là một phần của thứ gì đó lớn hơn bản thân cô. Ngày qua ngày, cô chờ nỗi khao khát đó dịu đi (Người ta đâm ra tin vào tôn giáo theo con đường thế này đây, cô cố tự cười nhạo mình thế), nhưng nó chỉ ngày càng mãnh liệt hơn.
– Miles này – cô cất tiếng – anh biết đấy, hội đồng… cha anh… rồi Parminder Jawanda xin nghỉ… chắc anh cũng cần chỉ định kết nạp thêm vài người, phải không? – Cô biết rõ hết các thuật ngữ liên quan vì đã nghe bàn chuyện hội đồng nhiều năm nay rồi – Ý em là, anh đâu muốn tổ chức bầu cử nữa, sau tất cả những chuyện này, phải không?
– Chết tiệt, tất nhiên là không rồi.
– Thế thì, Colin Wall sẽ ngồi được một ghế này – cô hấp tấp nói – và em nghĩ là… em có thời gian rảnh… giờ chỉ kinh doanh trực tuyến thôi… em có thể nhận một ghế nữa.
– Em à? – Miles sửng sốt.
– Em cũng muốn tham gia góp một tay – Samantha nói.
Krystal Weedon chết năm mười sáu tuổi, tự nhốt mình trong căn nhà nhỏ bẩn thỉu trên đường Foley… Hai tuần nay, Samantha không uống cốc rượu nào. Cô đang muốn nghe các luận điểm về trung tâm cai nghiện Bellchapel.
Điện thoại nhà số 10 đường Hope reo lên. Kay và Gaia đúng ra đã phải đi từ nãy mới kịp giờ dự đám tang Krystal. Gaia nghe đầu dây kia xưng tên xong bỗng đanh mặt lại, trông con bé già hẳn đi.
– Gavin này – nó bảo mẹ.
– Mẹ đâu có gọi cho gã – Kay thì thào căng thẳng như cô nữ sinh khi cầm lấy ống nghe.
– Chào em, em khỏe không? – Gavin hỏi.
– Đang chuẩn bị đi đám tang – Kay đáp, nhìn đăm đám con gái – Mấy đứa nhỏ nhà Weedon. Vậy nên chẳng có gì hay ho cả đâu.
– Ờ – Gavin đáp. – Lạy Chúa, đúng rồi. Anh rất tiếc, anh không biết.
Gã để ý cái họ quen thuộc được giật tít trên tờ Yarvil và District Gazette và cũng mua một tờ. Gã nhớ ra mình từng đi qua sát chỗ ba đứa trẻ hôm đó, nhưng không nhớ rõ là có thấy Robbie Weedon hay không.
Vài tuần nay, Gavin thấy mình lạc lõng trống trải. Gã thấy nhớ Barry vô cùng. Gã cũng không hiểu được chính mình nữa, đúng ra gã phải chìm trong đau khổ vì Mary từ chối gã chứ, thế mà giờ gã chỉ muốn được uống cốc bia với người bạn mà gã từng mơ chiếm được bà vợ…
(Lúc rời nhà Mary, gã nói to thành tiếng mà không để ý mình sảy miệng – Đó là thứ mày nhận được khi cố cuỗm lấy cuộc sống của ông bạn thân nhất đấy)
– Này em – gã lại hỏi – Xong vụ đó em có muốn đi uống nước với anh không?
Kay thiếu chút nữa phá ra cười.
– Chị ta cho de rồi chứ gì?
Cô đưa máy cho Gaia gác về chỗ cũ. Hai mẹ con vội vã ra khỏi khỏi nhà, chạy đến cuối đường lên hướng quảng trường. Lúc chạy ngang Black Canon, Gaia nắm lấy tay mẹ.
Hai mẹ con đến lúc chiếc xe tang xuất hiện ở đầu đường, họ chạy vội vào khu nghĩa địa lúc những người hộ tang đang chầm chậm bước ra vỉa hè.
– Đứng tránh cái cửa sổ ra – Colin Wall lệnh cho cậu con.
(Nhưng Fats vẫn bước lại gần, cho dù từ nay về sau nó mãi mãi sẽ phải sống với nỗi hèn nhát đè nặng, nó vẫn muốn chứng minh mình đương đầu được, ít ra là chuyện này…
Những chiếc quan tài lấp lánh dưới nắng lần lượt được đưa vào xe tang có kính đen; chiếc đầu tiên là màu hồng rực rỡ, nó nghẹn cả thở; chiếc thứ hai nhỏ xíu, màu trắng bóng…
Colin đến chắn người trước mặt Fats quá trễ, nhưng ông vẫn buông kín rèm. Cũng trong căn phòng khách thân quen tối mờ mờ này, Fats thừa nhận chính nó đã tiết lộ bệnh tình của ông bố cho mọi người; thừa nhận mọi chuyện nó nghĩ ra, những mong người ta cũng cho là tâm thần nó bất ổn; cũng tại đây nó cố vạch ra đủ thứ tội lỗi để người ta đánh nó, đâm nó hay bất kỳ đòn trừng phạt nào nó biết mình đáng phải chịu. Colin nhẹ nhàng đặt tay lên lưng nó, đẩy nó ra chỗ phòng bếp ngập nắng.)
Bên ngoài nhà thờ Thánh Michael và các Thánh, những người hộ tang đã sẵn sàng đưa hai cỗ quan tài vào nhà thờ. Dane Tully cũng trong số đó, hôm nay nó mặc áo choàng đen dày nặng, tai đeo khuyên, cổ xăm hình mạng nhện.
Nhà Jawanda đứng chờ cùng nhà Bawden dưới bóng thông. Andrew Price loanh quanh gần đó, Tessa Wall mặt mày nhợt nhạt cứng ngắc đứng cách đó một quãng. Những người đưa tang khác tản thành từng nhóm quanh cửa nhà thờ. Có người mang vẻ túng quẫn mà nghênh ngáo, có người trông cam chịu mệt mỏi, một số mặc trang phục đen rẻ tiền, số lớn còn lại mặc đồ jean hay đồ thể thao, có cô bé còn mặt áo thun hớt vạt lộ ra khoen rốn lấp lóe bắt nắng khi nó bước đi. Những chiếc quan tài được đưa vào nhà thờ, lấp lánh dưới ánh nắng rực rỡ.
Chính Sukhvinder chọn quan tài hồng sáng cho Krystal, nó chắc bạn mình thích thế. Cũng chính là Sukhvinder lo liệu hầu như mọi sự: sắp xếp, chọn lựa, thuyết phục. Parminder luôn sát bên trông chừng con gái, chốc chốc lại giúp nó gạt tóc khỏi mặt hay sửa lại cổ áo nhăn, cốt có cớ để chạm vào con.
Cũng như Robbie khi ra khỏi dòng sông đã trở nên tinh sạch và được cả thị trấn tiếc thương, Sukhvinder Jawanda hóa thành nữ anh hùng vì liều mình cứu đứa bé. Từ bài báo về nó trên tờ Yarvil và District Gazette lẫn những lời ca tụng của Maureen Lowe, rằng bà ta đang đề nghị cảnh sát tặng phần thưởng đặc biệt cho nó, rồi đến bài diễn văn cô hiệu trưởng viết về nó và đọc trước toàn trường, Sukhvinder biết, lần đầu tiên nó đã át được ánh hào quang của các anh chị.
Nó đã từng cực kỳ căm ghét tất cả những điều vừa phải trải qua. Ban đêm, nó mơ thấy sức nặng của cậu bé đã chết trong vòng tay cố lôi nó xuống cõi sâu thẳm, nó nhớ lại nỗi cám dỗ đẩy quách thằng bé ra để tự cứu mình, và không biết mình cưỡng lại được bao lâu. Vết rách ở chân ngứa xót dù nó nằm yên hay nhúc nhích. Cái chết của Krystal Weedon làm bố mẹ nó hoảng hốt mời sẵn cho nó chuyên gia tư vấn, nhưng từ lúc được kéo dưới sông lên, nó không tự rạch tay lần nào nữa. Lần suýt chết đuối ấy dường như đã tẩy sạch khao khát tự hủy mình của nó.
Rồi ngày đầu tiên nó đi học lại, Fats Wall vẫn còn nghỉ, bạn bè khâm phục liếc nhìn nó suốt dọc cầu thang. Nó nghe đồn Terri Weedon không có tiền chôn cất hai con, nên người ta sẽ chỉ cấp cho hai đứa quan tài hạng rẻ nhất, không có bia đá.
– Thế thì buồn thật, Jolly – tối đó mẹ nó bảo thế khi cả nhà cùng ngồi ăn tối dưới bức tường treo đầy ảnh gia đình. Giọng bà mẹ giờ nhẹ nhàng như cô cảnh sát hôm đó, bà không còn vẻ gắt gỏng khi nói với con gái.
– Con muốn cố gắng vận động mọi người góp tiền – Sukhvinder nói.
Parminder và Vikram liếc nhìn nhau. Cả hai đều lập tức muốn bác cái ý định hỏi xin mọi người trong thị trấn góp tiền cho một chuyện kiểu này nhưng không ai nói ra. Từ khi nhìn thấy cánh tay con gái, hai người có hơi sờ sợ làm Sukhvinder buồn, cái bóng của vị-tư-vấn-viên-chưa-tìm-được đó như lởn vởn xung quanh mỗi khi họ nói chuyện với con gái.
– Với lại – Sukhvinder sôi nổi nói tiếp với quyết tâm rừng rực giống hệt bà mẹ – Con nghĩ nên tổ chức tang lễ tại đây, ngay nhà thờ Thánh Michael này. Như đám tang của ông Fairbrother vậy. Krys quen đi lễ ở đây khi tụi con còn học trường Thánh Thomas. Con nghĩ chưa bao giờ bạn ấy vào ngôi nhà thờ nào khác.
Ánh sáng của Thượng Đế soi rọi mọi linh hồn, Parminder nghĩ, rồi bà bất ngờ nói, trước vẻ ngạc nhiên của ông chồng – Ừ, được rồi. Để xem bố mẹ giúp được gì.
Chi phí đám tang chủ yếu do nhà Jawanda và nhà Wall tài trợ, Kay Bawden, Samantha Mollison và vài bà mẹ của các cô gái trong đội đua thuyền cũng góp tiền. Sukhvinder còn nhất định đòi đi khu Fields để giải thích cho Terri rõ về đội đua thuyền, về chuyện mọi người đang làm và lý do vì sao cần như thế, cả lý do vì sao nên tổ chức tang lễ cho Krystal và Robbie tại nhà thờ Thánh Michael.
Parminder đặc biệt lo lắng chuyện Sukhvinder tới khu Fields rồi một mình vào trong căn nhà bẩn thỉu đó, nhưng Sukhvinder biết chắc nó sẽ không sao. Nhà Weedon và Tully đều biết nó cố cứu Robbie. Dane Tully không còn nhại nó trong giờ Anh văn và cũng ngăn không cho bọn bạn nó làm thế nữa.
Terri đồng ý với mọi chuyện Sukhvinder đề nghị. Cô ta hốc hác, bẩn thỉu, chỉ trả lời nhát gừng và hoàn toàn thụ động. Sukhvinder sợ cánh tay đầy sẹo dúm dó và hàm răng sún của cô ta, thật chẳng khác nào trò chuyện với cái xác sống.
Bên trong nhà thờ, những người đưa đám chia thành hai nhóm rõ rệt, nhóm khu Fields ngồi ở cánh trái còn dân Pagford ngồi bên phải. Shane và Cheryl Tully kè Terri lên hàng ghế đầu. Terri trong cái áo khoác rộng quá khô có vẻ sợ sệt khi nhận ra mình đang ở đâu.
Hai chiếc quan tài nằm song song trên bục phía trước nhà thờ. Một mái chèo bằng hoa cúc vàng đặt trên quan tài của Krsytal, dành cho Robbie là con gấu trắng cũng kết bằng hoa cúc.
Kay Bawden nhớ lại phòng ngủ của Robbie lăn lóc vài món đồ chơi nhựa lầm bụi, mấy ngón tay cô run rẩy khi đan vào nhau làm lễ. Chắc chắn cô sẽ bị thẩm vấn vì tờ báo địa phương kêu gào đòi làm thế, còn dành hẳn cả bài trên trang nhất lên án rằng cậu nhỏ bị giao vào tay hai kẻ rác rưởi, rằng đúng ra cậu bé không phải chết nếu nhân viên xã hội thiếu trách nhiệm đã đưa cậu tới nơi ở an toàn hơn. Mattie lập tức xin nghỉ phép vì stress lần nữa, vai trò của Kay khi làm đánh giá ca điều trị đang bị xem xét. Kay không biết chuyện này ảnh hưởng thế nào đến cơ hội kiếm việc tại London, trong khi bây giờ mọi chính quyền địa phương đều đang cắt giảm số lượng nhân viên xã hội, vả lại không biết Gaia sẽ phản ứng thế nào nếu hai mẹ con phải ở lại Pagford nữa… Cô vẫn chưa dám bàn với con chuyện đó.
Andrew liếc sang Gaia, hai đứa cùng mỉm cười với nhau, ở Nhà Trên Đồi, Ruth đã bắt đầu sắp xếp đồ đạc chuẩn bị dọn đi. Andrew thấy rõ mẹ mình đang hy vọng với tính lạc quan cố hữu của mình, rằng khi hy sinh ngôi nhà lẫn cảnh đồi đẹp đẽ này, gia đình họ sẽ có được khởi đầu hoàn toàn mới. Mẹ nó luôn gắn với ông bố, bất kể những cơn điên giận và thói quanh quéo của ông ta… cô mong những điều xấu đó sẽ bị bỏ lại nơi này, như những thùng hộp người ta vẫn bỏ quên khi dọn nhà… Nhưng ít nhất, Andrew nghĩ, khi dọn đi nó sẽ gần London hơn, và Gaia cũng đã nói rồi, bạn ấy làm thế với Fats chẳng qua là vì say quá đến không biết gì đó thôi; mà có lẽ Gaia sẽ mời mình và Sukhvinder về nhà uống café sau khi tang lễ chấm dứt không chừng…
Gaia chưa khi nào vào trong nhà thờ Thánh Michael, nó lơ đễnh nghe giọng ông mục sư ngân nga, mắt vẩn vơ nhìn trần nhà vẽ những ngôi sao và những ô cửa sổ gắn kính màu rực rỡ. Đến lúc sắp ra đi, nó chợt nhận ra Pagford cũng có chỗ đáng yêu để mà nhớ…
Tessa Wall ngồi một mình sau lưng tất thảy. Thế nghĩa là cô ngồi dưới ngay ánh nhìn chằm chằm bình thản của Thánh Michael đang vĩnh viễn đạp chân lên con quỷ có sừng và đuôi đang quằn quại. Tessa thoạt nhìn thấy hai cỗ quan tài sáng bóng đã ứa nước mắt, cô cố nén, nhưng những người bên cạnh vẫn nghe tiếng nấc ầng ậc. Cô còn nghĩ người nhà Weedon nhận ra cô chính là mẹ của Fats và làm ầm lên, nhưng không có gì xảy ra cả.
(Cuộc sống gia đình cô đã hoàn toàn đảo ngược. Colin phát khùng lên với vợ.
– Cô nói gì với nó chứ?
– Thì nó muốn nếm trải vị đời thực mà – cô nức nở – nó muốn thấy những thứ xấu xa chôn vùi sâu kín trong người khác mà… anh không hiểu tất cả những trò nó làm là vì cái gì sao?
– Thế nên cô bảo nó nó rằng bố mẹ nó loạn luân, rằng tôi thì tự sát khi nhận nó về nuôi hả?
Bao nhiêu năm cố gắng làm hai bố con hòa thuận; giờ điều đó đã đạt được khi một đứa bé đã phải chết đi và Colin thật sự hiểu được ý nghĩa của tội lỗi. Tối hôm trước, cô đứng chỗ cầu thang nghe lén hai bố con trò chuyện với nhau trong căn phòng áp mái.
– Con có thể,… tẩy sạch cái giả thiết mẹ con nói ra khỏi đầu hoàn toàn đi – Colin khàn khàn nói – Con đâu có bệnh tật gì về tâm thần lẫn thể chất, đúng không? Thế thì… thôi đừng nghĩ tới chuyện đó nữa. Tư vấn viên của con sẽ giúp con vượt qua mọi chuyện…)
Tessa nấc lên trong tấm khăn giấy ước sũng, những gì cô đã làm được cho Krystal ít ỏi biết bao nhiêu, con bé chết trong phòng tắm… Giá mà Thánh Michael bước xuống từ khung cửa rực sáng kia và phán xử tất thảy, giá mà ông chỉ rõ cô phải gánh bao nhiêu phần trách nhiệm cho những cái chết kia, cho những cuộc đời vỡ nát, cho tất thảy những chuyện rối bời này… Một cậu nhóc nhà Tully phát chán nhảy khỏi ghế, người phụ nữ xăm mình vội vươn cánh tay khỏe mạnh ra chộp lấy nó kéo lại. Cơn nấc của Tessa tạm ngắt bằng tiếng ớ ngạc nhiên. Cô nhận ra chiếc đồng hồ đã mất của mình trên cổ tay dày mập của chị ta.
Sukhvinder nghe tiếng nấc của Tessa, nó thấy tội nghiệp cô nhưng không dám quay lại. Parminder vẫn còn giận Tessa cháy người. Khi giải thích về những vết sẹo trên tay, Sukhvinder không thể nào tránh nhắc tới Fats Wall. Nó đã xin mẹ đừng gọi sang nhà Wall, nhưng chính Tessa lại gọi sang kể rằng thằng Fats là người duy nhất đăng bài trên website hội đồng dưới tên Hồn ma Barry Fairbrother, thế là Parminder tuôn ra cả tràng cay độc trên điện thoại đến nỗi từ đó đến nay hai bà không nói gì với nhau nữa.
Nó thấy lạ vì Fats nhận tội cả cho bài nó viết, Sukhvinder nghĩ hành động đó gần như một lời xin lỗi. Thằng đó lúc nào cũng có vẻ đọc thấu ý nghĩ của nó, vậy liệu nó có đoán ra chính con bé đả kích mẹ mình không? Sukhvinder không biết nó có thể nào thừa nhận sự thật với người tư vấn mới mà bố mẹ nó xem ra rất tin tưởng, hay là có khi nào kể được chuyện ấy với bà mẹ giờ đã ăn năn và tử tế với nó hơn nhiều…
Nó cố tập trung vào buổi lễ nhưng không khuây lãng được như mong đợi. Nó rất thích mái chèo và con gấu bằng bông cúc mà mẹ Lauren bỏ công ngồi kết; nó vui vì Gaia và Andrew đều đến, cả những bạn trong đội chèo thuyền nữa, chỉ tiếc là hai chị em nhà Fairbrother không đi.
(- Mẹ tụi mình sẽ buồn lắm – Siobhan nói với Sukhvinder – mẹ mình nghĩ bố dành quá nhiều thời gian cho Krystal mà.
– Ồ – Sukhvinder ngạc nhiên.
– Với lại – Niamh nói thêm – mẹ không thích phải nhìn thấy bia mộ của Krystal mỗi khi tới viếng bố. Chắc là hai mộ khá gần nhau mà.
Sukhvinder nghĩ mấy lý do đó thật vụn vặt chẳng ra làm sao, nhưng nghĩ thế về bà Fairbrother có vẻ bất kính sao đó. Hai chị em khoác tay nhau bỏ đi, dạo này chúng nó vẫn thường cặp kè với nhau thế, và làm mặt lạnh với Sukhvinder vì nó theo chơi với con nhỏ “người ngoài” Gaia Bawden.)
Sukhvinder chờ ai đó đứng dậy nói về con người thực sự của Krystal, về những gì bạn nó đã làm được trong đời, như những gì bác của Niamh và Soibhan đã nói về ông Fairbrother, nhưng ngoài những lời ngắn ngủi của ông mục sư về “những cuộc đời ngắn ngủi khổ đau” và “gia đình đã gắn bó lâu đời tại Pagford này”, hình như ông ấy muốn tránh nhắc tới những sự thật khác.
Vậy là Sukhvinder tập trung nhớ lại ngày đội đua thuyền tham gia vòng chung kết cấp vùng. Hôm đó ông Fairbrother chở cả đội trên chiếc xe buýt mini đến gặp đội trường Thánh Anne. Con kênh đào chảy ngang qua sân trường đó nên ban tổ chức quyết định đội đua sẽ thay đồ trong phòng thể thao và bắt đầu cuộc đua ngay từ đoạn kênh đó.
– Chả có tinh thần thể thao gì cả – ông Fairbrother nói với cả bọn – lợi thế sân nhà mà. Chú cố phản đối rồi mà họ vẫn không lay chuyển. Ta đừng thèm sợ gì, nhé?
– Cháu cóc sợ cái mẹ gì…
– Krys…
– Cháu không sợ.
Nhưng vừa bước vào sân trường kia là Sukhvinder thấy khớp ngay. Thảm cỏ xanh mềm mượt trải dài, tòa nhà bằng đá vàng cao vút với những ngọn chóp và hàng trăm cửa sổ, trừ hình ảnh trên mấy tấm bưu thiếp, nó chưa bao giờ thấy cảnh nào như thế.
– Cứ như điện Buckingham ấy! – Lauren the thé kêu đằng sau nó, mồm Krystal tròn ra thành chữ O, đôi lúc nó bộc lộ cảm xúc thành thật như trẻ thơ.
Bố mẹ cả bọn, kể cả bà cố của Krystal đang chờ ở vạch đích, Sukhvinder biết chắc nó không phải đứa duy nhất thấy mình bé nhỏ, sợ sệt và bị áp đảo khi bước qua lối vào tòa nhà đẹp đẽ đó.
Một cô mặc trang phục nhân viên văn phòng chạy ra chào mừng ông Fairbrother đang mặc đồ thể thao.
– Hẳn anh là Winterdown nhỉ!
– Tất nhiên là không rồi, trông ông ấy giống cái tòa nhà chết toi đó hả? – Krystal nói lớn.
Cả đám thấy rõ là bà cô trường Thánh Anne nghe được, ông Fairbrother quay lại chau mặt nhìn Krystal, nhưng rõ là ông ấy cũng đang buồn cười. Cả đội rộ lên cười rinh rích, mãi tới khi ông Fairbrother đưa tụi nó tới cửa phòng thay đồ.
– Cố lên! – Ông kêu to.
Đội đua trường Thánh Anne đã chờ sẵn trong đó cùng huấn luyện viên. Hai nhóm con gái đọ mắt qua mấy chiếc ghế dài. Sukhvinder choáng người nhìn mái tóc của các cô nàng đội kia. Tóc đứa nào cũng dài, trông tự nhiên và sáng bóng, tưởng như đóng quảng cáo dầu gội đầu ngay được. Đội nó thì Siobhan và Niahm cắt đầu bob, tóc Lauren cụt ngủn, Krystal túm tóc đuôi ngựa cao, còn mái tóc dày bù xù của Sukhvinder dựng lên như bờm ngựa.
Nó thấy hai đứa con gái đội Thánh Anne thì thầm cười mỉa gì đó, chắc chắn là thế, vì Krystal đã đứng phắt dậy nhìn tụi nó mà bảo – Nghĩ cứt tụi mày thơm như hoa hồng đấy hả?
– Em vừa nói gì thế? – huấn luyện viên đội kia gằn giọng.
– Chỉ hỏi cho biết thôi mà – Krystal ngọt ngào đáp, quay lưng tụt quần xuống.
Đúng là không nhịn được cười, đội Winterdown cười đến phát nấc khi thay đồ. Krystal lượn lờ chọc ghẹo, khi đội kia xếp hàng đi ra, Krystal lại tụt quần chổng mông vào bọn nó.
– Đẹp đấy! – con bé cuối hàng bình luận.
– Cảm ơn nhá – Krystal gọi với theo – Nếu thích thì đây lại cho xem nữa. Tụi mày đồng tính cả lũ mà – nó réo nốt – cả đống dồn cục với nhau cóc có thằng đực rựa nào!
Holly cười gập cả bụng đến nỗi đập đầu vào cánh cửa khóa kín.
– Coi chừng, Hol – Krystal nói, khoái chí trước hiệu ứng nó đem lại – còn phải xài cái đầu của mày đó.
Lúc xuống kênh đào, Sukhvinder hiểu ngay vì sao ông Fairbrother yêu cầu đổi địa điểm. Ở vạch xuất phát, chỉ có mỗi ông đại diện cổ vũ Winterdown, trong khi bạn bè đội Trường Thánh Anne tràn ngập, hò hét vỗ tay nhảy nhồt ầm ĩ, đứa nào đứa nấy đều tóc dài óng mượt hệt như nhau.
– Ê – Krystal hét ầm lên, chỉ tay vào đám đông. – Lexie Mollison kìa! Nhớ hồi tao tát gãy răng mày không Lex?
Sukhvinder cười đau cả bụng. Nó vừa vui vừa hãnh diện được đi cạnh Krystal thế này, chắc chắn mấy đứa khác cũng thế. Cái kiểu ngạo nghễ của con bé bảo vệ cả đội trước những ánh nhìn chằm chằm, dàn cờ phấp phới và tòa nhà to đẹp như cung điện đằng sau.
Nhưng lúc trèo vào vị trí quen thuộc sau lưng Krystal trên thuyền, nó nhận ra cô bạn không phải không chịu sức ép. Krystal quay ra sau khoe với Sukhvinder thứ nó đang cầm trong tay.
– Bùa hên của tao đó. – Trong tay nó là trái tim bằng nhựa đỏ gắn vào móc chìa khóa, trong lồng hình cậu em trai nhỏ.
– Tao có hứa mang huy chương về cho nó – Krystal giải thích.
– Chắc rồi – Sukhvinder vừa tin tưởng vừa run – Được mà.
– Ờ – Krystal quay lên trên, nhét móc chìa khóa vào áo lót. – Thắng là chắc rồi – Nó nói to cho toàn đội đều nghe – Toàn bọn õng ẹo. Chơi tụi nó!
Sukhvinder nhớ mồn một tiếng súng hiệu, rồi đám đông hò hét, cơ bắp nó căng ra. Nhớ niềm phấn chấn khi cả đội phối hợp nhịp nhàng, cùng nỗ lực sống chết sau tràng cười vừa nãy. Krystal đã đánh bay lợi thế sân nhà của bọn kia vì cả đội. Sukhvinder từng ước gì mình được như bạn: hài hước, cứng cỏi, lúc nào cũng sẵn sàng xông ra chiến đấu, không bao giờ để ai bắt nạt.
Nó đã xin phép Terri Weedon hai điều và đều được chấp thuận, Terri vốn vẫn luôn thuận theo ý mọi người như thế. Giờ chiếc huy chương ngày đó được đeo ngay ngắn trên cổ Krystal. Điều thứ hai tận cuối buổi lễ mới thành hiện thực, và lần này khi tuyên bố điều ấy, giọng ông mục sư đầy vẻ cam chịu.
Good girl gone bad
Take three
Action.
No clouds in my storms
Let it rain, I hydroplane into fame
Comin’ down with the Dow Jones…
Cô gái ngoan một lần phóng túng
Đếm tới ba nhé.
Dzô nào.
Mây mù không vương cơn bão tôi
Sợ gì mưa rơi, tôi lướt đến huy hoàng danh tiếng
Lao dốc cùng Dow Jones…
Gia đình Weedon gần như phải nhấc bổng Terri lùi xuống khu dự lễ lót thảm màu xanh dương thẫm, những người dự tang ngoảnh nhìn nơi khác.